Giới thiệu
Dịch giả: Đinh Minh Hương
Nguồn: NXB Văn học
Nội dung thu gọn
Rời New York, Rhyme cùng Amelia Sachs và người trợ lý trung thành Thom đến Bắc Carolina để tiến hành cuộc phẫu thuật mà anh đã chờ đợi từ lâu. Nhưng vừa đặt chân đến Tanner’s Corner, họ bị lôi kéo ngay vào vụ án đang làm náo loạn nơi này. Hai cô gái bị bắt cóc, những cái chết vì ong bắp cày… Có vẻ như tất cả đều liên quan đến Thằng Bọ, và chỉ cần lần ra dấu vết của gã trai, vụ án sẽ khép lại. Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com) Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com) Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Nhưng mọi chuyện không đơn giản như vậy, sự kém cỏi và phức tạp của cảnh sát địa phương, mưu mô của những kẻ phá bĩnh đã khiến cho vụ án ngày càng rắc rối. Rhyme cứ mãi quẩn quanh với những chứng cứ và nghi vấn: liệu Thằng Bọ có phải là thủ phạm? Cuộc truy tìm tưởng như đã rơi vào bế tắc chỉ thực sự bắt đầu khi Amelia giải thoát cho Thằng Bọ và chạy trốn cùng hắn và phía đầm lầy Sầu Thảm.
15.06.2015
PHẦN 1: PHÍA BẮC SÔNG PAQUO
CHƯƠNG 1
Dịch giả: Đinh Minh Hương
Nguồn: NXB Văn học
Nội dung thu gọn
Cô tới để đặt những bông hoa tại cái nơi mà cậu con trai ấy đã chết, còn cô gái thì bị bắt cóc.
Cô tới vì cô vốn vụng về và sở hữu một khuôn mặt rỗ. Cô không có nhiều bạn bè.
Cô tới vì người ta yêu cầu cô tới.
Cô tới vì cô muốn tới.
Lóng ngóng và vã mồ hôi, Lydia Johansson, cô gái hai mươi sáu tuổi, bước dọc theo lề đất của đường 112, nơi cô đã đỗ chiếc Honda Accord, rồi thận trọng đi xuống đồi, tới cái bờ lầy lội, nơi con kênh đào Nước đen gặp sông Paquenoke đục ngầu.
Cô tới vì cô nghĩ đây là việc nên làm.
Cô tới mặc dù thấy sợ.
Vừa mới bình minh, nhưng tháng Tám năm nay là tháng nóng nhất so với nhiều năm qua ở Bắc Carolina và bộ đồng phục y tá màu trắng của Lydia đã ướt mồ hôi khi cô bắt đầu bước về phía khoảng đất trống trên bờ sông, xung quanh mọc đầy liễu, sơn thù du và những cây nguyệt quế tán rộng. Cô dễ dàng nhận ra cái nơi cô đang tìm kiếm, vì các dải băng vàng của cảnh sát nổi bật lên trong sương mù.
Những âm thanh của buổi sáng sớm. Bầy chim lặn, một con vật sục sạo bới thức ăn trong cái bụi rậm gần đó, những làn gió nóng nực thổi giữa đám lau lách và cỏ đầm lầy.
Lạy Chúa, thật đáng sợ, Lydia nhủ thầm. Những cảnh khủng khiếp nhất từ các cuốn tiểu thuyết của Stephen King và Dean Koontz mà hằng đêm cô hay đọc, với thứ bầu bạn là một vại Ben & Jerry’s hiện lên sống động.
Lại có thêm những tiếng động trong cái bụi rậm kia. Lydia ngập ngừng dừng bước, nhìn xung quanh. Rồi lại tiếp tục. Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
“Này”, một giọng đàn ông cất lên. Rất gần.
Lydia thở hổn hển và quay phắt lại. Suýt nữa thì rơi bó hoa. “Jesse, anh làm tôi sợ phát khiếp.” Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
“Xin lỗi.” Jesse Corn đứng ở phía bên kia một cây liễu rủ, gần khu vực đã được chăng dây. Lydia nhận ra ánh mắt họ cùng nhìn chằm chằm vào một chỗ: đường vẽ màu trắng vẫn còn ướt trên nền đất, đánh dấu nơi người ta tìm thấy xác cậu con trai. Xung quanh vị trí đầu Billy là một đám thẫm màu mà cô, một y tá, ngay lập tức nhận ra là máu thấm xuống.
“Vậy chuyện đã xảy ra ở đấy,” Lydia thì thầm.
“Phải, ở đấy.” Jesse lau trán và sửa sang lại món tóc vàng lượn sóng. Bộ đồng phục anh ta đang mặc bộ đồng phục màu be của Sở Cảnh sát quận Paquenoke nhàu nhĩ, đầy bụi. Mồ hôi ra tạo thành những khoảng thẫm dưới nách áo. Anh ta ba mươi tuổi, có vẻ đáng yêu kiểu một chú bé con. “Anh ở đây bao lâu rồi?”, Lydia hỏi.
“Tôi không biết. Chắc là từ năm giờ.”
“Tôi trông thấy một cái xe nữa”, Lydia nói. “Phía đầu đường. Có phải Jim không?”
“Không. Ed Schaeffer đấy. Ông ta đang ở bên kia sông.” Jesse hất đầu chỉ bó hoa. “Đẹp nhỉ.”
Một lát sau, Lydia mới nhìn xuống những bông cúc dại trong tay mình. “Hai đô la bốn mươi chín xu. Mua ở Food Lion<1>. Mua tối hôm qua. Vì tôi biết là chẳng đâu mở cửa vào lúc sớm như thế này. Ờ, có Deli, nhưng họ không bán hoa.” Cô tự hỏi tại sao bỗng dưng mình lại nói năng lan man thế. Cô nhìn xung quanh lần nữa. “Chưa xác định được Mary Beth bị đưa đi đâu à?”
Jesse lắc đầu. “Không tăm hơi.”
“Tức là cả hắn cũng không thấy đâu.”
“Cả hắn.” Jesse nhìn đồng hồ đeo tay. Rồi đưa ánh mắt khắp mặt nước tối thẫm, những đám sậy dày đặc và cỏ um tùm, cái cầu tàu mục nát.
Lydia không thích thấy một anh chàng cảnh sát quân, chưng diện khẩu súng lục bự, lại dường như căng thẳng chẳng kém gì cô. Jesse bắt đầu đi lên sườn đồi đầy cỏ để ra quốc lộ. Anh ta dừng bước, liếc nhìn bó hoa. “Chỉ có hai đô la chín mươi chín xu thôi à?”
“Bốn mươi chín xu. Mua ở Food Lion.”
“Rẻ đấy.” Anh chàng cảnh sát trẻ tuổi vừa nói vừa nheo mắt nhìn về phía một bãi mênh mông rậm rạp cỏ. Anh ta lại đi lên sườn đồi. “Tôi đi lấy xe.”
Lydia Johansson bước tới gần hiện trường vụ án hơn. Cô tưởng tượng thấy Chúa Jesus, cô tưởng tượng thấy các thiên thần, và cô cầu nguyện mấy phút. Cô cầu nguyện cho linh hồn Billy Stail, bây giờ đã rời khỏi cái xác máu me của cậu, nó được phát hiện ra ngay chỗ này, mới sáng hôm qua. Cô cầu nguyện để nỗi bất hạnh đang đến viếng thăm Tanner’s Corner sẽ kết thúc.
Cô cũng cầu nguyện cho chính bản thân mình.
Lại có thêm những tiếng động trong bụi rậm. Răng rắc, sột soạt.
Lúc này, ngày đã rạng hơn, nhưng mặt trời vẫn chưa chiếu sáng cả Bến tàu kênh Nước đen. Con sông ở đoạn này sâu, ven bờ là những cây liễu rối bời, những thân to của tuyết tùng và bách - một số còn sống, một số đã chết, tất cả đều bám đầy rêu và sắn dây. Về phía đông bắc, cách đây không xa, là đầm lầy Sầu Thảm<2>, và Lydia Johansson, cũng giống như tất cả các thành viên Nữ Hướng đạo sinh từ trước tới nay của quận Paquenoke, biết mọi truyền thuyết về cái chốn đó: Nàng tiên vùng Hồ, Người lái tàu không đầu… Nhưng chẳng phải những ảo ảnh ấy khiến cô lo sợ, mà là bóng ma của chính Bến tàu kênh Nước đen - kẻ vừa bắt cóc Mary Beth McConnell.
Lydia mở xắc, châm điếu thuốc bằng đôi bàn tay run rẩy. Cảm thấy bình tĩnh hơn một chút. Cô bước dọc theo bờ sông. Dừng lại bên đám cỏ nến và cỏ cao bị gió thổi rạp xuống, cháy sém.
Lydia nghe thấy tiếng xe hơi khởi động trên đỉnh đồi. Jesse chưa đi chứ? Cô nhìn lên phía đó, lo sợ. Nhưng cô nhận ra chiếc xe đứng yên. Chắc chỉ để chạy máy điều hoà không khí, cô đồ là thế. Khi lại nhìn về phía con sông, cô thấy lau lách, cỏ nến và lúa dại vẫn đang rạp xuống, rập rờn, xào xạc.
Như thể có người nào ở đằng kia, tiến tới sát hơn những dải băng vàng, cúi thấp người xuống.
Nhưng không, không, tất nhiên không phải vậy. Chỉ là gió thôi, Lydia tự nhủ. Và cô vừa đặt bó hoa lên chạc ba của một cây liễu đen đúa xù xì, cách nét vẽ đáng sợ cái hình người nằm sõng soài, vấy đầy máu thẫm như nước sông không xa. Cô lại bắt đầu cầu nguyện.
Bên kia sông Paquenoke, Ed Schaeffer đứng dựa vào một cây sồi, phớt lờ đám muỗi buổi sáng sớm bay vo ve gần hai cánh tay thò ra dưới chiếc sơ mi đồng phục cộc tay của ông. Rồi ông khom mình xem xét tỉ mỉ nền rừng lần nữa, tìm kiếm dấu vết gã trai.
Ông phải bám vào cành cây để khỏi ngã. Ông kiệt sức đến chóng mặt. Cũng như hầu hết các đồng nghiệp trong sở, ông đã thức gần hai mươi tư tiếng đồng hồ, tìm kiếm Mary Beth McConnell và kẻ bắt cóc cô. Nhưng trong khi các đồng nghiệp lần lượt về nhà tắm gội, ăn uống và ngủ lấy mấy tiếng, Ed vẫn tiếp tục cuộc tìm kiếm. Ông là người nhiều tuổi nhất và to béo nhất (năm mươi mốt tuổi và nặng chừng hai trăm sau mươi tư pound) nhưng sự mệt mỏi, cái đói và các khớp xương cứng đờ không buộc ông ngừng tìm kiếm cô gái.
Ed lại kiểm tra nền rừng.
Ông ấn nút truyền của máy bộ đàm. “Jesse, tôi đây. Cậu ở đó chứ?”
“Tôi nghe.”
Ed thì thầm: “Tôi phát hiện ra các dấu chân ở chỗ này. Chúng còn mới. Một tiếng đồng hồ trước là cùng”.
“Ông nghĩ là hắn à?”
“Thế còn ai nữa? Vào lúc sáng sớm như thế này, ở phía này sông Paquo?”
“Xem chừng ông đúng đấy,” Jesse Corn nói. “Thoạt đầu tôi không tin, nhưng ông nói có lý.”
Lúc trước, Ed đã đưa ra giả thuyết là gã trai sẽ quay lại. Không phải vì cái ý tưởng quá sáo mòn về việc kẻ tội phạm sẽ quay lại hiện trường gây án, mà vì gã vẫn luôn sử dụng Bến tàu kênh Nước đen làm địa bàn rình rập, và dù có tự chuốc lấy bất cứ rắc rối gì trong suốt những năm qua, gã bao giờ cũng trở về đây.
Ed quan sát xung quanh, sự sợ hãi thay thế cảm giác kiệt sức khi ông đăm đăm nhìn cơ man những cành lá đan chằng chịt đang bao vây mình. Lạy Chúa, người cảnh sát nghĩ, thằng khốn kiếp ở đâu đó gần đây thôi. Ông nói vào bộ đàm: “Dấu vết có vẻ đang di chuyển về phía cậu, nhưng tôi không chắc chắn lắm. Hắn gần như chỉ bước đi trên lá cây. Cậu chú ý đấy. Tôi sẽ tìm hiểu xem hắn xuất phát từ chỗ nào”.
Hai đầu gối kêu răng rắc, Ed đứng thẳng dậy, nhẹ nhàng hết mức mà cái thân hình to béo cho phép, đi theo dấu chân gã trai ngược trở về hướng chúng xuất phát – vào sâu hơn trong rừng, cách xa con sông.
Ông đi theo dấu vết gã trai chừng một trăm feet thì nhìn thấy nó dẫn đến một căn chòi săn đã cũ – căn chòi xám xịt đủ chỗ cho ba, bốn thợ săn. Những khe kê súng tối đen và chỗ đó có vẻ hoang tàn. Được, ông nghĩ. Được… Hắn có thể chẳng ở đấy đâu. Nhưng cơ mà…
Thở mạnh, Ed Schaeffer làm cái việc ông chưa làm suốt gần một năm rưỡi nay: rút súng ra khỏi bao. Ông cầm súng trong bàn tay ướt mồ hôi và bắt đầu tiến về phía trước, mắt đảo tới đảo lui đến chóng mặt, lúc quan sát căn chòi, lúc quan sát nền rừng, quyết định đặt những bước chân sao cho không gây tiếng động.
Thằng nhãi đó có súng không? Ed phân vân tự hỏi, nhận ra mình đang chẳng được che chắn gì, y như một người lính bước lên đầu cầu công sự trơ trụi. Ông hình dung ra một nòng súng trường ngay lập tức xuất hiện ở một trong những cái khe kia, nhắm xuống ông. Ed cảm thấy nỗi khiếp sợ ập đến và khom lưng cuống cuồng chạy nốt mười feet cuối cùng tới bên hông căn chòi. Ông nép sát vào những tấm ván gỗ dãi dầu mưa nắng, lấy lại hơi thở và thận trọng lắng nghe. Ông không nghe được gì ngoài tiếng vo ve mơ hồ của đám côn trùng.
Được rồi, Ed tự nhủ. Nhìn xem nào. Nhanh.
Trước khi hết can đảm, Ed đứng thẳng dậy, nhìn qua một khe kê súng.
Không có ai.
Rồi ông nheo mắt nhìn xuống sàn. Gương mặt ông nở một nụ cười trước những thứ ông nhìn thấy. “Jesse”, ông phấn khởi nói vào bộ đàm.
“Tôi nghe.”
“Tôi đang ở chỗ căn chòi có lẽ cách con sông một phần tư dặm về phía bắc. Tôi nghĩ là thằng khốn khiếp ở đây đêm hôm qua. Có giấy gói thức ăn và vỏ chai nước. Một cuộn băng dính nhựa nữa. Và cậu đoán xem còn cái gì? Tôi thấy một tấm bản đồ.”
“Một tấm bản đồ?”
“Phải. Có vẻ về khu vực này. Biết đâu nó sẽ chỉ cho chúng ta chỗ hắn đang giữ Mary Beth. Cậu nghĩ thế nào?”
Nhưng Ed Schaeffer không bao giờ biết được phản ứng của anh chàng đồng nghiệp trước bước tiến tốt đẹp trong công việc điều tra này. Tiếng người con gái thét lên vang vọng khắp cánh rừng và bộ đàm của Jesse Corn im bặt.
Lydia Johansson trượt chân về phía sau và lại thét lên khi gã trai nhảy ra từ một đám lách cao, giữ lấy hai cánh tay cô bằng những ngón tay bấu chặt.
“Ôi, lạy Chúa, xin đừng làm hại tôi!”, cô van xin.
“Câm mồm”, gã trai giận dữ thì thầm, ngó nghiêng xung quanh, những hành động giật cục, ánh mắt đầy dã tâm. Gã cao và gầy giơ xương, giống như phần lớn đám thiếu niên mười sáu tuổi ở các thị trấn nhỏ bang Carolina, thêm vào đó, gã rất khoẻ. Da gã ửng đỏ và nổi cục – trông có vẻ là do quệt vào những gốc cây sồi độc<3> - và mái tóc gã cắt ngắn nham nhở, y như gã đã tự cắt vậy.
“Tôi chỉ mang hoa đến… Vậy thôi! Tôi không…”
“Xuỵt”, gã trai thì thào.
Nhưng những móng tay dài, bẩn thỉu của gã bấm vào da Lydia khiến cô đau đớn và cô lại hét lên. Gã tức tối lấy bàn tay bịt miệng cô. Cô cảm thấy người gã áp sát người cô, cô ngửi thấy cái mùi chua lòm, không tắm gội.
Lydia vặn vẹo đầu. “Cậu làm tôi đau”, cô rền rĩ nói.
“Hẵng câm mồm!” Giọng gã trai rít lên tựa những cành cây bị phủ băng đang nứt ra và những hạt nước bọt bắn lấm tấm trên mặt Lydia. Gã lắc cô điên cuồng như thể cô là một con chó không vâng lời chủ. Một bên giày vài của gã tuột ra trong lúc vật lộn nhưng gã không chú ý và lại bịt miệng cô cho tới khi cô ngừng kháng cự.
Từ trên đỉnh đồi, Jesse Corn gọi: “Lydia? Cô đâu rồi?”.
“Xuỵt”, gã trai lại cảnh cáo, cặp mắt mở to, điên dại. “Mày mà hét lên là sẽ thiệt thân. Hiểu không? Mày hiểu không?” Gã thò tay vào túi quần, giơ ra cho Lydia xem con dao.
Cô gật đầu.
Gã trai đẩy cô đi về phía con sông.
Ôi, Xin đừng. Ôi, xin đừng, Lydia thầm cầu cứu thần hộ mệnh của mình. Ðừng để hắn đưa con đến đó.
Phía bắc sông Paquo...
Lydia ngoảnh nhìn lại và thấy Jesse Corn đứng bên lề đường, cách đấy chừng một trăm thước, dùng bàn tay che ánh nắng của mặt trời chưa lên cao, quan sát xung quanh. “Lydia?”, anh ta gọi.
Gã trai đẩy cô đi nhanh hơn. “Lạy Chúa, đi nào!”
“Này!”, Jesse kêu lên, rốt cuộc cũng nhìn thấy họ. Anh ta chạy xuống đồi.
Nhưng họ đã đến bờ sông, nơi gã trai giấu một chiếc xuồng nhỏ dưới đám sậy và cỏ. Gã đẩy Lydia xuống xuồng và đẩy cho xuồng trôi, chèo mạnh sang bờ bên kia. Gã đưa xuồng lên bờ, kéo cô ra khỏi xuồng. Rồi lôi cô vào rừng.
“Chúng ta đi đâu đây?”, Lydia thì thào hỏi.
“Đi gặp Mary Beth. Mày sẽ được ở cùng cô ấy.”
“Tại sao?”, Lydia thì thào, và lúc này đã nức nở. “Tại sao lại làtôi?”
Nhưng gã trai không nói gì nữa, chỉ lơ đãng búng móng tay và lôi cô đi theo hắn.
“Ed”, Jesse Corn ấn nút truyền khẩn cấp. “Ôi, thật đẹp mặt. Hắn đã bắt Lydia. Còn tôi thì để hắn thoát.”
“Hắn cái gì?” Gắng thở hổn hến, Ed Schaeffer dừng lại. Ông đã bắt đầu đi về phía sông sau khi nghe thấy tiếng thét.
“Lydia Johansson. Hắn bắt cả cô ấy rồi.”
“Mẹ kiếp”, người cảnh sát to béo lầm bầm, những câu chửi thề của ông cũng chẳng xuất hiện thường xuyên hơn cái việc rút súng khỏi bao đeo bên hông. “Tại sao hắn làm vậy?”
“Hắn khùng”, Jesse nói. “Đó là lý do. Hắn sang sông rồi và giờ tôi tới chỗ ông.”
“Ðược.” Ed suy nghĩ một chút. “Hắn chắc sẽ quay lại lấy các thứ trong căn chòi. Tôi sẽ nấp bên trong, tóm hắn khi hắn vào. Hắn có súng không hả?”
“Tôi không nhìn được.”
Ed thở dài. “Được rồi, ờ... Tới đây càng sớm càng tốt. Gọi cả Jim nữa.”
“Tôi đã gọi rồi.”
Ed thả ngón tay khỏi nút truyền màu đỏ và nhìn qua đám cây bụi về phía con sông. Không có dấu hiệu gì về gã trai cùng nạn nhân mới của gã. Thở hổn hển, Ed chạy trở lại căn chòi và tìm thấy cánh cửa. Ông đá cho nó mở ra. Nó bật về phía bên trong đánh rầm, Ed vội vã bước vào, khom mình trước khe kê súng.
Ông đang quá lo sợ, quá hồi hộp, quá tập trung vào việc sẽ làm khi gã trai xuất hiện, đến nỗi thoạt tiên ông không chú ý gì tới hai hay ba đốm nửa đen nửa vàng vèo qua trước mặt. Cũng không chú ý gì tới cảm giác ngưa ngứa bắt đầu từ cổ rổi chạy xuống dọc theo sống lưng.
Nhưng tiếp theo thì cảm giác ngưa ngứa bùng nổ thành cơn đau bỏng rãy trên hai vai, chạy xuống hai cánh tay và dưới nách. “Ôi, lạy Chúa.” Ed kêu lên, thở hổn hển, nhảy dựng và bàng hoàng nhìn chăm chăm vào hàng chục con ong bắp cày – vàng dữ dằn – đang bu túm trên da thịt. Ông hốt hoảng phủi chúng và hành động ấy càng chọc tức lũ ong. Chúng chích cổ tay ông, lòng bàn tay, đầu ngón tay. Ông thét lên. Cơn đau này kinh khủng hơn mọi cơn đau ông đã trải qua – kinh khủng hơn lần gãy chân, kinh khủng hơn lần ông cầm lấy chiếc chảo gang mà không biết Jean đã nhóm lò.
Rồi bên trong căn chòi tối lờ mờ đi do đàn ong bắp cày tuôn ra từ cái tổ màu xám khổng lồ ở một góc – nó đã bị cánh cửa đập vào sau cú đá của Ed. Rõ ràng hàng trăm con ong đang tấn công ông. Chúng rúc vào tóc ông, đậu trên cánh tay, trên tai, bò vào dưới áo sơ mi và hai ống quần, như thể chúng biết rằng cắm vòi vào vải là vô ích và bởi vậy chúng tìm kiếm da thịt ông. Ông lao về phía cửa căn chòi, xé toạc áo sơ mi và khiếp hãi nhìn thấy từng đám những cái thân cong bóng loáng bám chặt vào ngực và bụng mình. Ông không cố phủi chúng đi nữa mà cứ cắm đầu cắm cổ chạy vào rùng.
“Jesse, Jesse, Jesse!”, Ed kêu lên nhưng nhận ra giọng ông chỉ còn là tiếng thì thầm, những vết ong chích vào cổ đã làm cổ họng thít lại. Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Chạy! Ông tự nhủ. Chạy về phía sông.
Và ông chạy. Với tốc lực chưa từng thấy, lao qua cây rừng. Đôi chân guồng lên điên cuồng. Chạy... Tiếp tục chạy, ông tự ra lệnh cho mình. Ðừng dừng lại. Chạy nhanh hơn lũ quỷ sứ bé tí này. Hãy nghĩ về vợ mày. Hãy nghĩ về hai đứa con sinh đôi. Nào, nào, nào... Số ong đã bớt đi mặc dù ông vẫn có thể nhìn thấy ba mươi hay bốn mươi đốm đen bám chặt trên da thịt, những cái thân sau gớm ghiếc cong về phía trước để lại chích ông.
Ba phút nữa mình sẽ đến được sông. Mình sẽ nhảy xuống nước. Chúng sẽ chết đuối. Mình sẽ ổn... Chạy! Thoát khỏi cơn đau này... cơn đau này... Làm sao những con vật nhỏ nhường này lại gây ra đau đớn đến thế? Ôi, đau quá...
Ed chạy như một con ngựa đua, như một con hươu, đạp lên tầng tầng lớp lớp cây bụi, mà qua nước mắt, ông chỉ thấy mờ mờ như sương mù.
Ông sẽ...
Nhưng, khoan nào, khoan nào. Có gì không ổn vậy? Ed Schaeffer nhìn xuống và nhận ra rằng mình không hề chạy.
Ông thậm chí còn không đứng. Ông nằm trên mặt đất cách căn chòi chỉ chừng ba mươi feet. Đôi chân không guồng lên chạy đang giật liên hồi.
Bàn tay Ed rờ tìm máy bộ đàm và tuy ngón cái đã sưng to gấp đôi bình thường vì nọc ong, ông vẫn cố gắng bấm được nút truyền. Nhưng, đúng lúc ấy, cơn rối loạn chức năng bắt đầu từ chân lan đến thân mình, cổ và hai cánh tay khiến ông đánh rơi cái máy. Trong khoảnh khắc, ông nghe thấy giọng Jesse Corn phát ra từ loa, và khi giọng anh biến mất, ông lại nghe thấy tiếng những con ong bắp cày bay vù vù, âm thanh đó dần dần trở nên mảnh
như một sợi chỉ và cuối cùng tất cả chìm vào im lặng.
Chú Thích:
<1> Food Lion: Một công ty Mỹ chuyên mở các chuỗi cửa hiệu, siêu thị (Các chú thích là của người dịch).
<2> Nguyên văn là “Great Dismal Swamp”: Khu vực đầm lầy phía đông nam Virgina và đông bắc Bắc Carolina, một khu bảo tồn sinh thái ở Mỹ
<3> Một loại cây bụi chứa nhựa độc, thường hình dáng lá giống như lá sồi.
15.06.2015
PHẦN 1: PHÍA BẮC SÔNG PAQUO
CHƯƠNG 2
Dịch giả: Đinh Minh Hương
Nguồn: NXB Văn học
Nội dung thu gọn
Chỉ Chúa mới có thể cứu chữa cho anh. Và Chúa thì xem ra không định làm việc này.
Điều ấy chẳng thành vấn đề vì Lincoln Rhyme là con người của khoa học chứ đâu phải của thần học, và bởi vậy anh đã không tới Lourdes hay Turin hay một cái lều của giáo phái Baptist để được cầu nguyện, hành lễ, mà anh đã tới đây, tới bệnh viện ở Bắc Carolina này, với hy vọng nếu không hồi phục được hoàn toàn thì chí ít cũng được một phần nào đó.
Bây giờ, Rhyme đang lái chiếc xe lăn Storm Arrow<4> gắn động cơ, đỏ như một chiến hạm nhỏ, theo bệ dốc xuống khỏi chiếc xe thùng, chiếc xe vừa đưa anh, anh chàng phụ tá và Amelia Sachs vượt năm trăm dặm - từ Manhattan tới. Ngậm ống điều khiển bằng đôi môi hoàn hảo, anh thành thạo quẹo chiếc xe lăn và tăng tốc độ để nó đi lên vỉa hè, tiến đến cửa chính Viện Nghiên cứu Thần kinh thuộc Trung tâm Y khoa Đại học Tổng hợp Bắc Carolina ở Avery.
Thom gập lại bệ dốc của chiếc Chrysler Grand Rollx đen bóng, chiếc xe được thiết kế cho xe lăn lên xuống được.
“Đánh nó vào khu vực để xe của người tàn tật”, Rhyme nói to và tủm tỉm cười.
Amelia Sachs nhướn một bên lông mày với Thom. Anh chàng bảo: “Tâm trạng đang vui đấy. Hãy tận dụng đi. Vì nó sẽ không kéo dài lâu đâu”.
“Tôi nghe thấy rồi đấy”, Rhyme quát lớn.
Anh chàng phụ tá lái xe đi và Sachs đuổi kịp Rhyme. Cô đang gọi điện bằng di động, đang chờ kết nối với một công ty cho thuê xe ở đây. Tuần tới, Thom sẽ phải dành nhiều thời gian trong bệnh viện chăm sóc Rhyme, và Sachs muốn chủ động sắp xếp thời gian cho bản thân mình, có thể là thăm thú chỗ nọ chỗ kia trong vùng. Hơn nữa, cô thích lái xe thể thao, chứ không thích lái xe thùng, và về nguyên tắc bao giờ cũng tránh những loại xe mà tốc độ tối đa dưới một trăm dặm một giờ.
Sachs đã mất năm phút chờ kết nối và cuối cùng cô bực bội bỏ máy. “Chờ thì em không ngại, nhưng nhạc chuông của bọn Muzak<5> thật điếc cả tai. Em sẽ gọi lại sau vậy.” Cô nhìn đồng hồ đeo tay. “Mới mười rưỡi. Nhưng trời nóng quá. Em muốn nói, nóng quá thể.” Manhattan chẳng phải là nơi có khí hậu ôn hoà nhất vào tháng Tám, nhưng nó cũng nằm về phía bắc hơn nhiều so với Bắc Carolina, và khi họ rời khỏi thành phố New York ngày hôm qua, đi về phía nam qua đường hầm Holland, nhiệt độ chưa tới bảy mươi<6>, còn không khí thì khô rang.
Rhyme chẳng quan tâm tới cái nóng. Đầu óc anh để cả vào nhiệm vụ sẽ được đặt ra cho anh tại đây. Trước mặt họ, cánh cửa tự động mở ra một cách ngoan ngoãn (anh đồ rằng nó thuộc các tiện nghi được thiết kế cho người tàn tật của hãng Tiffany) và họ bước vào dãy hành lang mát mẻ. Trong lúc Sachs hỏi thăm đường, Rhyme nhìn xung quanh sảnh chính. Anh để ý thấy có dăm bảy chiếc xe lăn không dùng xếp túm tụm lại với nhau, đầy bụi. Anh tự hỏi những người trước đây đã dùng chúng bây giờ ra sao. Có thể là việc điều trị thành công nên cuối cùng họ vứt bỏ được chúng để tự đi hoặc chống nạng. Có thể là một số người bệnh tình trầm trọng thêm, phải nằm liệt giường hoặc ngồi xe lăn lắp máy.
Có thể là một số người đã qua đời.
“Lối này”, Sachs nói, hất đầu chỉ dãy hành lang phía trên. Thom cùng bước vào thang máy (Cửa rộng gấp đôi bình thường, có các tay vịn, các nút bấm chỉ cách sàn gần ba feet) và vài phút sau họ tìm thấy dãy phòng cần tìm. Rhyme lăn xe tới trước cánh cửa, nhận ra hệ thống chuông cửa hiện hình ảnh. Anh vui vẻ hô: “Vừng ơi, mở ra” và cánh của mở toang.
“Chúng tôi hay được nghe câu ấy lắm”, người thư ký trông nhanh nhẹn nói dài giọng. “Ông hẳn là ông Rhyme. Tôi sẽ thông báo với bác sĩ rằng ông đã tới.”
Tiến sĩ Cheryl Weaver chừng bốn mươi lăm tuổi, dáng gọn ghẽ, hợp thời trang. Rhyme để ý thấy chị có ánh mắt tinh tường và đôi bàn tay, đôi bàn tay phù hợp với một nhà phẫu thuật, dường như khá khỏe mạnh. Những móng tay ngắn, không sơn. Chị đứng dậy khỏi bàn làm việc, mỉm cười bắt tay Sachs và Thom, rồi gật đầu chào bệnh nhân của mình: “Chào anh, Lincoln”.
“Chào bác sĩ.” Cặp mắt Rhyme lướt qua tựa đề rất nhiều cuốn sách xếp trên giá của chị. Rồi lướt qua vô số các chứng chỉ, bằng cấp - tất cả đều của những trường uy tín, những viện nghiên cứu tiếng tăm, tuy nhiên thành tích của chị không khiến anh ngạc nhiên. Sau hàng tháng trời nghiên cứu, Rhyme đã chắc chắn rằng Trung tâm Y khoa Đại học Tổng hợp Bắc Carolina ở Avery là một trong những trung tâm y khoa tốt nhất thế giới. Khoa ung bướu và khoa miễn dịch của trung tâm này thuộc các khoa đông bệnh nhân nhất nước. Viện thần kinh của Tiến sĩ Weaver cũng xác lập tiêu chuẩn cho việc nghiên cứu và điều trị các chấn thương tuỷ sống.
“Thật hay là cuối cùng cũng cũng được gặp anh”, người bác sĩ nói. Bàn tay chị đặt bên trên một túi đựng hồ sơ bằng bìa màu vàng dày khoảng ba inch. Hồ sơ về chính mình, nhà hình sự học phỏng đoán. (Băn khoăn không biết dưới đề mục tiên lượng bệnh là từ nào: “Có triển vọng”? “Không triển vọng”? Hay “Vô vọng”?). “Lincoln, anh và tôi đã trao đổi với nhau vài lần trên điện thoại. Nhưng tôi vẫn muốn nói sơ bộ lại một số vấn đề. Vì lợi ích của cả đôi bên.”
Rhyme gật đầu rất nhanh. Anh cũng chuẩn bị tinh thần chịu đựng những thủ tục nào đấy, tuy nhiên anh vốn rất thiếu kiên nhẫn đối với những cái rườm rà. Bắt đầu nghe có vẻ dài dòng văn tự.
“Anh đã đọc tài liệu về viện chúng tôi rồi. Và anh biết chúng tôi đang thử một kỹ thuật phục hồi và tái tạo tủy sống mới. Nhưng tôi phải nhấn mạnh lại rằng đây mới chỉ là thực nghiệm thôi.”
“Tôi hiểu điều đó.”
“Phần lớn những bệnh nhân liệt tứ chi tôi từng điều trị có kiến thức về thần kinh học còn hơn cả một bác sĩ đa khoa. Và tôi chắc chắn anh không phải trường hợp ngoại lệ.”
“Có một số kiến thức khoa học”, Rhyme nói cộc lốc. “Có một số kiến thức y khoa.” Và anh dành cho Weaver một cái nhún vai rất đặc trưng của mình, một cử chỉ mà chị dường như đã chú ý và ghi nhận.
Chị tiếp tục: “Chà, xin thứ lỗi nếu tôi nhắc lại những vấn đề anh biết rồi, nhưng việc anh hiểu rõ kỹ thuật này có thể làm được gì và không thể làm được gì rất quan trọng”.
“Xin mời chị”, Rhyme nói. “Tiếp tục.”
“Phương pháp tại viện chúng tôi là dốc toàn lực tấn công vào khu vực bị thương tổn. Chúng tôi sử dụng phẫu thuật giải áp truyền thống để tái tạo cấu trúc xương của bản thân các đốt sống và để bảo vệ khu vực có xuất hiện thương tổn. Rồi chúng tôi ghép hai thứ vào khu vực bị thương tổn: thứ nhất là một số mô của hệ thống thần kinh ngoại biên của chính bệnh nhân. Và thứ hai là các tế bào của hệ thống thần kinh trung ương giai đoạn phôi bào, đó là...”
“A, của cá mập”, Rhyme nói.
“Ðúng đấy. Phải, của cá mập xanh.”
“Lincoln đã nói với chúng tôi điều này”, Sachs lên tiếng. “Tại sao lại là cá mập ạ?”
“Vì những lý do liên quan đến tính miễn dịch, sự tương thích với cơ thể người. Ngoài ra”, bác sĩ Weaver vừa cười to vừa bổ sung thêm, “đó là loài cá cực kỳ lớn, nên từ một con chúng tôi có thể lấy được rất nhiều tế bào phôi”.
“Tại sao lại lấy tế bào phôi?”, Sachs hỏi.
“Hệ thống thần kinh trung ương ở người trưởng thành thì không tái sinh một cách tự nhiên nữa”, Rhyme nói giọng cáu kỉnh, sốt ruột vì Sachs ngắt lời. “Hiển nhiên là hệ thần kinh của một đứa bé sẽ phải phát triển.” Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
“Chính xác. Rồi, bên cạnh phẫu thuật giải áp và việc vi ghép, chúng tôi còn làm thêm một việc - việc này khiến chúng tôi hết sức hứng thú: chúng tôi đã điều chế được mấy thứ thuốc mới mà chúng tôi cho rằng sẽ có tác động đáng kể tới khả năng tái sinh tế bào.”
“Liệu có nguy cơ gì không?”, Sachs hỏi.
Rhyme liếc nhìn Sachs, hy vọng bắt gặp ánh mắt cô. Anh biết về các nguy cơ. Anh đã quyết định. Anh không muốn cô cật vấn bác sĩ của anh. Nhưng toàn bộ sự chú ý của Sachs tập trung vào Tiến sĩ Weaver. Rhyme nhận ra vẻ mặt của cô: vẻ mặt khi cô xem một bức ảnh chụp hiện trường vụ án.
“Tất nhiên là có các nguy cơ. Bản thân những thứ thuốc kia không nguy hiểm lắm. Nhưng phổi cua bất cứ người liệt tứ chi mức độ C4 nào cũng đều bị suy yếu. Bình thường anh chẳng phải sử dụng đến máy thở, nhưng việc gây mê có thể làm ngừng quá trình hô hấp. Rồi thì tâm trạng căng thẳng trong lúc tiến hành các thủ tục có thể gây tăng phản xạ tự phát, dẫn đến tăng huyết áp trầm trọng – tôi chắc chắn những kiến thức ấy chẳng còn xa lạ gì đối với anh – và hậu quả tiếp theo sẽ có thể là đột quỵ hoặc tai biến não. Cũng có nguy cơ bị ảnh hưởng do mổ ở khu vực vốn đã bị tổn thương – bây giờ anh không có cái nang hay khối u nào, nhưng việc phẫu thuật và hình thành các chất dịch có thể làm tăng áp suất, gây thêm thương tổn.” Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com) Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
“Nghĩa là anh ấy có thể bị nặng hơn”, Sachs nói.
Tiến sĩ Weaver gật đầu và nhìn xuống tập hồ sơ, rõ ràng để nhớ lại điều gì, tuy nhiên chị không mở túi hồ sơ. Chị ngẩng đầu nhìn lên. “Một cơ giun của anh có hoạt động – ngón đeo nhẫn ở bàn tay trái – và cơ vai, cơ cổ vẫn tốt. Anh có thể sẽ mất phần nào những khả năng đó, hoặc mất tất cả. Và mất khả năng thở tự nhiên.”
Sachs vẫn hoàn toàn bất động. “Tôi hiểu rồi”, cuối cùng, cô lên tiếng. Lời lẽ thốt ra tựa hơi thở dài căng thẳng.
Ánh mắt người bác sĩ không rời khỏi Rhyme. “Và anh phải đặt lên bàn cân những nguy cơ này cùng với cái mà anh hy vọng đạt được – anh sẽ chẳng thể lại tự bước đi được đâu, nếu đấy là điều anh hy vọng. Quy trình điều trị loại này từng đạt được một số thành công nhất định đối với những chấn thương tuỷ sống đoạn ngực và thắt lưng – là các đoạn ở thấp hơn nhiều và ít nghiêm trọng hơn nhiều so với trường hợp như anh. Nó chỉ đạt được đôi chút thành công đối với những chấn thương tuỷ sống đoạn cổ và hoàn toàn không đạt được gì đối với những chấn thương mức độ C4.”
“Tôi thuộc dạng ưa mạo hiểm”, Rhyme nói vội vàng. Sachs nhìn anh vẻ lo lắng. Vì cô biết Lincoln Rhyme vốn không phải là người ưa mạo hiểm. Anh vốn là nhà khoa học sống theo những nguyên tắc có thể đo đếm và đã được sách vở chứng minh. Anh nói thêm một cách đơn giản: “Tôi muốn thực hiện cuộc phẫu thuật này”.
Tiến sĩ Weaver gật đầu và xem chừng không hài lòng cũng không phật ý trước quyết định của Rhyme. “Anh sẽ phải làm một số xét nghiệm, việc này sẽ mất vài tiếng đồng hồ. Cuộc phẫu thuật được lên lịch vào ngày kia. Tôi có cả nghìn tờ khai và câu hỏi để anh điền. Tôi sẽ đi lấy chúng lại ngay cho anh.”
Sachs đứng dậy, đi theo người bác sĩ ra khỏi phòng. Rhyme nghe thấy cô nói: “Thưa bác sĩ, tôi có một…”. Cánh cửa đóng đánh cách.
“Âm mưu”, Rhyme lẩm bẩm với Thom. “Lính thường nổi loạn.”
“Cô ấy lo lắng cho anh.”
“Lo lắng? Cái cô gái đó lái xe một trăm năm mươi dặm một giờ và chơi trò bắn súng ở Nam Bronx<7>. Tôi chỉ sắp sửa được đưa vào người ít tế bào của cá con thôi mà.”
“Anh biết tôi đang nói gì.”
Rhyme sốt ruột lắc lư đầu. Ánh mắt anh lang thang đi tới một góc văn phòng của Tiến sĩ Weaver, nơi có đặt một dải xương sống – xem chừng là xương sống thật - dựa vào một giá đỡ kim loại. Nó có vẻ quá yếu ớt để làm trụ cho cái cơ thể con người đầy phức tạp từng bám trên nó.
Cánh cửa mở ra. Sachs bước vào văn phòng. Một người nữa bước vào theo sau cô, nhưng không phải Tiến sĩ Weaver. Người đàn ông cao, dáng gọn ghẽ trừ cái bụng hợi phệ, mặc bộ đồng phục cảnh sát quận màu nâu vàng. Vẻ nghiêm trang, Sachs nói: “Anh có khách đấy”.
Trông thấy Rhyme, người đàn ông bỏ chiếc mũ đồng phục có vành tròn xung quanh ra và gật đầu chào. Ánh mắt anh ta không phóng ngay tới cơ thể Rhyme như phần lớn người ta thường làm khi gặp anh, mà tới dải xương sống được đặt dựa vào giá đỡ đằng sau bàn làm việc của bác sĩ. Rồi mới quay lại nhà hình sự học. “Thưa sếp. Tôi là Jim Bell. Em họ Roland Bell. Anh ấy bảo tôi rằng sếp sẽ có mặt tại thị trấn này và tôi đã lái xe đến đây từ Tanner’s Conrner.”
Roland làm việc tại Sở Cảnh sát New York và từng hợp tác với Rhyme trong vài vụ. Anh ta hiện đang là cộng sự của Lon Sellitto, một thám tử Rhyme quen biết nhiều năm nay. Roland đã đưa cho Rhyme tên mấy người bà con để anh có thể gọi khi tiến hành phẫu thuật ở Bắc Carolina, phòng trường hợp anh muốn có ai đó tới chơi. Jim Bell nằm trong số mấy người này, Rhyme nhớ ra vậy. Nhìn qua viên cảnh sát quận về phía khung cửa, qua đấy thiên thần nhân ái của anh, Tiến sĩ Weaver, sẽ quay lại, nhà hình sự học lơ đãng nói: “Rất vui được gặp anh”.
Bell mỉm cười nghiêm trang. Anh ta đáp lời: “Thực sự, thưa sếp, tôi không nghĩ rằng sếp sẽ thấy vui mừng lâu đâu”.
Chú Thích:
<4> Mũi tên bão táp
<5> Muzak Holdings: một công ty chuyên cung cấp nhạc cho các công ty, các cửa hiệu bán lẻ
<6> 70oF: gần 21oC
<7> Bronx: một trong năm khu vực hành chính của thành phố New York
15.06.2015
PHẦN 1: PHÍA BẮC SÔNG PAQUO
CHƯƠNG 3
Dịch giả: Đinh Minh Hương
Nguồn: NXB Văn học
Nội dung thu gọn
Rhyme có thể nhận ra những nét giống nhau khi anh tập trung hơn vào vị khách.
Cùng cái vóc người rắn chắc, đôi bàn tay dài, mái tóc bắt đầu thưa, cùng cái vẻ dễ tính như của ông anh họ Roland ở New York. Cái anh chàng Bell này trong rám nắng và vạm vỡ hơn. Có lẽ đi câu kéo và săn bắn nhiều. Một chiếc mũ Stetson<8> hẳn sẽ phù hợp với anh ta hơn chiếc mũ cảnh sát quận. Bell ngồi xuống chiếc ghế dựa bên cạnh Thom.
“Chúng tôi có một vấn đề, thưa sếp.”
“Xin cứ gọi tôi bằng tên.”
“Tiếp tục đi”, Sachs bảo Bell. “Hãy nói với anh ấy chuyện anh vừa nói với tôi.”
Rhyme liếc nhìn Sachs lạnh nhạt. Cô ấy mới gặp người đàn ông này ba phút trước và họ đã kịp cấu kết với nhau gì thế không biết.
“Tôi là cảnh sát trưởng quận Paquenoke. Cách đây chừng hai mươi dặm về phía đông. Chúng tôi gặp phải tình huống này và tôi suy nghĩ về những gì anh họ tôi nói với tôi – anh ấy không có đủ lời để đánh giá sếp cho hết được, thưa sếp…”
Rhyme sốt ruột gật đầu ra hiệu bảo Bell tiếp tục. Tự nhủ thầm vị bác sĩ của anh ở chỗ quái quỷ nào rồi? Chị ta phải đào bới bao nhiêu tờ khai thế không biết? Liệu chị ta có cùng tham gia vào cái âm mưu này không? Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
“Dù sao thì, tình huống này… Tôi nghĩ là mình sẽ đến và xem sếp có thể dành cho chút ít thời gian không.”
Rhyme cười to, tiếng cười hoàn toàn chẳng biểu lộ chút hài hước nào. “Tôi chuẩn bị lên bàn mổ rồi.”
“Ồ, tôi hiểu điều đó. Đời nào tôi lại can thiệp vào kế hoạch của sếp. Tôi chỉ muốn xin sếp mấy tiếng đồng hồ… Tôi hy vọng rằng chúng tôi không cần sếp phải giúp đỡ nhiều lắm. Sếp thấy đấy, anh Rol đã nói với tôi về một số việc sếp từng làm trong những cuộc điều tra trên miền Bắc. Chúng tôi có các thiết bị khám nghiệm hiện trường cơ bản, nhưng phần lớn công tác khám nghiệm vẫn được chuyển đến Elizabeth City - chỉ huy sở gần nhất của cảnh sát bang - hoặc Raleigh. Phải mất hàng tuần lễ mới có được câu trả lời. Và chúng tôi thì không có đến hàng tuần lễ. Thời gian của chúng tôi chỉ tính bằng tiếng đồng hồ thôi. Là lâu nhất.”
“Để làm gì?”
“Để tìm ra hai cô gái bị bắt cóc.”
“Bắt cóc thuộc trách nhiệm của liên bang”, Rhyme nêu ý kiến. “Hãy gọi FBI.”
“Tôi không thể nhớ nổi lần cuối cùng có một đặc vụ liên bang đến dây là bao giờ, trừ đám nhân viên ATF<9> lo bắt rượu lậu. Chờ được FBI đến đây và bắt đầu điều tra thì hai cô gái đó đã chẳng còn hy vọng gì.”
“Hãy nói cho chúng tôi biết chuyện xảy ra như thế nào”, Sachs bảo. Cô đang vờ vịt đeo bộ mặt quan tâm, Rhyme thầm hoài nghi nhận xét – và kèm theo là sự bất mãn.
Bell nói: “Ngày hôm qua, một nam sinh trung học của chúng tôi bị giết và một nữ sinh viên đại học bị bắt cóc. Rồi sáng nay, đối tượng quay lại bắt cóc một cô gái nữa”. Rhyme để ý thấy gương mặt người đàn ông tối sầm. “Hắn đặt bẫy và một cảnh sát của chúng tôi bị thương nặng. Ông ấy hiện đang nằm tại trung tâm y khoa này, trong tình trạng hôn mê.”
Rhyme nhận ra Sachs đã thôi chọc móng tay vào tóc gãi đầu và lắng nghe Bell nói một cách say mê. Chà, có lẽ họ chẳng phải những kẻ đồng mưu, nhưng Rhyme biết lý do tại sao cô lại quan tâm tới một vụ mà họ không còn thời gian tham gia như vậy. Và anh không thích cái lý do ấy chút nào. “Amelia”, anh lên tiếng, lạnh lùng liếc nhìn chiếc đồng hồ treo tường trong văn phòng Tiến sĩ Weaver.
“Tại sao lại không, Rhyme? Việc đó có thể làm hại gì chứ?” Cô hất mái tóc đỏ ra khỏi bờ vai, trên bờ vai cô nó đang buông dài tựa như một thác nước bất động.
Bell lại liếc qua dải xương sống đặt ở góc phòng. “Chúng tôi là một đồn nhỏ, thưa sếp. Chúng tôi đã làm những gì có thể - tất cả nhân viên của tôi và một số người khác nữa đã tìm kiếm suốt đêm. Nhưng, thực tế là, chúng tôi chẳng thể tìm thấy hắn hay Mary Beth. Chúng tôi cho rằng Ed, viên cảnh sát đang hôn mê, đã xem tấm bản đồ chỉ hướng thằng nhãi đi. Tuy nhiên, các bác sĩ không biết lúc nào ông ấy mới tỉnh lại, mà cũng không biết ông ấy có tỉnh lại được không nữa.” Anh ta nhìn lại vào mắt Rhyme, vẻ nài nỉ. “Chúng tôi chắc chắn rất biết ơn nếu sếp có thể xem những chứng cứ chúng tôi tìm thấy và cho chúng tôi bất cứ gợi ý nào về hướng thằng nhãi đi. Chúng tôi không giải quyết nổi vấn đề. Tôi rất cần sự giúp đỡ.” Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Nhưng Rhyme không hiểu. Công việc của một nhà hình sự học là phân tích những chứng cứ để hỗ trợ các điều tra viên xác định thủ phạm và tiếp theo để buộc tội hắn trước toà. “Các anh biết đối tượng là ai, các anh biết nơi hắn sống. Uỷ viên công tố của các anh sẽ có một vụ thật kín kẽ.” Thậm chí nếu họ đã tiến hành khám nghiệm hiện trường chẳng đâu vào đâu – đám nhân viên thực thi pháp luật ở các thị trấn nhỏ thừa khả năng để xảy ra việc này – cũng còn vô khối chứng cứ cho toà án kết án trọng tội.
“Không, không – không phải chuyện xét xử khiến chúng tôi lo lắng, thưa sếp. Vấn đề là tìm thấy hắn trước khi hắn giết hai cô gái kia. Hay ít nhất là Lydia. Chúng tôi nghĩ Mary Beth có thể đã chết rồi. Sếp thấy đấy, khi vụ việc này xảy ra, tôi đã giở cuốn hướng dẫn cảnh sát bang về điều tra trọng tội. Sách nói rằng trong một trường hợp bắt cóc cưỡng hiếp, thông thường anh có hai mươi tư tiếng đồng hồ để tìm thấy nạn nhân, sau khoảng thời gian đó nạn nhân trở nên mất tính người dưới con mắt kẻ bắt cóc và hắn sẽ giết họ chẳng cần suy nghĩ gì.”
Sachs hỏi: “Anh gọi đối tượng là thằng nhãi. Hắn bao nhiêu tuổi?”.
“Mười sáu.”
“Vị thành niên.”
“Về nguyên tắc là thế”, Bell nói. “Nhưng lịch sử phạm tội của hắn tồi tệ hơn phần lớn những kẻ gây tội đã thành niên ở đây.”
“Các anh làm việc với gia đình hắn rồi chứ?”, Sachs hỏi, y như thể chắc chắn cô và Rhyme sẽ tham gia vụ án vậy.
“Cha mẹ đẻ đã chết. Hắn có cha mẹ nuôi. Chúng tôi tới nhà họ và xem xét phòng hắn. Không phát hiện thấy cái cửa lật bí mật nào, cũng không phát hiện thấy nhật ký hay bất cứ thứ gì.”
Chẳng bao giờ phát hiện được gì đâu, Lincoln Rhyme tự nhủ thầm, chân thành mong người đàn ông này sẽ mau mau mang những vấn đề của anh ta quay về với cái quận phát âm đến méo cả miệng.
“Em nghĩ chúng ta nên tham gia, Rhyme”, Sachs nói.
“Sachs, cuộc phẫu thuật...”
Cô tiếp tục: “Hai nạn nhân trong vòng hai ngày? Hắn có thể thuộc loại tội phạm thực hiện hàng loạt vụ”. Tội phạm thực hiện hàng loạt vụ giống như con nghiện. Ðể thỏa mãn nỗi khát thèm bạo lực ngày càng tăng, tần suất và mức độ nghiêm trọng trong những hành động của chúng sẽ ngày càng tăng.
Bell gật đầu. “Chị đúng đấy. Ngoài ra, còn những việc tôi chưa đề cập. Hai năm qua ở quận Paquenoke có ba cái chết khác nữa và mới vài ngày trước đây thôi có một vụ tự tử đáng nghi vấn. Chúng tôi nghĩ có thể thằng nhãi liên quan đến tất cả những trường hợp này. Chúng tôi chỉ không tìm thấy đủ bằng chứng để bắt hắn.”
Nhưng lúc bấy giờ tôi không tham gia vào cuộc điều tra, bây giờ, tôi có tham gia không nhỉ? Rhyme tự nhủ, trước khi ngẫm nghĩ ra rằng lòng kiêu hãnh rất có thể là thứ tội lỗi sẽ tấn công anh.
Anh miễn cưỡng cảm thấy cái hộp số trong đầu óc mình bắt đầu chuyển động, mà yếu tố kích thích là những vấn đề hóc búa của vụ án. Cái đã giữ cho Lincoln Rhyme không phát điên kể từ lúc gặp tai nạn - cái đã khiến anh không tìm đến một ông Jack Kevorkian<10> nào đấy để được trợ giúp tự tử - chính là những thách thức trí tuệ như thế này.
“Cuộc phẫu thuật của anh ngày kia mới tiến hành, Rhyme”, Sachs thuyết phục. “Và từ nay tới lúc phẫu thuật anh chỉ có các xét nghiệm đó thôi.”
A, những động cơ ngấm ngầm của em đang hiện ra kìa, Sachs…
Nhưng cô đã ghi được điểm. Rhyme đang nhìn vào khoảng thời gian nhàn rỗi xông xênh trước mắt. Và nó sẽ là khoảng thời gian nhàn rỗi trước phẫu thuật - tức sẽ không có rượu Scotch mười tám năm. Dù sao thì một người liệt tứ chi biết làm gì ở một thị trấn nhỏ của Bắc Carolina đây? Kẻ thù ghê gớm nhất của Rhyme không phải là các cơn co thắt, nỗi đau đớn tưởng tượng hay chứng tăng phản xạ vốn vẫn khiến những bệnh nhân mắc bệnh tuỷ sống khổ sở, mà nó là tâm trạng buồn tẻ.
“Tôi sẽ cho các anh một ngày”, cuối cùng Rhyme nói. “Miễn sao là nó không trì hoãn cuộc phẫu thuật. Tôi đã phải ở trong danh sách chờ mổ suốt mười bốn tháng.”
“Đồng ý, thưa sếp”, Bell trả lời. Gương mặt mệt mỏi của anh ta sáng lên.
Nhưng Thom lắc đầu. “Nghe này, Lincoln, chúng ta không ở đây để làm việc. Chúng ta ở đây để mổ cho anh và rồi trở về nhà. Tôi đâu có được một nửa số thiết bị cần thiết để chăm sóc anh nếu anh làm việc.”
“Chúng ta đang ở trong một bệnh viện, Thom. Tôi chẳng ngạc nhiên nếu tìm thấy hầu hết những gì cậu cần ở đây. Chúng ta sẽ trao đổi với Tiến sĩ Weaver. Tôi chắc chắn chị ấy sẽ vui vẻ giúp đỡ chúng ta.”
Anh chàng phụ tá, đỏm dáng trong chiếc áo sơ mi trắng, quần và cà vạt màu nâu vàng là phẳng phiu, nói: “Xin nhớ cho, tôi không nghĩ đây là ý kiến hay đâu.”
“Nhưng cũng giống như các tay thợ săn ở mọi nơi – dù đi lại được hay không - một khi Lincoln Rhyme đã quyết định đuổi theo con mồi, không có gì là vấn đề nữa. Lúc này, anh phớt lờ Thom và bắt đầu thẩm vấn Jim Bell. “Hắn chạy trốn bao lâu rồi?”
“Mới vài tiếng đồng hồ”, Bell nói. “Việc tôi sẽ làm là yêu cầu một cảnh sát đem đến các chứng cứ mà chúng tôi đã tìm thấy và có thể cả bản đồ vùng này. Tôi đang nghĩ...”
Nhưng giọng Bell nhỏ đến khi Rhyme lắc đầu và cau mày. Sachs nín cười, cô biết điều gì chuẩn bị tới.
“Không”, Rhyme đáp dứt khoát. “Chúng tôi sẽ tới chỗ các anh. Các anh sẽ phải bố trí địa điểm cho chúng tôi - nói lại xem quận lỵ ở đâu nhỉ?”
“Ừm, Tanner's Corner.”
“Bố trí địa điểm để chúng tôi có thể làm việc. Tôi sẽ cần một trợ lý khám nghiệm hiện trường... Các anh có la-bô<11> tại trụ sở chứ?”
“Chúng tôi ấy à?”, viên cảnh sát trường bối rối hỏi. “Hầu như không có gì.”
“Được rồi, chúng tôi sẽ cho anh danh sách các thiết bị chúng tôi cần. Anh có thể mượn từ cảnh sát bang.” Rhyme nhìn đồng hồ treo tường. “Chúng tôi có thể tới đó sau nửa tiếng. Ðúng không, Thom?”
“Lincoln ..”
“Đúng không?”
“Nửa tiếng”, anh chàng phụ tá nhẫn nhục lẩm bẩm.
Bây giờ thì ai ở trong tâm trạng không vui đây?
“Hãy lấy các tờ khai ở chỗ Tiến sĩ Weaver. Mang chúng theo. Cậu có thể điền thông tin trong lúc Sachs và tôi làm việc.”
“Được rồi, được rồi.”
Sachs đang ghi một danh sách các thiết bị khám nghiệm hiện trường cơ bản. Cô giơ lên cho Rhyme đọc. Anh gật đầu, rồi nói: “Bổ sung thêm thiết bị xác định mật độ. Những cái khác có vẻ ổn rồi”.
Sachs bổ sung thêm vào danh sách rồi đưa cho Bell. Anh ta đọc, ngập ngừng gật đầu: “Vâng, tôi sẽ cố gắng. Nhưng tôi thực không muốn sếp bị phiền phức quá…”.
“Jim, hy vọng tôi có thể phát biểu thẳng thắn.”
“Tất nhiên ạ.”
Nhà hình sự hạ thấp giọng: “Chỉ xem xét một chút chứng cứ sẽ không đem đến tác dụng gì. Nếu việc này được thực hiện, Amelia và tôi sẽ chịu trách nhiệm săn đuổi đối tượng. Chịu trách nhiệm một trăm phần trăm. Bây giờ, anh thành thật nói xem – như thế có gây rắc rối gì cho ai không?”.
“Tôi xin đảm bảo là không”, Bell trả lời.
“Tốt. Bây giờ thì anh nên đi lấy các thiết bị đó. Chúng tôi phải di chuyển đây.”
Và cảnh sát trưởng Bell còn đứng đó một lát, gật đầu, một tay cầm mũ, một tay cầm bản danh sách Sachs đưa, trước khi bước về phía cửa. Rhyme chắc chắn rằng ông anh họ Roland, một người mang nhiều đặc tính của dân miền Nam, có vẻ mặt hoàn toàn giống vẻ mặt viên cảnh sát trưởng. Rhyme không nhớ chính xác câu thành ngữ đó thế nào, nhưng đại khái nó liên quan đến đuôi con gấu<12>.
“Ồ, còn một điều nữa”, Sachs nói, gọi theo Bell vừa bước qua cửa. Anh ta dừng chân, quay đầu lại. “Đối tượng? Tên hắn là gì?”
“Garrett Hanlon. Nhưng ở Tanner’s Corner người ta gọi hắn là Thằng Bọ.”
Paquenoke là một quận nhỏ nằm ở mạn đông bắc Bắc Carolina. Tanner's Corner, gần như ở trung tâm của quận, là thị trấn lớn nhất và được vây bọc bởi từng cụm những khu dân cư cũng như những khu buôn bán nhỏ hơn, chưa chính thức thuộc phạm vi chính quyền quản lý, ví dụ khu Bến tàu kênh Nước đen co cụm bên sông Paquenoke - mà hầu hết dân địa phương gọi là sông Paquo - cách quận lỵ vài dặm về phía bắc. Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Về phía nam con sông tập trung phần lớn các khu vực dân cư và buôn bán của quận. Phía này rải rác những đầm lầy, những cánh rừng, đồng ruộng và những cái ao tĩnh lặng. Gần như tất cả dân cư đều sinh sống ở phía này cả. Ngược lại, phía bắc Sông Paquo, địa hình rất nguy hiểm. Đầm lầy Sầu Thảm từng lấn vào, nuốt mất những khu nhà lưu động, những khu nhà cố định, vài nhà máy xay và xí nghiệp bên bờ sông. Các bãi lầy uốn khúc đã thay thế cho những cái ao, những đồng ruộng và rừng, chủ yếu là rừng già, thì không thể vào được, trừ phi người ta đủ may mắn để tìm thấy một lối mòn. Chẳng ai sinh sống ở phía ấy của con sông trừ đám rượu lậu, ma túy và những kẻ dở hơi rồ dại. Thậm chí cánh thợ săn cũng tránh khu vực này sau sự việc bầy lợn lòi đuổi theo Tal Harper cách đây hai năm, nửa bầy đã bị bắn chết vẫn không khiến số còn lại ngừng ngấu nghiến cắn xé anh ta trước khi có sự trợ giúp.
Giống như hầu hết người trong quận, Lydia Johansson hiếm khi đi về phía bắc sông Paquo, và nếu đi thì không bao giờ đi quá xa khỏi thị trấn. Lúc này, với nỗi tuyệt vọng cùng cực, cô nhận ra rằng cô đã bước qua cái ranh giới nào đấy để đặt chân sang một chốn mà từ đó có lẽ cô sẽ không bao giờ trở về - cái ranh giới không chỉ đơn thuần về địa lý, nó còn là ranh giới về tinh thần.
Tất nhiên, cô khiếp sợ bị kéo lê đằng sau cái sinh vật này - khiếp sợ cái cách gã nhìn ngó khắp cơ thể cô, khiếp sợ sự đụng chạm của gã, khiếp sợ bị chết bởi cái nóng - hoặc bởi say nắng, bởi rắn cắn – nhưng điều khiến cô khiếp sợ nhất là cô ý thức được rằng cô đã bỏ lại sau lưng, phía nam con sống, đời sống dễ chịu, mong manh, nhỏ bé của mình: vài bạn bè và các y tá cùng làm việc tại phòng bệnh, anh chàng bác sĩ mà cô mất công tán tỉnh vô ích, những bữa tiệc pizza, bộ phim Sièneld chiếu lại trên truyền hình, mấy cuốn truyện kinh dị, món kem lạnh, đám cháu con chị gái cô. Cô thậm chí còn khao khát ngoảnh lại những quãng thời gian khổ sở trong cuộc đời - cuộc vật lộn với cân nặng, cuộc đấu tranh để bỏ thuốc lá, những đêm đơn côi, sự thiếu vắng đằng đẵng những cú điện thoại từ người đàn ông cô thi thoảng gặp (cô gọi anh ta là “bạn trai”, tuy cô biết rằng đó chỉ là mơ tưởng)… Giờ đây ngay cả những điều này cũng dường như gây nên nỗi đau xót mãnh liệt, đơn giản bởi chúng quá thân thuộc.
Nhưng bên Lydia giờ đây không có lấy một chút an ủi nào.
Cô nhớ cái cảnh tượng khủng khiếp tại căn chòi săn – Ed Schaeffer nằm bất tỉnh nhân sự trên nền đất, hai cánh tay và khuôn mặt bị bầy ong bắp cày đốt sưng vù một cách quái dị. Garrett đã lầm bầm: “Đáng lẽ lão ta không được động vào chúng. Đám ong bắp cày chỉ tấn công khi gặp nguy hiểm thôi. Đó là lỗicủa lão ta”. Gã từ từ bước vào bên trong căn chòi nhặt nhạnh những thứ gì đó, đám ong phớt lờ hắn. Gã trói tay Lydia ra phía trước bằng băng dính nhựa, rồi dẫn cô đi xuyên qua rừng cho tới lúc này đã đươc vài dặm.
Gã trai bối rối di chuyển, kéo giật cô về một hướng, rồi lại kéo giật cô về một hướng khác. Gã tự nói với mình. Gã gãi những vết đỏ trên mặt. Một lần, gã dừng chân bên một vũng nước và nhìn chằm chằm. Gã đợi cho mấy con rệp hay nhện gì đó nhảy khỏi mặt nước, rồi áp mặt mình xuống nước, ngâm làn da đang ngứa rát. Gã nhìn xuống bàn chân, cởi chiếc giày còn lại ra và lẳng đi. Hai người tiếp tục xuyên qua rừng trong buối sáng nóng nực.
Lydia liếc nhìn tâm bản đồ thò ra bên ngoài túi quần gã trai. “Chúng ta đi đâu đây?”, cô hỏi.
“Câm mồm. Nghe không?”
Mười phút sau, gã trai bắt Lydia cởi giày và hai người lội qua một con suối nông, bẩn thỉu. Khi lội qua con suối rồi, gã đẩy cô ngồi bệt xuống. Garrett ngồi trước mặt cô và trong lúc quan sát đôi chân, khe ngực cô, gã chậm rãi lau khô bàn chân cô bằng nắm giấy ăn nhãn hiệu Kleenex mà gã lôi từ túi quần ra. Cô cảm thấy ghê tởm trước sự đụng chạm của gã giống như lần đầu tiên cô phải lấy mẫu mô từ một xác chết trong nhà xác bệnh viện. Gã xỏ lại đôi giày màu trắng cho cô, buộc dây chặt chẽ, nắm bụng chân cô lâu hơn
mức cần thiết. Sau đó, gã xem xét tấm bản đồ và lại lôi cô vào rừng.
Gã búng móng tay, gãi má...
Đầm lầy dần dần chằng chịt hơn, nước đen hơn và sâu hơn. Lydia đồ là họ đang đi về phía đầm lầy Sầu Thảm, tuy cô không tưởng tượng nổi lý do tại sao. Chỉ khi không thể đi xa thêm vì bị những bãi lầy chặn lại, Garrett mới ngoặt vào một cánh rừng thông lớn mát mẻ hơn nhiều so với đất lộ ra trên những bãi lầy, khiến Lydia nhẹ cả người.
Gã trai tìm thấy một lối mòn khác. Gã dẫn cô đi dọc theo đó cho tới lúc gặp một quả đồi dốc đứng. Những tảng đá xếp thành dãy từ chân đồi đến đỉnh đồi.
“Tôi không thể trèo được”, Lydia nói, cố gắng lấy giọng ngang ngạnh. “Không thể với hai bàn tay bị trói như thế này. Tôi sẽ ngã mất.”
“Vớ vẩn.” Gã trai lẩm bẩm, y như thể Lydia là một kẻ ngu ngốc. “Mày đã đi đôi giày y tá vào rồi còn gì. Chúng sẽ giữ cho mày bước vững. Nhìn tao đây. Tao, đi chân đất và tao có thể trèo tốt. Nhìn bản chân tao đây, nhìn đi!” Gã giơ bàn chân lên. Bàn chân gã đầy vết chai, vàng khè. “Nào, đi lên trên kia. Chỉ cần lên đến đỉnh đồi rồi thì mày dừng lại. Mày nghe thấy tao nói không? Này, mày đang lắng nghe đấy chứ?” Gã lại rít lên, một hạt nước bọt bắn vào má cô và dường như nó đốt cháy da cô tựa axit sunfuric.
Lạy Chúa, tao căm thù mày, Lydia nghĩ.
Lydia bắt đầu trèo. Cô dừng lại nửa chừng, ngoảnh nhìn đằng sau. Garrett đang vừa thận trọng quan sát cô vừa búng móng tay tanh tách. Dán mắt vào đôi chân đi bít tất dài màu trắng của cô, lưỡi gã thè ra qua đám răng cửa. Rồi ánh mắt gã đưa lên, soi phía dưới váy cô.
Lydia tiếp tục trèo. Cô nghe thấy hơi thở gã trai rít lên trong lúc gã bắt đầu trèo đằng sau cô.
Trên đỉnh đồi là khoảng đất trống và từ đó có một lối mòn duy nhất dẫn vào cánh rừng thông rậm rạp. Cô bước dọc theo lối mòn, về phía bóng mát.
“Này!”, Garrett hét to. “Lúc nãy mày không nghe thấy tao nói à? Tao đã bảo mày đừng có nhúc nhích!”
“Tôi có định bỏ trốn đâu!”, Lydia kêu lên. “Trời nóng. Tôi muốn tránh ánh nắng mặt trời.”
Gã trai đưa tay chỉ ra cách đấy chứng hai mươi feet. Có một lớp cành thông dày phủ giữa lối mòn. “Mày mà không dừng lại thì sa xuống đó rồi.” Giọng gã the thé. “Mày sẽ làm hỏng nó.”
Lydia thận trọng nhìn. Những chiếc là thông hình kim che một cái hố rộng.
“Bên dưới đó có gì?”
“Một cái bẫy sập.”
“Bên trong có gì?”
“Mày biết đấy – nó là sự bất ngờ dành cho đứa nào đuổi theo chúng ta.” Gã trai nói vẻ tự hào, mỉm nụ cười đầy ngạo mạn, y như gã đã phải rất thông minh mới nghĩ ra được cái bẫy.
“Nhưng bất cứ ai cũng có thể bị sa xuống!”
“Mẹ kiếp!”, gã trai lầm bầm. “Đây là phía bắc sông Paquo. Chỉ những đứa đuổi theo chúng ta mới đi đường này. Và bọn chúng xứng đáng lãnh lấy bất cứ điều gì xảy ra. Tiếp tục thôi.” Gã trai lại rít lên. Gã tóm cổ tay cô và dắt cô đi vòng tránh cái bẫy.
“Cậu không phải giữ tôi chặt như thế!”, Lydia phản đối.
Garrett liếc nhìn cô rồi nới lỏng tay hơn một chút – nhưng việc nới lỏng này lại hóa ra gây khó chịu nhiều hơn. Gã vuốt ve cổ tay cô bằng ngón giữa, khiến cô liên tưởng tới một con ve hút máu to tướng đang tìm kiếm chỗ để chích vào da thịt cô.
Chú Thích:
<8> Một nhãn hiệu mũ do công ty John B.Stetson, Mỹ, sản xuất, đôi khi được sử dụng như một danh từ chung chỉ mũ của dân chăn bò (Cao bồi).
<9> ATF (viết tắt của Bureau of Alcohol, Tobacco, Firearms and Explosives): Vụ Thuốc lá, Rượu, Vũ khí và Chất nổ (thuộc Bộ Tư pháp, Mỹ).
<10> Nhà bệnh lý học, công khai ủng hộ quyền được chết của một người mắc bệnh nan y thông qua việc tự tử có bác sĩ trợ giúp
<11> Nguyên văn là “lab”: phòng thí nghiệm
<12> Câu thành ngữ đó là: “Have a bear by the tail” (Nắm đuôi con gấu), ý nói ở vào hoàn cảnh khó khăn, nguy hiểm.
15.06.2015
PHẦN 1: PHÍA BẮC SÔNG PAQUO
CHƯƠNG 5
Dịch giả: Đinh Minh Hương
Nguồn: NXB Văn học
Nội dung thu gọn
Chúng tôi đã muốn có nó”, người đàn ông thận trọng thầm thì, y như thể nếu nói quá to thì sẽ gọi phù thủy hiện lên vậy. Ông ta lo lắng nhìn xung quanh khoảng sân đầy bụi phía trước, nơi một chiếc xe tải nhỏ không bánh đang đậu trên nền sân bê tông. “Chúng tôi đã gọi đến các tổ chức hỗ trợ trẻ em và gia đình, hỏi cụ thể về Garrett. Bởi chúng tôi nghe được chuyện của nó và cảm thấy thương xót. Nhưng, thực tế là, nó gây rắc rối ngay từ đầu. Không giống những đứa con khác của chúng tôi. Chúng tôi đã cố gắng hết sức nhưng tôi phải nói với các vị, tôi nghĩ nó không nhìn nhận theo cách ấy. Và chúng tôi khiếp sợ. Sợ lắm.” Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Ông ta đứng trên dãy hàng hiên đằng trước đã bạc màu vì mưa nắng của ngôi nhà ở phía bắc Tanner’s Corner, trao đổi với Amelia Sachs và Jesse Corn. Amelia có mặt tại đây, tại nhà cha mẹ nuôi Garrett, chỉ để lục soát phòng gã, nhưng, mặc dù tình hình gấp gáp, cô vẫn để Hal Babbage kể lể dông dài với hy vọng cô sẽ biết thêm chút ít về Garrett Hanlon. Amelia Sachs không hoàn toàn chia sẻ quan điểm của Rhyme rằng chứng cứ là chìa khóa duy nhất giúp tìm kiếm đối tượng.
Tuy nhiên, cuộc trò chuyện hé lộ ra độc một điều: cha mẹ nuôi của Garrett, như Hal nói, thực sự khiếp sợ việc gã sẽ quay lại làm hại họ hoặc những đứa con khác của họ. Vợ ông ta, đang đứng cạnh chồng, là một phu nữ to béo với mái tóc quăn. Bà ta mặc chiếc áo phông được tặng của một đài truyền thanh chuyên phát nhạc đồng quê. Chiếc áo ố bẩn, có hàng chữ MY BOOTS TAP TO WKRT. Giống như ông chồng, ánh mắt Margaret Babbage thường xuyên quét qua khoảng sân và những đám rừng xung quanh, xem Garrett có trở về không, Sachs đồ là vậy.
“Chẳng phải chúng tôi đã làm gì nó , Hal Babbage tiếp tục. Chúng tôi không bao giờ dùng roi vọt với nó - chính quyền bang không cho phép người ta làm như thế nữa - tuy nhiên tôi từng kiên quyết ép nó tuân theo kỷ luật. Ví dụ, chúng tôi lên thời gian biểu cho các bữa ăn. Tôi dứt khoát yêu cầu điều đó. Riêng Garrett luôn luôn không đúng giờ. Tôi khóa chạn thức ăn lại khi không đúng bữa, bởi vậy nó bị đói suốt. Thi thoảng tôi đưa nó tới lớp họcKinh Thánh ngày thứ Bảy dành cho cha và con trai. Nó căm ghétviệc ấy. Nó cứ ngồi im thin thít ở đấy. Tôi phải nói với các vị là tôi phát xấu hổ. Và tôi la rầy nó, muốn nó dọn dẹp cái phòng bẩn thỉu ngập ngụa.” Ông ta chần chừ nửa giận nửa sợ. “Đó là những điều người ta vốn vẫn yêu cầu con cái làm. Nhưng tôi biết vì thế mà nó đâm căm ghét tôi.”
Bà vợ cũng góp lời khai: “Chúng tôi đã tử tế với nó. Nhưng nó sẽ không nhớ đâu. Nó sẽ nhớ những lúc chúng tôi nghiêm khắc với nó. Giọng bà ta run run. “Và nó đang tính chuyện trả thù.”
“Tôi phải nói với anh, chúng tôi sẽ tự bảo vệ mình.” Cha nuôi Garrett cảnh báo, bấy giờ là nói với Jesse Corn. Ông ta hất đầu chỉ đống đinh và chiếc búa han gỉ nằm trên hàng hiên. “Chúng tôi đang đóng cố định các cánh cửa sổ, nhưng nếu nó cố đột nhập vào... chúng tôi sẽ tự bảo vệ mình. Bọn trẻ biết cần làm gì. Chúng biết chỗ cất khẩu súng săn. Tôi đã dạy chúng cách sử dụng.”
Ông ta khuyến khích chúng bắn Garrett? Sachs bàng hoàng. Cô đã trông thấy mấy đứa trẻ khác trong ngôi nhà, chúng ghé mắt nhìn qua khung lưới cửa sổ. Có vẻ như chưa đứa nào quá mười tuổi.
“Hal này.” Jesse Corn nói giọng lạnh lùng, giành quyền của Sachs. “Đừng tự xử lý bất cứ việc gì. Nếu ông trông thấy Garrett, hãy gọi cho chúng tôi. Và đừng để bọn trẻ động đến bất cứ khẩu súng nào đấy. Vào đi, ông thông thuộc các thứ trong căn phòng hơn.”
“Chúng tôi có các bài luyện tập”, Hal nói với giọng tự vệ. “Vào các ngày thứ Năm, sau bữa tối. Bọn trẻ biết phải sử dụng súng như thế nào.” Ông ta nheo mắt khi nhìn thấy cái gì đó trên khoảng sân. Sự căng thẳng thoáng hiện.
“Tôi muốn xem phòng hắn”, Sachs bảo.
Hal nhún vai. “Các vị cứ xem xét thoải mái. Nhưng các vị tự xem xét lấy thôi. Tôi không vào trong đó đâu. Em dẫn họ đi, Mags.” Ông ta cầm lên chiếc búa và một nắm đinh. Sachs để ý thấy báng khẩu súng lục thò ra chỗ cạp quần ông ta. Ông ta bắt đầu đóng đinh vào khung cửa sổ.
“Jesse”, Sachs nói. “Đi vòng ra phía sau và kiểm tra qua cửa sổ phòng hắn, xem có cái bẫy nào không.”
“Các vị sẽ chẳng trông thấy gì đâu”, bà mẹ giải thích. “Nó đã sơn đen hết cửa sổ rồi.”
Sơn à?
Sachs tiếp tục: “Thế thì hãy khống chế lối dẫn đến cửa sổ. Tôi không muốn gặp một bất ngờ nào. Canh chừng những vị trí ngắm bắn thuận lợi và đừng phơi mình ra trước mắt hắn.”
“Rõ. Canh chừng những vị trí ngắm bắn thuận lợi. Tôi sẽ thực hiện.” Và Jesse gật đầu một cách cường điệu, cái gật đầu cho Sachs thấy anh ta hầu như chưa có kinh nghiệm tác chiến. Anh ta biến mất vào khoảng sân bên hông ngôi nhà.
Bà vợ nói với Sachs: “Phòng nó đi lối này.”
Sachs bước theo mẹ nuôi của Garrett, đi xuôi một dãy hành lang tối lờ mờ đầy các thứ quần áo phải giặt là và hàng đống tạp chí. Gia đình, Đời sống Cơ Đốc giáo, Súng & Đạn, Đồng ruộng và sông suối, Tập san của bạn đọc.
Đầu Sachs rướn về phía trước khi đi qua mỗi khuông cửa, cặp mắt đảo trái đảo phải, những ngón tay dài vuốt ve báng khẩu súng lục làm bằng gỗ sồi chạm hình ô vuông. Cánh cửa phòng gã trai đóng kín.
Garret quẳng một tổ ong bắp cày vào. Khiến cô ấy bị đốt một trăm ba mươi bảy phát...
“Ông bà thực sự sợ hắn sẽ quay lại?”
Im lặng một lát, người phụ nữ trả lời: Garrett là đứa rắc rối. Người ta không hiểu nó và tôi từng thông cảm với nó hơn Hal. Tôi chẳng biết nó có quay lại không, tuy nhiên nếu nó quay lại thì sẽ lôi thôi đấy. Garrett không ngại làm hại người khác đâu. Một dạo, ở trường, mấy thằng con trai cứ mở trộm tủ đựng đồ của nó để vào đó những lời nhắn, quần áo lót bẩn và các thứ linh tinh. Chẳng có gì kinh khủng cả, chỉ là những trò đùa tình nghịch. Nhưng Garrett đã lắp một cái lồng mà cái lồng này sẽ bật mở trong trường hợp tủ đựng đồ không được mở đúng cách. Nó cho một con nhện vào. Lần tiếp theo bọn kia tái diễn trò trêu chọc, con nhện cắn trúng mặt một thằng. Suýt làm thằng bé bị mù... Phải, tôi khiếp sợ nếu nó quay lại.”
Họ dừng bước bên ngoài một cửa phòng ngủ. Trên mặt cửa gỗ có hàng chữ khắc tay. NGUY HIỂM. ĐỪNG VÀO. Bức tranh vẽ nguệch ngoạc bằng bút mực một con ong bắp cày trông dữ dằn được dính bằng băng dính phía dưới hàng chữ đó.
Không có điều hòa nhiệt độ và Sachs thấy lòng bàn tay ướt mồ hôi. Cô chùi bàn tay vào quần bò.
Sachs bật thiết bị bộ đàm hiệu Motorola và đeo bộ tai nghe vừa mượn từ Trung tâm Thông tin Liên lạc Văn phòng Cảnh sát trưởng. Phải mất một lát cô mới dò được tần số mà Steve Farr đã đưa. Sóng không tốt.
“Rhyme à?”
“Anh đây, Sachs. Anh đang chờ đợi đây. Em đã ở đâu vậy?”
Sachs không muốn nói với Rhyme rằng cô vừa dành ít phút cố gắng tìm hiểu về tâm lý của Garrett Hanlon. Cô chỉ bảo: “Bọn em mất một lúc mới tới đây được”.
“Chà, chúng ta có cái gì nhỉ?”, nhà hình sự học hỏi.
“Em chuẩn bị vào đây.”
Sachs ra hiệu bảo Margaret quay lại phòng khách rồi đá cho cánh cửa mở vào bên trong và nhảy giật lùi ra hành lang, áp sát người vào bức tường đối diện. Căn phòng sáng lờ mờ hoàn toàn im ắng.
Khiến cô ấy bị đốt một trăm ba mươi bảy phát...
Được. Giơ khẩu súng lục lên. Sẵn sàng, sẵn sàng, sẵn sàng! Sachs đẩy cửa vào.
“Lạy Chúa”, Sachs khom người xuống trong tư thế chiến đấu. Ghìm chặt cò súng, cô chĩa thẳng họng súng vào một bóng người ở ngay bên trong phòng.
“Sachs?”, Rhyme gọi. “Sao vậy?”
“Chờ chút”, Sachs thì thầm, bật ngọn đèn treo trên trần lên. Họng súng đã chĩa vào tấm poster in hình con quái vật gớm ghiếc trong bộ phim Người ngoài hành tinh<15>.
Cô dùng bàn tay trái kéo mở toang cánh cửa tủ quần áo. Trống rỗng.
“An toàn, Rhyme. Tuy nhiên, phải nói là, em không ưa lắm cái cách hắn trang trí căn phòng.”
Đúng lúc ấy, một mùi hôi nồng nặc sộc vào mũi Sachs. Mùi quần áo chưa giặt, mùi cơ thể. Và mùi gì đó nữa...
“Ối chao”, Sachs lẩm bẩm.
“Sachs. Gì thế?”, Rhyme hỏi giọng sốt ruột.
“Cái chỗ này đang bốc mùi.”
“Tốt. Em biết quy tắc của anh đấy.”
“Bao giờ cũng ngửi mùi hiện trường đầu tiên. Nhưng giá mà em không ngửi thấy gì cả.”
“Tôi đã định dọn dẹp.” Bà Babbage khẽ khàng bước tới đằng sau lưng Sachs. “Đáng lẽ tôi nên dọn dẹp, trước khi các vị đến đây. Nhưng tôi quá sợ chẳng dám vào. Với lại, mùi chồn hôi rất khó hết, trừ phi cọ rửa bằng nước cà chua. Mà Hal nghĩ như thế là lãng phí.”
Chính nó. Bao phủ lên mùi quần áo bẩn là mùi xạ của chồn hôi, từa tựa mùi cao su cháy. Hai bàn tay vỗ vào nhau một cách tuyệt vọng, trông giống như sắp khóc, bà mẹ nuôi Garrett thì thầm: “Các vị mở cửa phòng nó thế này, nó sẽ tức điên lên mất.”
Sachs bảo bà ta: “Tôi cần ở đây một mình ít phút”. Cô dẫn bà ta ra ngoài rồi đóng cửa phòng lại.
“Đang lãng phí thời gian đấy, Sachs”, Rhyme nói gay gắt.
“Em bắt đầu đây”, Sachs đáp lời. Cô nhìn xung quanh. Cảm thấy nản lòng trước những tấm ga trải giường xám xịt, đầy các vết ố, những đống quần áo bẩn, những chiếc đĩa bị thức ăn cũ làm dính lại với nhau, những túi giấy bóng kính đựng đầy vụn khoai tây chiên và ngô chiên. Toàn bộ căn phòng khiến cô cáu kỉnh. Cô thấy mình đưa những ngón tay lên đầu gãi soàn soạt. Ngừng, rồi lại gãi. Cô tự hỏi tại sao cô lại giận dữ thế. Có lẽ vì sự nhếch nhác này khiến người ta hình dung rằng cha mẹ nuôi đã chẳng quan tâm gì tới Garrett và rằng chính tình trạng bị bỏ mặc đó đã góp phần biến gã trở thành một kẻ bắt cóc, một tên sát nhân.
Sachs xem xét căn phòng kỹ lưỡng nhưng nhanh chóng, để ý thấy hàng chục vết bẩn, dấu tay và dấu chân trên bậu cửa sổ. Dường như gã sử dụng cửa sổ thường xuyên hơn cửa trước và cô tự hỏi phải chăng ban đêm họ khóa bọn trẻ lại.
Cô quay sang bức tường đối diện chiếc giường, nheo mắt nhìn. Cảm thấy một cơn ớn lạnh chạy dọc cơ thể. “Chúng ta có một nhà sưu tầm ở đây, Rhyme.”
Sachs kiểm tra cả chục chiếc lọ - những cái chuồng nuôi hàng đàn côn trùng xúm xít vào với nhau - dưới đáy mỗi lọ đều có nước. Các nhãn xác định loài viết nguệch ngoạc bằng tay: Bọ xít bơi... Nhện nước. Một cái kính lúp sứt nằm trên chiếc bàn gần đó, bên cạnh là chiếc ghế văn phòng cũ kỹ trông như thể Garrett đã nhặt nó từ bãi rác về.
“Em biết tại sao người ta gọi hắn là Thằng Bọ rồi.” Sachs nói, rồi mô tả cho Rhyme nghe về những chiếc lọ. Cô rùng mình ghê sợ khi một lũ bọ bé tí, ướt át bò dọc theo thành thủy tinh một chiếc lọ.
“A, chi tiết tốt cho chúng ta.”
“Tại sao?”
“Bởi đây là một sở thích ít gặp. Nêu hắn mê tennis hay sưu tầm tiền xu thì việc đặt hắn vào một địa điểm nào đó sẽ khó khăn hơn. Bây giờ, hãy tiếp tục xem xét đi”, Rhyme nói bằng giọng nhẹ nhàng, gần như vui vẻ. Sachs biết anh đang tưởng tượng rằng bản thân anh đang đi theo từng ô ngang dọc của hiện trường, coi cô như mắt và chân của anh vậy. Trước đây, khi phụ trách bộ phận Điều tra và Nguồn lực và đơn vị khám nghiệm hiện trường của Sở Cảnh sát New York, Lincoln Rhyme thường tự khám nghiện hiện trường những vụ án giết người, thậm chí dành nhiều thời gian xem xét hơn cả các sĩ quan cấp dưới. Cô biết công việc này là điều nhớ nhất về cuộc đời trước khi tai nạn xảy ra.
“Bộ dụng cụ khám nghiệm hiện trường thế nào?” Rhyme hỏi. Jesse Corn đã đào được một bộ từ kho trang thiết bị văn phòng cảnh sát trưởng ra cho Sachs dùng.
Sachs mở chiếc va li nhỏ bằng kim loại đầy bụi. Nó chẳng bằng một phần mười bộ dụng cụ của cô ở New York, nhưng ít nhất cũng có các thứ cơ bản: những cái nhíp, một đèn pin, các que thăm, găng tay cao su và túi đựng chứng cứ. “Sơ sài thôi” cô trả lời.
“Đối với vụ này, chúng ta như cá trên cạn, Sachs ạ.”
“Em mắc cạn cùng anh, Rhyme.” Cô đeo găng tay vào trong lúc nhìn xung quanh căn phòng. Phòng ngủ của Garrett được gọi là hiện trường gián tiếp - không phải nơi vụ án thực sự xảy ra mà là nơi, ví dụ như, lên kế hoạch hành động, hoặc là nơi đối tượng ẩn trốn sau khi gây án. Từ lâu, Rhyme đã dạy cô rằng những hiện trường này thường có giá trị hơn hiện trường trực tiếp vì ở những chỗ đó đôi tượng có xu hướng bất cẩn hơn, vứt bỏ găng tay, quần áo, để lại vũ khí cũng như các chứng cứ khác.
Bây giờ, Sachs bắt đầu cuộc khám nghiệm, đi theo từng ô ngang dọc căn phòng - chia sàn thành từng dải hẹp song song nhau để xem xét, cái cách người ta xén cỏ, từng bước, từng bước, rồi chuyển sang đường vuông góc, rà qua cùng một vị trí lần thứ hai.
“Nói cho anh nghe nào, Sachs, nói cho anh nghe nào.”
“Đây là một chốn đáng sợ, Rhyme.”
“Đáng sợ à?”, anh càu nhàu. “Đáng sợ là cái quái quỷ gì vậy?”
Lincoln Rhyme không thích những nhận xét mơ hồ. Anh thích những tính từ mạnh - cụ thể: lạnh, lầy lội, xanh da trời, xanh lá cây, sắc. Rhyme thậm chí còn phàn nàn khi cô bình luận cái gì đó là “lớn” hoặc “nhỏ.” (“Hãy nói cho anh nghe xem kích thước nó bằng bao nhiêu inch hay bao nhiêu milimét, hoặc đừng nói gì cả, Sachs ạ.” Và Amelia Sachs luôn khám nghiệm hiện trường với một khẩu Glock 10, găng tay cao su và thước dây hiệu Stanley.)
Cô nghĩ: Ờ, mình cảm thấy sợ phát khiếp. Điều ấy không có ý nghĩa gì sao?
“Hắn dán trên tường các bức poster. Từ bộ phim Người ngoài hành tinh. Và Nhện khổng lồ<16> - bọn bọ to lớn này đang tấn công người ta. Hắn cũng tự vẽ nữa. Các hình ảnh đầy bạo lực. Căn phòng cực kỳ bẩn thỉu, đồ ăn vặt, quần áo, lũ côn trùng trong những chiếc lọ. Chẳng còn gì nhiều nhặn nữa.”
“Quần áo bẩn à?”
“Vâng. Có một vật hữu ích - một chiếc quần dài, bẩn kinh khủng. Hắn đã mặc nó nhiều lần, nó phải chứa cả tấn dấu vết. Gấu lơ-vê. Thật may mắn cho chúng ta - hầu hết đám thiếu niên ở tuổi hắn chỉ mặc quần bò màu xanh.” Sachs thả nó vào một túi nhựa đựng chứng cứ.
“Áo sơ mi?”
“Chỉ có áo phông”, cô trả lời. “Không cái nào có túi cả.” Các nhà hình sự học vốn vẫn yêu thích những bộ khuy cài măng sét và túi áo, chúng giữ lại đủ mọi loại manh mối hữu ích. “Em tìm thấy mấy cuốn vở, Rhyme. Nhưng Jim Bell và các cảnh sát khác hẳn đã xem xét chúng rồi.”
“Đừng đưa ra bất cứ giả định nào về công việc khám nghiệm hiện trường mà những đồng nghiệp của chúng ta tiến hành”, Rhyme nói một cách giễu cợt.
“Rõ.”
Sachs bắt đầu lật từng trang. “Không nhật ký. Không bản đồ. Không có gì liên quan đến chuyện bắt cóc... Chỉ có các con côn trùng... vẽ những thứ hắn nuôi trong lọ.”
“Có hình con gái, phụ nữ không? Có hình ác dâm không?”
“Không.”
“Mang chúng về đây. Những cuốn sách thì sao?”
“Có lẽ chừng một trăm cuốn. Sách giáo khoa, sách về động vật, côn trùng... Khoan đã, có cái này, một cuốn niên giám của trường Trung học Tanner’s Corner. Từ sáu năm trước.”
Rhyme hỏi ai đó trong phòng. Rồi anh quay lại với cuộc điện đàm. “Jim bảo Lydia hai mươi sáu tuổi. Cô ta hẳn phải ra trường cách đây tám năm. Nhưng cứ kiểm tra trang về những nữ sinh họ McConnell xem.”
Sachs lật đến vần M.
“Phải. Ảnh chụp Mary Beth bị cắt ra bằng một lưỡi dao sắc Hắn chắc chắn phù hợp với sự mô tả kinh điển về một kẻ chuyên rình rập hăm dọa, quấy rối người khác.”
“Chúng ta không quan tâm đến những mô tả. Chúng ta quan tâm đến chứng cứ. Những cuốn sách khác - những cuốn trên giá của hắn - cuốn nào hắn đọc thường xuyên nhất?”
“Làm sao em...”
“Xem các trang bẩn nhiều hay không”, Rhyme sốt ruột nói gay gắt. “Hãy bắt đầu từ những cuốn gần giường hắn nhất. Mang về đây độ bốn, năm cuốn.”
Sachs lấy ra bốn cuốn có các trang sờn rách nhất. Sổ tay nhà côn trùng học, Hướng dẫn thực địa về côn trùng khu vực Bắc Carolina, Côn trùng dưới nước khu vực Bắc Mỹ, Thế giới thu nhỏ.
“Em lấy bốn cuốn rồi, Rhyme. Nhiều trang được đánh dấu. Một số trang được đánh dấu sao.”
“Tốt. Mang chúng về đây. Nhưng phải có cái gì đó đặc biệt hơn trong căn phòng chứ.”
“Em chẳng thể tìm thấy cái gì.”
“Cứ xem xét đi, Sachs. Hắn là một gã trai mười sáu tuổi. Em biết những vụ có thủ phạm vị thành niên mà chúng ta từng làm rồi đấy. Phòng của thanh, thiếu niên mới lớn bao giờ cũng là trung tâm vũ trụ của chúng. Hãy thử suy nghĩ giống như một thiếu niên mười sáu tuổi xem. Em sẽ giấu giếm các thứ ở đâu?”
Sachs nhìn bên dưới tấm nệm, bên trong và bên dưới các ngăn kéo bàn học, trong tủ quần áo, bên dưới những cái gối đầy bụi. Rồi cô chiếu đèn pin vào khe hở giữa tường và giường. Cô nói: “Có cái gì đó ở đây, Rhyme”.
“Cái gì?”
Sachs tìm thấy một đống khăn giấy hiệu Kleenex đã dùng, một chai sữa dưỡng ẩm Vaseline Intensive Care. Cô kiểm tra một trong những chiếc khăn giấy. Nó ố bẩn bởi thứ gì đó có vẻ như là tinh dịch.
“Hàng chục chiếc khăn giấy bên cạnh giường. Hắn đã là kẻ thường xuyên bắt bàn tay phải của mình bận bịu.”
“Hắn mười sáu tuổi”, Rhyme nói. “Nếu hắn không như thế mới là không bình thường. Bỏ một chiếc vào túi đi. Chúng ta có thể sẽ cần đến ít cấu trúc ADN.”
Sachs tìm thấy một thứ khác nữa dưới gầm giường: một khung ảnh rẻ tiền mà trên đó có những hình vẽ thô thiển của Garrett về côn trùng - kiến, ong bắp cày, bọ cánh cứng. Bên trong lồng bức ảnh chụp Mary Beth McConnell cắt ra từ cuốn niên giám. Còn một tập album có chừng chục bức ảnh khác chụp Mary Beth. Chúng là những bức ảnh đời thường. Hầu hết là những bức ảnh chụp cô gái trẻ ở nơi như là trường đại học hoặc lúc cô đang đi bộ dọc theo con phố trong một thị trấn nhỏ. Hai bức chụp cô mặc bikini ở bên hồ. Trong cả hai bức này, cô đều đang cúi xuống và bức ảnh tập trung vào khe ngực cô. Sachs nói với Rhyme những thứ cô tìm thấy.
Người đẹp trong mộng của hắn , Rhyme lẩm bẩm. “Tiếp tục đi.”
“Em nghĩ chúng ta nên thu lấy mấy thứ này và bắt đầu khám nghiệm hiện trường trực tiếp.”
“Xem xét thêm một, hai phút nữa, Sachs. Hãy nhớ: đóng vai những người muốn nhón tay làm phúc, đây là ý tưởng của em chứ không phải của anh nhé.”
Cô run lên vì tức giận trước câu nói này. “Anh muốn gì nào?”, cô nóng nảy hỏi. “Anh muốn em lấy dấu vân tay à? Hay hút lấy tóc?”
“Tất nhiên là không. Em biết chúng ta không tìm kiếm những chứng cứ cho ủy viên công tố đem ra tòa. Chúng ta chỉ cần những thứ sẽ giúp chúng ta phỏng đoán được nơi hắn đưa hai cô gái kia đi. Hắn đâu định đưa họ về nhà. Hắn đã chuẩn bị một chốn dành riêng cho họ. Và hắn đến đó sớm hơn để sẵn sàng mọi thứ. Hắn có lẽ ít tuổi và thuộc loại lập dị nhưng dường như vẫn là kẻ tội phạm ngăn nắp. Thậm chí nếu hai cô gái kia đã chết thì anh dám cá rằng hắn cũng đã lựa chọn xong những nấm mồ đẹp đẽ ấm áp cho họ.”
Mặc dù đã làm việc cùng nhau suốt chừng ấy thời gian, Sachs vẫn không tài nào quen được với thái độ chai cứng của Rhyme. Cô biết đây chính là một trong những yếu tố tạo nên một nhà hình sự học - khoảng cách mà người ta bắt buộc phải giữ đối với nỗi khiếp sợ trước một vụ phạm tội - tuy nhiên cô thấy điều ấy mới khó khăn làm sao. Có thể bởi cô nhận ra cô cũng mang trong mình chính khả năng lạnh lùng ấy, sự lãnh đạm đến tê dại mà các nhân viên khám nghiệm hiện trường bắt buộc phải bật lên như bật một công tắc đèn điện, sự lãnh đạm đôi lúc khiến Sachs lo sợ sẽ làm trái tim cô trơ lỳ đi không mềm mại lại được nữa.
Những nấm mồ đẹp đẽ ấm áp...
Lincoln Rhyme, người sở hữu giọng nói có sức quyến rũ nhất khi anh hình dung ra một hiện trường vụ án, bảo cô: “Tiếp tục đi, Sachs, hãy soi sâu vào tâm trí hắn. Hãy trở thành Garrett Hanlon. Em đang nghĩ gì? Cuộc sống của em ra sao? Em vẫn thường làm gì trong căn phòng nhỏ bé đó, từng phút, từng phút, từng phút? Những ý nghĩ bí mật nhất của em là gì?”
Những nhà hình sự học cừ khôi nhất, Rhyme từng nói với Sachs, cũng giống những tiểu thuyết gia thiên tài, những người có thể tưởng tượng mình là các nhân vật do chính mình sáng tạo - và có thể biến hoàn toàn vào thế giới của một người khác.
Ánh mắt cô quét khắp căn phòng thêm lần nữa. Mình mười sáu tuổi. Mình là một gã trai rắc rối. Mình mồ côi, đám bạn học hay trêu chọc mình, mình mười sáu tuổi, mười sáu tuổi, mười sáu tuổi...
Một ý nghĩ xuất hiện. Sachs chộp lấy nó trước khi nó chuồi đi.
“Rhyme, anh biết điều kỳ lạ là gì không?”
“Nói anh nghe, Sachs.” Giọng anh nhẹ nhàng, khuyến khích.
“Hắn là một gã trai mới lớn, đúng không nào? Chà, em nhớ Tommy Briscoe - em hẹn hò với anh ta khi em mười sáu tuổi. Anh biết trên khắp các bức tường trong phòng anh ta là gì không?”
“Vào thời anh thì là poster in hình cái cô nàng Farrah Fawcett chết tiệt.”
“Chính xác là nó. Garrett không có ảnh chụp một người mẫu nổi tiếng nào cả, không có bất cứ một poster in hình từ tạp chíPlayboy hay Penthouse nào. Không có bộ bài Magic, không có Pokémon , không thứ đồ chơi nào. Không Alanis hay Celine. Không một poster in hình những tay viết nhạc rock... Và này, anh nghe này: không đầu chạy băng video, không ti vi, không máy stereo, không đài. Không Nintendo. Lạy Chúa, hắn mười sáu tuổi và hắn thậm chí không có máy vi tính.” Con gái đỡ đầu của Sachs mười hai tuổi và phòng con bé gần như là một phòng trưng bày đồ điện tử vậy.
“Có thể vấn để là tiền - do cha mẹ nuôi.”
“Này Rhyme, nếu em ở tuổi hắn và em muốn nghe nhạc tự em sẽ lắp một chiếc đài. Không có gì ngăn cản được tuổi mới lớn. Tuy nhiên, những thứ ấy không đem đến cho hắn hứng thú.”
“Tuyệt vời, Sachs.”
Có thể, cô ngẫm nghĩ, nhưng điều này nghĩa là gì? Ghi lại các quan sát mới chỉ là một nửa công viẹc của khoa học khám nghiệm. Nửa kia, quan trọng hơn nhiều, là đi tới các kết luận hữu ích từ sự quan sát. Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
“Sachs...”
“Xuỵt.”
Cô đấu tranh để gạt con người thực của mình sang bên: nữ cảnh sát đến từ Brooklyn, cô gái say mê những chiếc xe hơi hiệu General Motors khỏe khoắn, cựu người mẫu thời trang cho đại lý của Chantelle ở đại lộ Madison, quán quân bắn súng ngắn, cô gái có bộ tóc đỏ được nuôi dài và những móng tay cắt ngắn để thói quen gãi đầu hay da thịt mỗi lúc căng thẳng đừng gây nên các vết thương giống như các vết thương trên cơ thể chúa Jesus khi bị đóng đinh câu rút.
Cố gắng biến con người ấy thành tro bụi và trở thành một gã trai mười sáu tuổi rắc rối, đáng sợ. Một kẻ cần, hoặc muốn, giành phụ nữ bằng vũ lực. Cần, hoặc muốn, được giết chóc.
Mình có những suy nghĩ như thế nào?
“Em chẳng quan tâm tới các thú vui bình thường, âm nhạc, ti vi, máy vi tính. Em chẳng quan tâm tới tình dục bình thường.” Sachs nói, như nói với chính mình nữa. “Em chẳng quan tâm tới các mối quan hệ bình thường. Người ta cũng giống bọn côn trùng - những thứ để bị nhốt lại. Thực tế, em chỉ quan tâm tới bọn côn trùng. Bọn chúng là nguồn an ủi duy nhất của em. Niềm thích thú duy nhất của em.” Cô nói những điều này trong lúc đi đi lại lại trước dãy lọ. Rồi cô nhìn xuống sàn nhà dưới chân. “Vết di chuyển của chiếc ghế!”
“Cái gì?”
“Chiếc ghế của Garrett... nó có các bánh xe. Nó quay vào phía dãy lọ nuôi côn trùng. Tất cả những gì hắn làm là lăn ghế tiến lên lùi xuống, chăm chăm quan sát chúng và vẽ chúng. Chết tiệt, hắn có thể còn trò chuyện cùng chúng nữa ấy chứ. Toàn bộ cuộc sống của hắn là những con bọ này.” Nhưng vết di chuyển trên sàn gỗ dừng lại trước khi lăn đến chỗ chiếc lọ ở cuối dãy - chiếc lọ lớn nhất và được đặt hơi cách các lọ khác. Nó đựng những con vật mặc áo vàng. Những con vật bé tí thân cong cong mang hai màu đen - vàng giận dữ vụt qua vụt lại y như thể chúng ý thức được sự xâm phạm của Sachs.
Cô bước tới chỗ chiếc lọ, cẩn thận cúi nhìn nó, rồi nói với Rhyme: “Một chiếc lọ đựng đầy ong bắp cày. Em nghĩ đây là chiếc két an toàn của hắn.”
“Tại sao?”
“Nó không ở gần những chiếc lọ khác. Hắn chẳng bao giờ ngắm nghía nó cả - em có thể nói như thế dựa vào vết di chuyển của chiếc ghế. Và tất cả những chiếc lọ khác đều có nước - nuôi các loài bọ thủy sinh. Đây là chiếc lọ duy nhất đựng loài côn trùng bay được. Một ý tưởng tuyệt vời, Rhyme - ai sẽ động đến chiếc lọ như thế? Và chừng gang tay rưỡi giây hắn vùi giấu cái gì đó.”
“Kiểm tra bên trong xem.”
Sachs mở cửa và hỏi mượn bà Babbage đôi găng tay da bà ta mang găng tay vào, bà ta thấy Sachs đang nhìn vào chiếc lọ đựng ong bắp cày.
“Cô không định động đến nó đấy chứ?”, bà Babbage tuyệt vọng thầm thì.
“Tôi đang định làm thế.”
“Ôi, Garrett sẽ điên tiết lên. Nó vốn vẫn quát tháo bất cứ ai động đến lọ ong bắp cày của nó.”
“Bà Babbage, Garrett là một tội phạm đang chạy trốn. Việc hắn quát tháo bất cứ ai không phải mối bận tâm ở đây.”
“Nhưng nhỡ nó lén quay lại và thấy cô động đến chiếc lọ. Ý tôi là... Nó có thể nổi điên.” Nước mắt lại chực trào ra.
“Chúng tôi sẽ tìm thấy hắn trước khi hắn quay lại.” Sachs nói với giọng trấn an. “Đừng lo lắng.”
Sachs đeo găng tay, và cô lấy chiếc vỏ gối quấn xung quanh cánh tay để trần. Cô từ từ kéo cái nắp lọ bằng lưới ra, thò tay vào. Hai con ong bắp cày bò lên găng tay, nhưng chỉ lát sau nó bay đi. Số còn lại hoàn toàn thờ ơ trước sự xâm phạm này. Cô cố gắng không làm chúng xáo động.
Bị đốt một trăm ba mươi bảy phát…
Sachs chỉ sục xuống chừng nửa gang tay đã phát hiện được một chiếc túi nhựa. “Đây rồi.” Cô rút nó lên. Một con ong bắp cày thoát khỏi lọ và mất hút trong ngôi nhà trước khi cô kịp đậy cái nắp bằng lưới lại.
Cởi đôi găng tay da, đeo đôi găng tay cao su vào, cô mở chiếc túi, đổ các thứ đựng bên trong ra giường. Một cuộn dây câu mảnh. Một ít tiền - chừng trăm đô la tiền mặt và bốn đồng Eisenhower bằng bạc. Một khung ảnh khác, cái này lồng bức hình cắt từ bài báo nọ, chụp Garrett ngồi với gia đình một tuần trưóc vụ tai nạn ô tô đã cướp mất cha mẹ và em gái gã. Một đoạn dây xích ngắn xỏ một chìa khóa méo mó - giống chìa khóa ô tô, tuy nhiên không có logo trên đầu chìa, chỉ có một dãy số ngắn. Cô báo cáo với Rhyme về chiếc chìa khóa.
“Tốt, Sachs ạ. Tuyệt vời. Anh chưa biết nó có ý nghĩa gì, nhưng nó là sự khởi đầu. Bây giờ thì chuyển sang hiện trường trực tiếp đi. Bến tàu kênh Nước đen.” Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Sachs ngừng một chút, nhìn xung quanh căn phòng. Con ong bắp cày thoát khỏi lọ đã quay lại, đang cố gắng chui trở vào. Sachs tự hỏi liệu nó đang gửi tới các anh em nó thông điệp gì.
“Tôi không thể theo kịp”, Lydia bảo Garrett. “Tôi không thể đi nhanh như thế này”, cô hổn hển nói. Mồ hôi chảy ròng ròng trên mặt cô. Bộ đồng phục của cô ướt sũng.
“Im”, Garrett giận dữ quát. “Tao cần phải lắng nghe. Tao không tài nào nghe được khi mày cứ lải nhải suốt.”
Lắng nghe cái gì? Lydia tự hỏi.
Garrett lại xem bản đồ và dẫn cô đi dọc một lối mòn khác. Họ đang còn ở sâu trong rừng thông và mặc dù họ không đi dưới nắng, cô vẫn bị chóng mặt, nhận ra những triệu chứng ban đầu của cơn say nắng.
Gã liếc nhìn Lydia, ánh mắt lại đặt lên ngực cô.
Các móng tay búng tanh tách.
Cái nóng khủng khiếp.
“Xin cậu”, Lydia vừa thì thào vừa khóc. “Tôi không thể đi như thế này! Xin cậu!”
“Im! Tao sẽ không nói với mày nữa đâu đấy!”
Một đám muỗi mắt bay xung quanh mặt Lydia. Cô hít phải một, hai con và kinh tởm nhổ ra. Lạy Chúa, cô mới ghét cái chốn này làm sao chứ - trong rừng. Lydia Johansson vốn vẫn ghét đi ra ngoài trời. Phần lớn mọi người mê những cánh rừng, những bể bơi, những sân chơi. Nhưng hạnh phúc đối với cô là sự mãn nguyện mong manh hầu như chỉ diễn ra bên trong nhà: công việc của cô, những cuốn truyện kinh dị và ti vi, tán gẫu với các bạn gái còn độc thân bên ly cocktail margarita tại nhà hàng T.G.I Ngày thứ Sáu, những cuộc đi mua sắm lu bù, những buổi tối thi thoảng cùng bạn trai.
Toàn những niềm vui diễn ra bên trong nhà.
Khung cảnh ngoài trời gợi cho Lydia nghĩ tới các bữa tiệc thịt nướng mà những người bạn đã lập gia đình tổ chức, nó gợi cho cô nghĩ tới những gia đình ngồi xung quanh bể bơi trong lúc bọn trẻ chơi với những thứ đồ chơi bơm phồng, những chuyến picnic, những phụ nữ gọn ghẽ diện đồ bơi hiệu Speedo và dép xỏ ngón.
Khung cảnh ngoài trời gợi cho Lydia nghĩ tới một cuộc sống mà cô mong muốn nhưng không có được, gợi cho cô nghĩ tới nỗi cô đơn của cô.
Garrett dẫn cô đi xuôi một lối mòn khác, ra khỏi khu rừng. Cây cối đột nhiên biến mất và một cái hố khổng lồ mở trước mặt họ. Đó là một mỏ đá cũ. Nước dưới đáy hố nửa xanh lá cây nửa xanh da trời. Cô nhớ cách đây nhiều năm trẻ con từng xuống đây bơi, trước khi đầm lầy bắt đầu xâm lấn đất đai phía bắc sông Paquo và khu vực này trở nên nguy hiểm hơn.
“Đi nào”, Garret nói, hất đầu chỉ cái hố.
“Không. Tôi không muốn. Nó đáng sợ lắm.”
“Tao chẳng quan tâm chuyện mày muốn gì”, Garrett quát. “Đi nào!”
Gã tóm hai bàn tay bị trói của Lydia và lôi cô theo một lối mòn dốc đứng xuống cái gờ đá lởm chởm. Garrett cởi áo sơ mi, cúi người té nước lên lớp da sưng tấy. Gã gãi và chọc vào những vết lằn, xem xét các móng tay. Thật kinh tởm. Gã ngẩng lên nhìn Lydia. “Mày muốn làm thế chứ? Rất dễ chịu. Mày có thể cởi váy ra, nếu mày muốn. Xuống bơi.”
Khiếp sợ với cái ý nghĩ trần truồng trước Garrett, Lydia dứt khoát lắc đầu. Rồi cô ngồi xuống gần bờ hố, té nước lên mặt và cánh tay.
“Chỉ có điều đừng uống nước đó. Tao có cái này.”
Garrett lôi từ đằng sau một tảng đá ra cái túi vải gai bẩn thỉu, hẳn là gã mới giấu nó vào đây. Gã lôi ra chai nước và vài phong bích quy phó mát với bơ lạc. Gã ăn một phong bích quy, uống nửa chai nước. Gã đưa phần còn lại cho Lydia.
Cô lắc đầu, từ chối.
“Mẹ kiếp, tao không bị AIDS hay bị làm sao đâu, nếu mày đang nghĩ như vậy. Mày phải uống gì đi chứ.”
Phớt lờ cái chai, Lydia ghé miệng xuống làn nước dưới mỏ đá, hớp sâu một hơi. Nó mặn và có vị sắt. Thật kinh tởm. Cô nghẹt thở, suýt phát nôn.
“Lạy Chúa, tao đã bảo mà”, Garrett quát. Gã lại đưa chai nước cho Lydia. “Có đủ thứ bẩn thỉu dưới đó. Đừng ngu ngốc quá như thế.” Gã quẳng cho cô cái chai. Cô vụng về bắt lấy bằng đôi bàn tay bị trói và uống cạn.
Được uống nước, Lydia ngay lập tức tỉnh táo. Cô bớt căng thẳng, hỏi: “Mary Beth đâu? Cậu đã làm gì cô ấy?”
“Cô ấy đang ở một chỗ ngoài biển. Ngôi nhà cũ của một người khu bờ.”
Lydia biết Garrett muốn nói gì. Đối với dân Carolina, người khu bờ nghĩa là người sống ở Bờ Ngoài - dải đất ngăn cách Đại Tây Dương với bờ biển Bắc Carolina. Vậy Mary Beth đang ở đó. Và cô hiểu tại sao họ đã đi về phía đông - về phía vùng đầm lầy không nhà cửa, hầu như không có nơi nào để ẩn trốn cả. Chắc gã đã giấu một con thuyền để đi xuyên qua vùng đầm lầy ra hệ thống đường thủy ven biển, đến Elizabeth City, vượt eo Albemarle, sang khu bờ.
Garrett tiếp tục: “Tao thích chỗ đó. Nó đẹp cực kỳ. Mày thích biển chứ hả?”. Gã hỏi Lydia theo cái cách lạ lùng - như thể trò chuyện - và gã xem ra hầu như bình thường. Trong khoảnh khắc, cô bớt khiếp sợ. Nhưng rồi gã lại ngồi sững, lắng nghe gì đó, đặt một ngón tay lên môi bảo cô im lặng, tức tối cau mày, và phần tăm tối của con người gã quay lại. Cuối cùng, gã lắc đầu khi đi đến kết luận rằng cái gì đó mà gã vừa lắng nghe không phải mối đe dọa. Gã vừa chà mu bàn tay khắp mặt vừa gãi một vết lằn khác. “Đi thôi.” Gã hất đầu chỉ ngược lên lối mòn dốc đứng dẫn tới mép mỏ đá. “Không xa đâu.”
“Ra Bờ Ngoài phải mất một ngày. Hơn một ngày.”
“Rõ khỉ, hôm nay chúng ta chưa ra đó.” Garrett lạnh lùng cười thành tiếng, như thể Lydia vừa nêu lên một ý kiến ngu ngốc nữa. “Chúng ta sẽ trốn loanh quanh đâu đây và để cho cái bọn chết giẫm tìm kiếm chúng ta đi qua. Chúng ta sẽ đợi đến hết đêm đã.” Gã không nhìn cô khi nói câu này.
“Đợi đến hết đêm?”, Lydia thì thào một cách tuyệt vọng.
Nhưng Garrett không nói gì nữa. Gã đẩy cô đi theo lối mòn dốc đứng dẫn tới mép mỏ đá và sau đó là rừng thông.
Chú Thích:
<15> Nguyên văn là Alien.
<16> Nguyên văn là Starship Troopers.
15.06.2015
PHẦN 1: PHÍA BẮC SÔNG PAQUO
CHƯƠNG 6
Dịch giả: Đinh Minh Hương
Nguồn: NXB Văn học
Nội dung thu gọn
Sự cuốn hút của hiện trường những vụ án mạng là gì?
Từng khám nghiệm hàng tá những hiện trường, Amelia Sachs hay đặt ra câu hỏi này và giờ đây cô lại ngẫm nghĩ về nó khi đứng trên lề đường 112 ở Bến tàu kênh Nước đen, nhìn xuống sông Paquenoke.
Đây là nơi cậu thiếu niên Billy Stail đã chết trong vũng máu, là nơi hai cô gái trẻ đã bị bắt cóc, nơi cuộc đời một cảnh sát tận tụy đã vĩnh viễn thay đổi - có thể sẽ kết thúc - bởi cả trăm con ong bắp cày. Và thậm chí dưới ánh nắng mặt trời không ngừng thiêu đốt, tâm trạng người dân khu vực Bến tàu kênh Nước đen vẫn bất an, ảm đạm.
Sachs thận trọng quan sát xung quanh. Chỗ này, tại hiện trường vụ án, một sườn đồi dốc đứng, vương vãi rác, dẫn từ lề đường 112 xuống bờ sông lầy lội. Đến đoạn đất bằng trở lại, mọc lên những cây liễu, những cây bách và hàng túm cỏ cao. Chiếc cầu tàu cũ kỹ, mục nát chạy ra ngoài sông chừng ba mươi feet, rồi chìm dần dưới nước.
Ở ngay khu vực này thì chẳng có nhà cửa gì, tuy nhiên Sachs để ý thấy một loạt những ngôi nhà lớn, kiểu thời kỳ đầu thực dân cách không xa con sông. Những ngôi nhà rõ ràng đắt tiền nhưng Sachs để ý thấy thậm chí bộ phận dân cư này của Bến tàu kênh Nước đen, cũng giống như bản thân quận lỵ, cứ có vẻ lạnh lẽo, hoang vắng. Cô mất một lúc mới nhận ra lý do tại sao - không có trẻ em chơi ngoài sân mặc dù đang là thời gian nghỉ hè. Không có những bể bơi bằng cao su bơm phồng, không có xe đạp loăng quăng, không có người tản bộ. Khung cảnh này gợi cho cô nhớ tới cái đám tang mà họ đi ngang qua mấy tiếng đồng hồ trước - nhớ tới chiếc quan tài của đứa bé - và cô phải kiên quyết dứt các ý nghĩ khỏi hồi ức buồn bã đó, để trở về với nhiệm vụ của mình.
Khám nghiệm hiện trường. Những dải băng vàng chăng xung quanh hai địa điểm. Địa điểm gần mép nước hơn có một cây liễu, trước cây liễu có vài bó hoa - là nơi Garrett đã bắt cóc Lydia. Địa điểm kia là một khoảng đất trống, được bao bọc xung quanh bởi cây cối, nơi mà, ngày hôm qua, gã trai đã giết chết Billy Stail và bắt cóc Mary Beth. Ở giữa hiện trường này là một loạt những cái hố nông Mary Beth đã đào để tìm kiếm đầu những mũi tên cũng như những di vật khác. Cách trung tâm hiện trường hai mươi feet là đường phun sơn đánh dấu vị trí xác Billy nằm. Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Phun sơn à? Sachs thất vọng nghĩ. Những cảnh sát này rõ ràng chẳng quen với việc điều tra án mạng.
Một chiếc xe của văn phòng cảnh sát trưởng trờ lên lề đường và Lucy Kerr trèo ra. Chính xác là điều mình cần - thêm tay thêm chân. Nữ cảnh sát lạnh lùng gật đầu chào Sachs. “Có tìm thấy thứ gì hữu ích tại nhà hắn không?”
“Vài thứ.” Sachs chẳng giải thích thêm và hất đầu chỉ xuống sườn đồi.
Qua bộ tai nghe, cô nghe thấy Rhyme hỏi: “Hiện trường có bị giẫm nát bấy như trong ảnh không?”.
“Giống như một đàn gia súc đã đi qua vậy. Phải tới hai chục dấu chân.”
“Mẹ kiếp.” Nhà hình sự học lẩm bẩm.
Lucy nghe thấy lời bình phẩm của Sachs nhưng không nói gì, chỉ tiếp tục nhìn ra chỗ nước tối thẫm nơi dòng kênh gặp sông.
Sachs hỏi: “Kia là chiếc thuyền hắn dùng để chạy trốn à?” Cô nhìn về phía một chiếc xuồng nhỏ đậu ghếch lên bờ sông lầy lội.
“Đằng kia, đúng rồi.” Jesse Corn nói. “Không phải của hắn. Hắn đánh cắp của mấy người ở mạn trên sông. Chị muốn xem xét nó?”
“Để sau. Bây giờ, liệu lối nào không phải là lối hắn đã tới đây? Tôi muốn nói, ngày hôm qua. Khi hắn giết chết Billy.” Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
“Không phải à?” Jesse chỉ về phía đông. “Chẳng có gì ở đằng đó. Toàn đầm lầy và sậy thôi. Thậm chí không thể đậu một chiếc thuyền. Vậy hoặc hắn đi dọc theo đường 112 rồi đi xuống bờ đất này. Hoặc, vì có chiếc thuyền, tôi cho rằng hắn đã chèo thuyền từ bên kia sông sang.”
Sachs mở va li đựng đồ khám nghiệm hiện trường. Cô bảo Jesse: “Tôi muốn lấy mẫu đối chiếu đất ở xung quanh đây.”
“Mẫu đối chiếu?”
“Nhiều mẫu khác nhau, anh biết đấy.”
“Chính xác là đất ở đây?”
“Phải.”
“Được mà”, Jesse trả lời. Rồi hỏi: “Tại sao?”.
“Vì nếu chúng ta tìm thấy thứ đất không phù hợp với đất tự nhiên ở khu vực này, nó có thể từ nơi Garrett giữ hai cô gái.”
Lucy nói: “Nó cũng có thể từ vườn nhà Lydia hay từ sân sau nhà Mary Beth hay từ giày của lũ trẻ đến đây câu cá vài ngày trước.”
“Có thể.” Sachs nói một cách kiên nhẫn. “Nhưng dù sao chúng ta cũng cần làm việc này.” Cô đưa cho Jesse một cái túi nhựa. Anh ta sải bước đi, hài lòng vì được giúp đỡ cô. Sachs bắt đầu xuống đồi. Cô dừng chân, lại mở va li đựng đồ khám nghiệm hiện trường. Không có dây thun. Cô để ý thấy Lucy Kerr cột mấy sợi ở cuối bím tóc tết kiểu Pháp. “Mượn được chứ?”, cô hỏi. “Mấy sợi dây thun ấy?”
Sau một chút chần chừ, nữ cảnh sát tháo chúng ra. Sachs quấn vào giày mình. Cô giải thích: “Thế thì tôi sẽ biết dấu chân nào là của tôi”.
Cứ như điều đó tạo nên sự khác biệt giữa cái bãi lộn xộn này ấy, Sachs tự nhủ.
Cô bước vào hiện trường.
“Sachs, em có gì rồi?”, Rhyme hỏi. Sóng bộ đàm thậm chí tồi hơn cả lúc trước.
“Em không thể hình dung rõ ràng quang cảnh cho lắm.” Sachs vừa trả lời vừa xem xét mặt đất. “Quá nhiều dấu chân. Phải tới tám hay mười người khác nhau đi qua đây trong vòng hai mươi tư tiếng đồng hồ vừa rồi. Nhưng em cũng có những hình dung cơ bản về việc xảy ra - Mary Beth đang quỳ dưới đất. Dấu giày của một người là nam giới tiến đến từ phía tây - từ phía dòng kênh. Dấu giày của Garrett. Em nhớ hình dáng đế giày mà Jesse tìm thấy. Em có thể nhận ra nơi Mary Beth đứng lên và lùi lại. Dấu giày một người là nam giới khác tiến đến từ phía nam. Billy. Cậu ta đi xuống bờ đất. Cậu ta di chuyển nhanh - hầu như chỉ trên mũi giày. Vậy là cậu ta đang guồng chân chạy. Garrett tiến về phía cậu ta. Hai người ẩu đả. Billy dựa vào một cây liễu. Garrett tiến về phía cậu ta. Tiếp tục ẩu đả.” Sachs xem xét đường vẽ màu trắng đánh dấu thân thể Billy. “Phát đầu tiên Garrett đập Billy bằng xẻng là đập vào đầu. Cậu ta ngã xuống. Phát ấy chưa giết chết cậu ta. Nhưng Garrett đập cậu ta một phát nữa vào cổ khi cậu ta ngã xuống. Phát ấy mới là phát chí mạng.”
Jesse cất tiếng cười đầy ngạc nhiên, nhìn chằm chằm vào vẫn cái đường vẽ đó y như thể nhìn vào một cái gì hoàn toàn khác với cái Sachs nhìn. “Làm sao chị biết được?”
Cô lơ đãng nói: “Các vết máu. Có mấy giọt nhỏ ở đây”. Cô chỉ xuống mặt đất. “Cùng những giọt như thế rơi thành một đoạn khoảng sáu feet - đó là máu từ đầu Billy. Nhưng cái vết máu phun mạnh kia - thông thường phải từ chỗ đứt động mạch cảnh hoặc tĩnh mạch cảnh - bắt đầu khi cậu ta đã ngã... Được rồi, Rhyme, em bắt đầu khám nghiệm đây.”
Đi theo đường bàn cờ. Từng bước. Từng bước. Ánh mắt đặt lên lớp bụi đất và những cọng cỏ. Ánh mắt đặt lên lớp vỏ đầy đầu mấu của các cây liễu và sồi. Ánh mắt đặt lên các cành nhánh chìa bên trên cao. (“Một hiện trường vụ án là một không gian ba chiều, Sachs ạ”, Rhyme hay nhắc nhở thế.)
“Những đầu mẩu thuốc lá vẫn còn ở đó chứ?”, Rhyme hỏi.
“Vẫn còn.” Sachs quay sang Lucy. “Những đầu mẩu thuốc lá ấy”, cô nói, hất đầu chỉ xuống mặt đất. “Tại sao không nhặt chúng?”
“Ồ.” Jesse trả lời thay cho Lucy. “Của Nathan thôi mà.”
“Ai vậy?”
“Nathan Groomer. Một đồng nghiệp của chúng tôi. Anh ta đã cố gắng cai mà chưa được.”
Sachs thở dài, tuy nhiên kiềm chế không nói ra là bất cứ người cảnh sát nào hút thuốc tại hiện trường vụ án đều đáng bị đình chỉ công tác. Cô xem xét mặt đất kỹ lưỡng, nhưng chẳng có kết quả gì. Mọi loại sợi nhìn thấy được, những mảnh giấy hay các vật chứng khác đều đã bị di chuyển hoặc bị gió cuốn mất. Cô bước tới hiện trường vụ bắt cóc sáng hôm nay, chui qua dải băng vàng và bắt đầu đi theo đường bàn cờ xung quanh cây liễu. Đi tới đi lui, chiến đấu với cảm giác choáng váng vì nóng. “Rhyme, chẳng có gì đáng kể ở đây đâu... nhưng... khoan nào.” Cô khuỵu chân xuống thận trọng nhặt lên một tờ khăn giấy Kleenex bị vo tròn. Đầu gối cô kêu răng rắc - do chứng viêm khớp đã hành hạ cô nhiều năm nay. Thà chạy đuổi theo một đối tượng còn hơn phải ngồi xổm, cô nghĩ. “Kleenex. Trông tương tự những tờ tìm thấy tại nhà hắn, Rhyme. Chỉ có điều tờ này dính máu. Khá nhiều máu.” Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Lucy hỏi: “Cô nghĩ Garrett đánh rơi?”
Sachs xem xét nó. “Tôi chưa biết. Tất cả những gì tôi có thẽ nói là nó không ở đây từ đêm hôm qua. Lượng hơi ẩm quá ít. Sương sớm đã phải làm nó rã ra phân nửa rồi.”
“Tuyệt vời, Sachs. Em biết được điều ấy ở đâu? Anh không nhớ đã từng đề cập tới nó.”
“Có, anh đã từng.” Cô nói vẻ lơ đãng. “Sách giáo khoa của anh. Chương mười hai. Về giấy.”
Sachs đi xuống mép nước, xem xét chiếc thuyền nhỏ. Cô không tìm thấy gì. Rồi cô hỏi: “Jesse, anh có thể chèo thuyền đưa tôi sang bên kia được chứ?”
Anh ta, tất nhiên, còn hơn cả mừng rỡ. Và cô tự hỏi liệu bao lâu nữa thì anh ta sẽ đưa ra lời đề nghị đi uống cà phê lần đầu tiên. Chẳng được mời, Lucy cũng trèo vào xuồng và họ đẩy cho nó rời khỏi bờ. Ba người lặng lẽ chèo sang bên kia sông, dòng nước dập dềnh sóng một cách đáng ngạc nhiên.
Trên bờ bên kia, Sachs tìm thấy các dấu chân trên bùn: giày của Lydia - giày vải y tá đế mịn. Và dấu chân Garrett - một chân đi đất, một chân đi chiếc giày chạy mà cô đã biết kiểu đế. Cô đi theo các dấu chân vào rừng. Chúng dẫn đến cái chòi săn nơi Ed Schaeffer bị ong bắp cày đốt. Sachs dừng lại, vô cùng thất vọng.
Chuyện quái quỷ gì đã xảy ra ở đây vậy?
“Lạy Chúa, Rhyme, trông giống như người ta đã quét hiện trường.”
Các đối tượng tội phạm hay sử dụng chổi hoặc thậm chí cành lá để phá hủy hoặc làm lộn xộn chứng cứ tại nơi gây án.
Nhưng Jesse Corn nói: “Ồ, đó là do chiếc cánh quạt”.
“Máy bay trực thăng ấy à?”, Sachs hỏi, điếng cả người.
“Chà, phải. Chiếc Medevac - để đưa Ed Schaeffer đi.”
“Nhưng gió hút từ những cánh quạt đã làm hỏng hiện trường”, Sachs nói. “Quy trình chuẩn là chuyển nạn nhân bị thương sang chỗ khác rồi mới đáp máy bay xuống.”
“Quy trình chuẩn?” Lucy Kerr hỏi, giọng khó chịu. “Xin lỗi, nhưng chúng tôi hơi lo lắng cho Ed. Phải cố gắng cứu sống ông ấy, cô biết đấy.”
Sachs chẳng đáp lời. Cô từ từ khẽ khàng bước vào chòi sao cho không làm xáo động hàng chục con ong bắp cày đang lượn xung quanh cái tổ vỡ. Tuy nhiên, tấm bản đồ hay bất cứ manh mối nào mà cảnh sát Schaeffer nhìn thấy bên trong bây giờ đã biến mất và gió từ chiếc máy bay trực thăng đã thổi tung lớp đất bề mặt tới nỗi thậm chí nếu lấy mẫu đất cũng sẽ là vô ích thôi.
“Chúng ta hãy trở về la-bô.” Sachs bảo Lucy và Jesse.
Khi họ đang quay lại bờ sông thì có tiếng loạt soạt đằng sau lưng cô và một gã đàn ông khổng lồ bước ra từ đám cây bụi rậm rạp mọc xung quanh cụm liễu đen, khuềnh khoàng tiến đến phía họ.
Jesse Corn chưa kịp rút vũ khí thì Sachs đã rút khẩu Smittie được cho mượn ra khỏi bao, lên cò và chĩa súng vào ngực kẻ vừa đột ngột xuất hiện. Gã đứng sững, giơ hai bàn tay về phía trước, chớp mắt ngạc nhiên.
Gã có râu quai nón, cao và to béo, tóc tết. Quần bò, áo phông xám, gi lê bò. Giày cao cổ. Ở gã có cái gì đó quen quen.
Sachs đã trông thấy gã ở đâu nhỉ?
Jesse phải nhắc tên gã thì cô mới nhớ ra. “Rich.”
Một trong ba gã lúc trước họ gặp bên ngoài trụ sở chính quyền quận. Rich Culbeau - Sachs nhớ cái họ đặc biệt. Sachs cũng nhớ gã và hai gã bạn đã liếc nhìn thân hình cô với sự đểu cáng ngấm ngầm và liếc nhìn Thom với vẻ khinh miệt. Vì thế mà cô chĩa khẩu súng lục vào gã lâu hơn một chút. Rồi cô chầm chậm chúc khẩu súng xuống đất, và đút lại vào bao.
“Xin lỗi”, Culbeau nói. “Tôi không định làm ai hoảng sợ cả. Ê, Jesse.”
“Đây là hiện trường một vụ án”, Sachs nhắc nhở.
Qua bộ tai nghe, cô nghe thấy tiếng Rhyme: “Ai đấy?”.
Sachs quay đi, thì thầm vào micro: “Một trong những nhân vật bước ra từ bộ phim Giải thoát<17> mà chúng ta gặp sáng hôm nay.”
“Chúng tôi đang làm việc ở đây, Rich”, Lucy nói. “Anh không thể gây cản trở cho chúng tôi.”
“Tôi không định gây cản trở cho các cô”, Cullbeau nói chuyển sang nhìn chằm chằm vào rừng. “Nhưng tôi có quyền thử vận may với một nghìn ấy giống như tất cả những người khác. Các cô làm sao yêu cầu tôi ngừng tìm kiếm được.”
“Một nghìn nào?”
“Chết tiệt.” Sachs buột thốt vào micro. “Người ta treo một giải thưởng, Rhyme.”
“Ồ, không. Đó là thứ cuối cùng chúng ta cần.”
Trong số các yếu tố chính làm hỏng hiện trường vụ án và gây cản trở cho việc điều tra thì giải thưởng và những kẻ thích tìm kiếm vật lưu niệm là tệ hại nhất.
Culbeau giải thích: “Bà mẹ Mary Beth treo giải thưởng này. Bà ta có tiền và tôi cá là đến xẩm tối, nêu cô con gái vẫn chưa trở về, bà ta sẽ treo giải hai nghìn. Có khi còn cao hơn.” Rồi anh ta lại nhìn Sachs. “Tôi sẽ không gây bất cứ phiền phức nào, thưa cô. Cô chẳng phải người ở đây, cô nhìn tôi và nghĩ tôi đích thị là kẻ vô tích sự - tôi đã nghe thấy cô nói cái tên Giải thoát vào chiếc bộ đàm đáng yêu kia của cô. Dù sao, tôi cũng ưa cuốn sách hơn bộ phim. Cô đã đọc chưa? Chà, chẳng thành vấn đề. Có điều đừng căn cứ quá nhiều vào hình thức để đánh giá. Jesse, hãy nói cho cô ta biết ai đã cứu đứa con gái bị mất tích trong đầm lầy Sầu Thảm năm ngoái. Ai mà tất cả mọi người đều biết là đã xông pha vào chốn rắn rết, muỗi mòng và khiến toàn quận thương xót.”
Jesse nói: “Rich và Harris Tomel đã tìm được cô bé. Bị mất tích ba ngày trong đầm lầy. Nếu không có họ, cô bé chắc chết.”
“Chủ yếu là tôi”, Culbeau lẩm bẩm. “Harris có bao giờ thích giày bị bẩn.”
“Anh đã làm một việc tốt”, Sachs nói bằng giọng thiếu thân mật. “Tôi chỉ muốn chắc chắn rằng anh không khiến chúng tôi mất cơ hội tìm thấy hai cô gái.”
“Điều đó sẽ không xảy ra. Không có lý do gì để cô ném tất cả tro vào mặt tôi.” Cullbeau quay người và khuềnh khoàng bước đi.
“Tro?”
“Nghĩa là giận dữ ấy, cô biết chứ hả.”
Sachs nói với Rhyme về vụ đụng độ.
Anh gạt đi. “Chúng ta đâu có thời gian mà lo lắng về những người địa phương, Sachs. Chúng ta phải lần theo dấu vết. Và phải lần theo một cách nhanh chóng. Hãy trở về đây, với các thứ em đã tìm thấy.”
Trong lúc họ ngồi trên thuyền quay lại kênh, Sachs hỏi. “Anh ta sẽ gây rắc rối chừng nào?”
“Culbeau ấy à?” Lucy đáp lời. “Anh ta là kẻ rất lười biếng. Hút ma túy và uống quá nhiều rượu, nhưng anh ta chưa bao giờ để xảy ra chuyện gì tệ hại hơn chuyện quại vỡ hàm ai đó ở chốn công cộng. Chúng tôi nghĩ anh ta chỉ loanh quanh tìm kiếm chỗ nào đấy thôi và thậm chí với một nghìn đô la tiền thưởng, tôi không thể tưởng tượng anh ta lại đạt được kết quả gì.”
“Anh ta và hai người bạn thân làm gì?”
Jesse hỏi: “Ồ, chị cũng trông thấy họ rồi à? Chà, Sean - anh chàng gầy giơ xương ấy - và Rich, họ không có cái mà chị gọi là nghề nghiệp thực thụ đâu. Bới rác và làm thuê theo ngày. Harris Tomel từng học đại học - dù sao cũng vài ba năm. Anh ta luôn cố gắng mua một cơ sở kinh doanh hay hùn hạp gì đó. Tôi chưa bao giờ nghe nói có việc nào đem lại nhiều tiền. Nhưng bộ ba này thuộc loại rủng rỉnh và như thế tức là họ dính dáng đến rượu lậu.”
“Rượu lậu? Các anh không bắt họ sao?”
Jesse nói, sau một chút im lặng: “Đôi khi, ở đây, người ta không ngại sờ tới những thành phần phức tạp. Đôi khi người ta lại ngại.”
Đây là một triết lý về thực thi pháp luật mà, Sachs biết, hầu như chẳng giới hạn riêng cho miền Nam.
Họ cập lại bờ phía nam con sông, bên cạnh hiện trường vụ án, và Sachs trèo được khỏi thuyền trước khi Jesse kịp chìa bàn tay ra - dù sao anh ta cũng vẫn chìa ra.
Một hình dáng khổng lồ, tối thẫm bỗng dưng xuất hiện trong tầm nhìn. Chiếc xà lan đen sì, dài bốn mươi feet, từ từ trôi xuôi dòng kênh, vượt qua họ và đi ra sông. Sachs đọc được hàng chữ trên thành: CÔNG TY DAVETT.
Sachs hỏi: “Công ty gì thế?”
Lucy trả lời: “Một công ty không thuộc thị trấn này. Họ vận chuyển hàng hóa ra hệ thống đường thủy ven biển xuyên kênh đào đầm lầy Sầu Thảm và vào Norfolk. Nhựa đường, giấy dầu, đại loại vậy.”
Rhyme nghe được điều này qua bộ đàm và nói: “Hãy hỏi xem có chuyến hàng hóa nào xung quanh thời điểm xảy ra vụ giết người không. Lấy tên của đội chạy xà lan.”
Sachs nói lại với Lucy, nhưng cô bảo: “Tôi làm việc đó rồi. Một trong những bước đầu tiên mà Jim và tôi tiến hành.” Cô trả lời giọng nhát gừng. “Không có chuyến hàng nào. Nếu cô quan tâm, xin bổ sung thêm rằng chúng tôi cũng đã gặp tất cả những người ở thị trấn bình thường vẫn đi lại dọc đường Kênh Đào và đường 112. Chẳng đạt được kết quả gì.”
“Một cách hay đấy”, Sachs bình luận.
“Chỉ là quy trình chuẩn thôi.” Lucy lãnh đạm nói, rồi sải bước về xe của mình giống như một nữ sinh vụng về ở trường trung học rốt cuộc đã hất được cả xô nước lạnh vào đội trưởng hoạt náo viên.
Chú Thích:
<17> Nguyên văn là Deliverance.
15.06.2015
PHẦN 1: PHÍA BẮC SÔNG PAQUO
CHƯƠNG 7
Dịch giả: Đinh Minh Hương
Nguồn: NXB Văn học
Nội dung thu gọn
Tôi sẽ không cho anh ấy làm bất cứ việc gì cho đến khi các vị chưa đưa được một máy điều hòa nhiệt độ đến đây.”
“Thom, chúng ta không có thời gian cho chuyện này đâu”, Rhyme quát. Rồi anh chỉ chỗ để người công nhân tháo dỡ các thiết bị vừa được chở từ cơ quan cảnh sát bang tới.
Bell nói: “Steve đã ra ngoài lùng một cái. Không dễ dàng như tôi tưởng.”
“Tôi chẳng cần đâu.”
Thom kiên nhẫn giải thích: “Tôi lo sợ tình trạng tăng phản xạ tự phát.”
“Thom, tôi không nhớ mình đã nghe nói rằng nhiệt độ cao sẽ ảnh hưởng xấu tới huyết áp”, Rhyme đáp lời. “Cậu đã đọc ở đâu à? Tôi thì chưa đọc ở đâu cả. Có thể cậu sẽ chỉ được cho tôi là cậu đã đọc nó ở đâu.”
“Tôi không cần sự mỉa mai của anh, Lincoln.” Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
“Ồ, tôi đang mỉa mai đấy ư?”
Anh chàng phụ tá kiên nhẫn nói với Bell: “Cái nóng khiến cho mô phình ra. Mô phình ra dẫn đến tăng huyết áp, đồng thời tăng cảm giác cáu bẳn. Và cái đó có thể dẫn đến tăng phản xạ tự phát, tình trạng có thể giết chết anh ấy. Chúng tôi cần một máy điều hòa nhiệt độ. Đơn giản thế thôi.”
Thom là người phụ tá điều dưỡng duy nhất trụ lại được sau vài tháng đầu tiên phục vụ nhà hình sự học. Những người khác hoặc là tự bỏ việc hoặc là bị đuổi thẳng.
“Cắm cái kia vào”, Rhyme ra lệnh cho một cảnh sát đang đẩy chiếc máy tách hợp chất gắn bánh xe vào góc phòng.
“Không.” Thom bắt chéo hai cánh tay và đứng trước đoạn dây điện được kéo ra. Viên cảnh sát trông thấy vẻ mặt anh chàng phụ tá và băn khoăn dừng lại, không chuẩn bị tinh thần đối đầu với người thanh niên kiên định này. “Khi nào có máy điều hòa... khi đóchúng ta sẽ cắm cái kia vào.”
“Lạy Chúa.” Rhyme nhăn nhó. Một trong những điều đáng chán nhất của tình trạng liệt tứ chi là không thể xả nỗi tức giận. Sau khi bị tai nạn, Rhyme nhanh chóng nhận ra rằng bằng hành động đơn giản như đi đi lại lại hay nắm chặt bàn tay - chứ chưa kể việc vớ lấy các vật nặng mà ném (thú giải trí của Blaine, vợ cũ của Rhyme) - người ta sẽ làm tiêu tan được các cơn thịnh nộ. “Nếu tôitức giận tôi có thể bị chuột rút hoặc co cơ”, Rhyme nêu vấn đề một cách bực bội.
“Các điều đó sẽ không giết chết anh - như tình trạng tăng phản xạ tự phát.” Thom nói với sự vui vẻ đầy mưu lược, khiến Rhyme cáu tiết thêm.
Bell nhiệt tình bảo: “Cho tôi năm phút”. Anh ta biến mất và đám nhân viên tiếp tục đẩy các thiết bị vào. Thiết bị tách hợp chất chưa được cắm điện mất một lúc.
Lincoln Rhyme xem xét đống máy móc. Lòng tự hỏi sẽ như thế nào khi những ngón tay anh lại thực sự nắm lấy các vật. Anh có thể động chạm bằng ngón đeo nhẫn bên trái và mơ hồ cảm thấy sự động chạm. Nhưng thực sự nắm lấy cái gì đó, cảm nhận bề mặt của nó, trọng lượng, nhiệt độ… tất cả đều vượt quá sức tưởng tượng.
Terry Dobyns, bác sĩ trị liệu của Sở Cảnh sát New York người ngồi bên canh giường Rhyme khi anh tỉnh lại sau tai nạn xảy ra tại một hiện trường vụ án biến anh thành bệnh nhân liệt tứ chi, đã giải thích với nhà hình sự học tất cả các cung bậc mà thiên hạ vốn vẫn mô tả về nỗi đau khổ. Rhyme chắc chắn anh đã trải qua - và đã vượt qua - tất cả những cung bậc đó. Nhưng điều người bác sĩ không nói cho anh biết là có những cung bậc sẽ lén trở về. Rằng anh mang chúng trong mình như mang virus gây buồn ngủ vậy, và rằng chúng có thể bùng lên bất cứ lúc nào.
Vài năm vừa qua, Rhyme đã trải nghiệm lần nữa cảm giác tuyệt vọng và muốn phủ nhận thực tế.
Bây giờ, nỗi tức giận xâm chiếm anh. Sao, ở đây, hai cô gái trẻ bị bắt cóc và một kẻ sát nhân đang chạy trốn. Anh muốn biết chừng nào được ào ra hiện trường vụ án, đi ngang, đi dọc, nhặt từ dưới đất lên những chứng cứ khó xác định, chăm chăm quan sát chúng qua các lớp thấu kính đắt tiền của một kính hiển vi kép, đấm xuống bàn phím máy vi tính và các nút điều khiển trên các thiết bị khác, đi tới đi lui trong lúc rút ra kết luận.
Anh muốn được bắt đầu công việc mà không phải lo lắng rằng cái nóng kinh khủng này sẽ giết chết anh. Anh lại nghĩ tới đôi bàn tay kỳ diệu của Tiến sĩ Weaver, tới cuộc phẫu thuật.
“Anh im lặng”, Thom thận trọng nói. “Anh đang âm mưu gì đấy?”
“Tôi chẳng âm mưu gì cả. Xin cậu cắm cái máy tách hợp chất và bật nó lên hộ. Cần có thời gian làm nóng nó.”
Thom lưỡng lự rồi bước tới chỗ cái máy, khởi động nó. Anh đặt số thiết bị còn lại lên một chiếc bàn bằng gỗ ép công nghiệp.
Steve Farr bước vào văn phòng, lôi theo chiếc máy điều hòa nhiệt độ hiệu Carrier to tổ chảng. Viên cảnh sát rõ ràng vừa cao lớn vừa khỏe mạnh và dấu hiệu duy nhất cho thấy anh ta phải nỗ lực là màu đỏ trên đôi tai vểnh ra.
Anh ta hổn hển nói: “Đánh cắp nó từ bộ phận Quy hoạch và phân vùng. Chúng tôi vốn chẳng ưa bọn họ cho lắm.”
Bell giúp đỡ Farr gắn chiếc máy điều hòa lên khung cửa sổ và lát sau thì khí lạnh được xình xịch đưa vào căn phòng.
Một dáng người xuất hiện ở khuông cửa - thực tế anh ta choán kín khuông cửa. Một thanh niên khoảng hơn hai mươi tuổi. Vai ngang, trán dô. Cao sáu feet, nặng ngót nghét ba trăm pound. Trong một thoáng chốc gay go, Rhyme nghĩ đây có lẽ là bà con gì đó của Garrett đến để đe dọa họ. Nhung bằng chất giọng cao, rụt rè, anh ta nói: “Tôi, Ben đây ạ.”
Ba người đàn ông nhìn anh ta chằm chằm, còn anh ta thì băn khoăn liếc qua đôi chân và chiếc xe lăn của Rhyme.
Bell hỏi: “Anh cần gì?”
“Ồ, tôi tìm ông Bell.”
“Tôi là Cảnh sát trưởng Bell đây.”
Ánh mắt vẫn bối rối quan sát đôi chân Rhyme. Rồi anh ta nhanh chóng liếc qua chỗ khác, hắng giọng và nuốt nước bọt. “À, ờ, thì… Tôi là cháu dì Lucy Kerr ạ?” Anh ta dường như đặt câu hỏi hơn là đưa ra câu khẳng định.
“À, trợ lý khám nghiệm của tôi!”, Rhyme nói. “Tuyệt vời! Vừa kịp.”
Lại liếc nhìn đôi chân, chiếc xe lăn. “Dì Lucy không nói...”
Tiếp theo là gì đây? Rhyme tự hỏi.
“Không nói về việc khám nghiệm”, Ben lí nhí. “Tôi chỉ là sinh viên cao học tại Đại học Tổng hợp Bắc Carolina ở Avery. Ừm, thưa ông, ông muốn nói gì ạ, ‘vừa kịp’?” Câu hỏi Rhyme nhưng Ben lại nhìn viên cảnh sát trưởng.
“Tôi muốn nói: hãy đến chỗ chiếc bàn kia. Tôi sẽ có các mẫu được đưa tới bất cứ lúc nào và cậu phải giúp đỡ tôi phân tích chúng.”
“Các mẫu... Được rồi. Sẽ là loại cá nào ạ?”, Ben hỏi Bell.
“Cá à?”, Rhyme đáp lại. “Cá à?”
“Thưa ông, gì thế ạ?”, chàng thanh niên to lớn nói nhẹ nhàng, vẫn nhìn Bell. “Tôi hân hạnh được giúp đỡ ông, nhung tôi phải thú thực với ông rằng tôi có rất ít kinh nghiệm.”
“Chúng ta không nói về cá. Chúng ta đang nói về các mẫu khám nghiệm hiện trường! Cậu nghĩ sao?”
“Khám nghiệm hiện trường? Chà, tôi không biết trước”, Ben bảo viên cảnh sát trưởng.
“Cậu có thể nói chuyện với tôi”, Rhyme nghiêm khắc chấn chỉnh.
Mặt chàng thanh niên bừng đỏ và anh ta không chớp mắt. Đầu anh ta dường như run run khi anh ta bắt buộc mình nhìn Rhyme. “Tôi chỉ... Ý tôi là, ông ấy là cảnh sát trưởng.”
Bell nói: “Nhưng ông Lincoln đây sẽ giải quyết vụ việc. Ông ấy là chuyên gia về khám nghiệm đến từ New York. Ông ấy đang giúp đỡ chúng tôi.”
“Vâng.” Ánh mắt đặt vào chiếc xe lăn, đặt vào đôi chân Rhyme, đặt vào cái ống điều khiển. Rồi trở về chốn an toàn là sàn nhà.
Rhyme đi đến kết luận là anh ghét tay thanh niên này, hắn cư xử như thể anh thuộc loại quái dị nhất trong số những kẻ quái dị biểu diễn ở rạp xiếc vậy.
Và phần nào anh ghét cả Amelia Sachs - vì đã gây ra toàn bộ sự chuyển hướng này, kéo anh ra khỏi các tế bào của cá mập và đôi bàn tay của Tiến sĩ Weaver.
“Chà, thưa ông...”
“Cứ gọi Lincoln là được rồi.”
“Vấn đề là tôi chuyên về động vật học xã hội, các loài sống dưới biển.”
“Là thế nào?”, Lincoln sốt ruột hỏi.
“Nói một cách cơ bản, đó là khoa học nghiên cứu hành vi của các loài động vật sống dưới biển.”
Ồ, tuyệt vời, Rhyme nghĩ. Tôi không chỉ kiếm được một trợ lý sợ người què quặt mà còn kiếm được một trợ lý là bác sĩ tâm thần cho cá mú nữa. “Ờ, chẳng thành vấn đề. Cậu là một nhà khoa học. Nguyên lý là nguyên lý. Quy tắc là quy tắc. Cậu từng sử dụng máy tách hợp chất bao giờ chưa?”
“Rồi, thưa ông.”
“Kính hiển vi kép và kính hiển vi đối chiếu thì sao?”
Một cái gật đầu tuy không được quả quyết như Rhyme mong muốn. “Nhưng...” Ánh mắt thoáng nhìn sang Bell rồi lại ngoan ngoãn hướng về phía Rhyme. “Dì Lucy chỉ bảo tôi ghé qua. Tôi không biết ý dì là tôi được đề nghị giúp đỡ giải quyết một vụ án... Tôi không thực sự chắc chắn... Tôi muốn nói, tôi có giờ học...”
“Ben, cậu phải giúp đỡ chúng tôi”, Rhyme nói cộc cằn.
Viên cảnh sát trưởng giải thích: “Garrett Hanlon.”
Cái tên đã ở đâu đó trong cái đầu to tướng của Ben. “Ồ, thằng nhãi ở Bến tàu kênh Nước đen.”
Viên cảnh sát trưởng kể ra hai vụ bắt cóc và việc Ed Schaeffer bị ong bắp cày tấn công.
“Ôi, tôi lấy làm tiếc về chuyện của Ed”, Ben nói. “Tôi đã gặp ông ấy một lần ở nhà dì Lucy và...”
“Bởi vậy chúng tôi cần cậu”, Rhyme nói, cố gắng lái cuộc đối thoại trở về chủ đề chính.
“Chúng tôi chưa có manh mối nào về nơi hắn đưa Lydia đến”, viên cảnh sát trưởng tiếp tục. “Và chúng tôi hầu như chẳng còn thời gian cứu hai cô gái. Và, ờ, như cậu thấy đấy - ông Rhyme, ông ấy cần người giúp đỡ.”
“Chà...” Ánh mắt đưa sang, nhưng không nhìn thẳng vào Rhyme. “Chỉ là tôi sắp sửa có bài kiểm tra. Tôi đang đi học mà, thế thôi. Như tôi đã nói đấy.”
Rhyme kiên nhẫn giải thích: “Chúng tôi thực sự không còn sự lựa chọn khác ở đây, Ben. Garrett đi trước chúng tôi ba tiếng đồng hồ và hắn có thể giết một trong hai nạn nhân bất cứ lúc nào nếu hắn chưa giết”.
Nhà động vật học nhìn khắp căn phòng bụi bặm tìm kiếm sự cứu vớt, nhưng bất thành. “Tôi nghĩ là tôi có thể ở lại đây một lúc.”
“Cảm ơn cậu”, Rhyme nói. Anh thổi vào ống điều khiển và lượn tới chỗ chiếc bàn đặt các thiết bị. Anh dừng lại, xem xét chúng. Anh nhìn qua Ben. “Bây giờ, nếu cậu có thể thay cái ống thông hộ tôi, chúng ta sẽ bắt tay vào việc.”
Anh chàng to lớn trông hoảng hốt. Anh ta thì thào: “Ông muốn tôi...”
“Đùa đấy”, Thom nói.
Nhưng Ben không hề mỉm cười. Anh ta chỉ lo lắng gật đầu và, với sự duyên dáng của một chú bò rừng, bước tới chỗ chiếc máy tách hợp chất bắt đầu nghiên cứu bảng điều khiển.
Sachs đi như chạy vào la-bô vừa được tạm thời bố trí trong trụ sở chính quyền quận. Jesse Corn bám sát cô.
Thong thả hơn, Lucy Kerr vào sau họ một chút. Cô chào cháu mình, rồi giới thiệu anh chàng to lớn với Sachs với Jesse. Sachs giơ lên một lô túi. “Đây là chứng cứ từ phòng riêng của Garrett”, cô nói, rồi giơ lên một lô túi khác. “Đây là chứng cứ từ Bến tàu kênh Nước đen - hiện trường trực tiếp.”
Rhyme nhìn những cái túi, nhưng nhìn với vẻ nản lòng. Không chỉ vì có quá ít vật chứng, mà còn vì anh lại lo lắng bởi ý nghĩ đã đến với anh lúc trước: anh phải phân tích các manh mối dựa vào hiểu biết về khu vực hiện trường do người khác nói lại.
Như cá trên cạn...
Rhyme nảy ra một ý nghĩ.
“Ben, cậu sống ở đây bao lâu rồi?”, nhà hình sự học hỏi.
“Từ khi ra đời, thưa ông.”
“Tốt. Toàn bộ khu vực có bang này được gọi là gì?”
Ben hắng giọng. “Tôi nghĩ là Vùng Đồng bằng Duyên hải Phía bắc.”
“Cậu có bạn bè nào làm về địa chất mà chuyên nghiên cứu khu vực này không? Chuyên gia vẽ bản đồ? Chuyên gia tự nhiên học?”
“Không. Toàn những người nghiên cứu sinh vật biển.”
“Rhyme”, Sachs nói. “Khi bọn em ở Bến tàu kênh Nước đen, em trông thấy cái xà lan ấy, anh nhớ chứ? Nó chở nhựa đường hay giấy dầu từ một nhà máy ở gần đây.”
“Công ty Henry Davett”, Lucy bổ sung.
Sachs hỏi: “Liệu nhân viên của họ có người chuyên nghiên cứu địa chất không?”
“Tôi không biết”, Bell trả lời. “Nhưng Davett, ông ấy là kỹ sư và đã sống ở đây nhiều năm rồi. Chắc ông ấy biết về khu vực này chẳng kém ai đâu.”
“Anh gọi điện cho ông ấy nhé?”
“Xin yên trí chờ.” Bell biến mất. Lát sau anh ta quay lại. “Tôi nói chuyện được với Davett rồi. Trong đội ngũ nhân viên không có ai chuyên nghiên cứu địa chất, nhưng ông ấy bảo ông ấy có thể giúp. Nửa tiếng nữa ông ấy tới.” Rồi viên cảnh sát trưởng hỏi: “Vậy, Lincoln, anh muốn tiến hành truy đuổi như thế nào?”
“Tôi sẽ ở đây, cùng anh và Ben. Chúng ta sẽ xem xét các chứng cứ. Tôi muốn một đội tìm kiếm nhỏ được bố trí ở khu vực Bến tàu kênh Nước đen ngay bây giờ - ở địa điểm Jesse trông thấy Garrett và Lydia biến mất. Tôi sẽ hướng dẫn họ hết mức có thể, tùy thuộc vào manh mối từ chỗ chứng cứ này.” Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
“Anh muốn ai tham gia đội tìm kiếm?”
“Sachs phụ trách”, Rhyme nói. “Cùng với Lucy.”
Bell gật đầu và Rhyme để ý thấy Lucy không có phản ứng gì trước ý kiến về dây chuyền chỉ huy đó.
“Tôi xung phong đi”, Jesse nói nhanh.
Bell nhìn Rhyme, anh gật đầu. Rồi bảo: “Có lẽ thêm một người nữa”.
“Bốn người? Tất cả thế thôi à?”, Bell chau mày hỏi. “Rõ khỉ, tôi có thể tìm được hàng chục người xung phong.”
“Không, trong một vụ như thế này càng ít người càng tốt.”
“Ai là người thứ tư?”, Lucy hỏi. “Mason Germain à?”
Rhyme nhìn ra cửa, không thấy ai ở ngoài. Anh hạ giọng: “Câu chuyện về Mason là thế nào? Anh ta đã có tiền sử gì đó. Tôi vốn chẳng ưa đám cảnh sát đã có tiền sử này nọ. Tôi ưa những tờ giấy trắng.”
Bell nhún vai. “Anh chàng đó từng thiếu may mắn trong cuộc đời. Anh ta lớn lên ở phía bắc sông Paquo - khu vực cặn bã của quận. Cha anh ta đã thử đôi ba vụ làm ăn và rồi bắt đầu buôn rượu lậu. Khi bị nhân viên thu thuế tóm cổ, ông ta tự tử. Mason tự mình đi lên từ chỗ rác rưởi. Ở đây người ta có câu - nghèo mà sĩ. Đó là Mason. Anh ta lúc nào cũng than vãn rằng mình bị cản trở, không đạt được mong muốn. Anh ta thuộc loại tham vọng, sống ở một thị trấn vốn chẳng cần đến sự tham vọng.”
Rhyme nhận xét: “Và anh ta đang tìm dịp tấn công Garrett.”
“Anh đúng đấy.”
“Tại sao?”
“Mason đã khẩn khoản xin được làm điều tra viên chính trong vụ án mà chúng tôi đã kể cho anh nghe - cô gái ở Bến tàu kênh Nước đen bị ong đốt chết ấy. Meg Blanchard. Thú thực thì, anh biết đấy, tôi nghĩ nạn nhân có quan hệ như thế nào đó với Mason. Có thể họ đang hẹn hò. Có thể là một kiểu khác - tôi không biết. Nhưng anh ta rất muốn tóm cổ Garrett. Có điều anh ta đã chẳng thể buộc tội hắn được. Khi người cảnh sát trưởng cũ nghỉ hưu, Ban Giám thị có những đánh giá không tốt về anh ta. Rốt cuộc họ giao cho tôi chức vụ này - tuy anh ta nhiều tuổi hơn tôi và vào lực lượng sớm hơn tôi.” Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Rhyme lắc đầu. “Trong một vụ như thế này, chúng ta không cần những người bốc đồng. Hãy chọn người khác.”
“Ned Spoto?”, Lucy gợi ý.
Bell nhún vai. “Anh ta là người tốt. Chắc chắn rồi. Có thể bắn cừ đấy, nhưng anh ta cũng sẽ chẳng bắn trừ phi dứt khoát phải nhả đạn.”
Rhyme nói: “Hãy đảm bảo rằng Mason không có mặt gần địa điểm tìm kiếm”.
“Anh ta sẽ khó chịu đấy.”
“Đấy chẳng phải chuyện cần quan tâm”, Rhyme đáp lời. “Giao việc gì đó cho anh ta làm. Việc gì đó nghe có vẻ quan trọng.”
“Tôi sẽ cố gắng hết sức”, Bell nói ngập ngừng.
Steve Farr thò đầu vào. “Vừa gọi điện đến bệnh viện’’ anh ta thông báo. “Ed vẫn trong tình trạng nguy kịch.”
“Ông ấy có nói gì không? Về tấm bản đồ ông ấy trông thấy?”
“Không nói gì. Vẫn hôn mê.”
Rhyme quay sang Sachs. “Được rồi... Bắt đầu đi. Dừng lại tại nơi mất dấu vết ở Bến tàu kênh Nước đen và chờ thông tin từ tôi.”
Lucy ngập ngừng nhìn các túi đựng chứng cứ. “Anh thực sự nghĩ đây là cách để tìm thấy hai cô gái kia?”
“Tôi biết như vậy”, Rhyme trả lời ngắn gọn.
Lucy hoài nghi nói: “Đối với tôi nó có vẻ hơi quá giống trò ảo thuật.”
Rhyme cười thành tiếng. “Ồ, chính xác là thế. Sự biến hóa của đôi bàn tay, lôi ra khỏi mũ những con thỏ. Nhưng hãy nhớ rằng ảo tưởng vốn vẫn dựa trên... dựa trên cái gì, Ben?”
Anh chàng to lớn hắng giọng, đỏ mặt và lắc đầu. “Ừm, tôi không rõ ông muốn nói gì, thưa ông.”
“Ảo tưởng vốn vẫn dựa trên khoa học. Là nó đấy.” Liếc nhìn sang Sachs. “Anh sẽ gọi cho em ngay sau khi phát hiện được điều gì.”
Hai người phụ nữ và Jesse Corn rời khỏi căn phòng.
Và thế là, với số chứng cứ quý giá dàn trước mặt anh, các thiết bị quen thuộc đã được khởi động, tình hình chính trị trong nước bị gạt bỏ, Lincoln Rhyme từ từ ngả đầu vào cái tựa đầu của xe lăn, nhìn chằm chằm những chiếc túi Sachs đưa cho anh - sẵn sàng, hay bắt buộc, hay có thể chỉ là cho phép tâm trí đi lang thang đến nơi mà đôi chân anh không đến được, cho phép tâm trí chạm tới cái mà bàn tay anh không chạm tới được.
15.06.2015
PHẦN 1: PHÍA BẮC SÔNG PAQUO
CHƯƠNG 8
Dịch giả: Đinh Minh Hương
Nguồn: NXB Văn học
Nội dung thu gọn
Một nhóm cảnh sát đi ngang qua.
Đứng tựa vào bức tường hành lang bên cạnh cánh cửa dẫn đến các ngăn làm việc của nhân viên văn phòng cảnh sát trưởng, hai tay khoanh trước ngực, Mason Germain chỉ nghe được giọng họ.
“Làm sao chúng ta lại có thể cứ ngồi đây mà chẳng hành động gì cả?”
“Không, không, không... Cậu chưa nghe à? Jim đã cử một đội tìm kiếm.”
“Thế hả? Chưa, tớ chưa nghe gì về việc đó cả.”
Mẹ kiếp, Mason nghĩ. Anh ta cũng chưa nghe gì về việc đó.
“Lucy, Ned và Jesse. Và cái cô nàng cảnh sát đến từ Washington ấy.”
“Không phải, New York chứ. Cậu thấy tóc cô nàng không?”
“Tớ chẳng quan tâm đến tóc cô nàng. Chuyện tớ quan tâm là tìm thấy Mary Beth và Lydia.”
“Tớ cũng vậy. Tớ chỉ đang nói…”
Bụng Mason thêm thắt lại. Bọn họ cử có bốn người lần theo dấu vết Thằng Bọ thôi sao? Bell có điên không đấy?
Mason chạy bổ về phía đầu hành lang, định tới phòng làm việc của cảnh sát trưởng, và suýt nữa thì đâm sầm vào chính Bell khi anh ta vừa bước ra khỏi kho chứa đồ - bây giờ được dành cho cái tay kỳ dị, cái tay phải ngồi xe lăn. Bell liếc nhìn viên cảnh sát - nhiều tuổi hơn mình với cái chớp mắt ngạc nhiên.
“Này, Mason... Tôi đang tìm anh.”
Bell trông không diễn quá, dù sao thì cũng không có vẻ như vậy.
“Tôi muốn anh đến chỗ Rich Culbeau.”
“Culbeau? Để làm gì?”
“Sue McConnell đang treo thưởng hoặc đại loại như vậy cho người nào tìm thấy Mary Beth và anh ta muốn giành được số tiền thưởng này. Chúng ta không cần anh ta phá đám cuộc truy lùng. Tôi đề nghị anh để mắt đến anh ta. Nếu anh ta đang vắng nhà thì hãy đợi cho tới lúc anh ta về.”
Mason thậm chí chẳng buồn đáp lại cái yêu cầu kỳ quặc đó. “Anh đã cử Lucy đi truy lùng Garrett. Và không nói gì với tôi.”
Bell nhìn viên cảnh sát từ đầu tới chân. “Cô ấy và mấy người nữa đang sang Bến tàu kênh Nước đen, thử xem có lần được dấu vết gì của hắn không.”
“Anh hẳn phải biết là tôi muốn tham gia đội tìm kiếm.”
“Tôi làm sao cử hết tất cả mọi người được. Hôm nay, Culbeau đã có mặt tại Bến tàu kênh Nước đen một lần rồi. Tôi không thể để anh ta làm hỏng cuộc tìm kiếm.”
“Thôi nào, Jim. Đừng nói với tôi những chuyện nhảm nhí ấy.”
Bell thở dài. “Được rồi. Sự thật hả? Mason, vì anh cứ sùng sục muốn tóm cổ thằng nhãi đó, tôi quyết định không cử anh. Tôi không muốn xảy ra bất cứ sai lầm nào cả. Tính mạng của họ đang lâm nguy. Chúng ta phải bắt được hắn và phải bắt được sớm.”
“Đó cũng là mục đích của tôi mà, Jim. Anh hẳn phải biết rằng tôi đã theo đuổi thằng nhãi đó ba năm nay. Tôi không thể tin được là anh lại gạt tôi ra và giao vụ án vào tay kẻ kỳ dị ở trong kia.”
“Này, đủ rồi đấy.”
“Thôi nào. Tôi thông thạo khu vực Nước đen gấp Lucy cả mười lần. Tôi từng sống ở đấy. Nhớ chứ hả?”
Bell hạ giọng: “Anh quá muốn tóm cổ hắn. Điều ấy có thể ảnh hưởng đến những phán đoán của anh”.
“Anh đã nghĩ như thế? Hay thằng cha kia?” Một cái hất đầu về phía căn phòng nơi Mason bây giờ nghe thấy tiếng ken két đáng sợ của chiếc xe lăn. Nó khiến anh ta khó chịu tựa như tiếng máy khoan của nha sĩ. Việc Bell nhờ cái tay kỳ dị đó giúp đỡ có thể dẫn đến đủ thứ rắc rối mà Mason thậm chí không muốn nghĩ tới nữa.
“Thôi nào, sự thực là sự thực. Cả thế giới đều biết anh căm ghét Garrett ra sao.”
“Và cả thế giới đều đồng tình với tôi.”
“Chà, điều tôi bảo cho anh biết là điều không thay đổi được. Anh phải chấp nhận nó thôi.”
Viên cảnh sát cười thành tiếng cay đắng. “Vậy bây giờ tôi là vú em trông chừng cái thằng khốn buôn rượu lậu.”
Bell nhìn qua Mason, ra hiệu với một cảnh sát khác. “Này, Frank...”
Viên cảnh sát cao, mập mạp thong thả bước tới chỗ hai người.
“Frank, cậu đi cùng anh Mason đây. Đến nhà Rich Culbeau.”
“Đưa lệnh bắt ạ? Anh ta vừa làm chuyện gì?”
“Không, không giấy tờ gì cả. Mason sẽ nói với cậu chi tiết. Nếu Culbeau không ở nhà, hãy cứ đợi. Và đảm bảo rằng anh ta với đám bạn bè của anh ta không quanh quẩn gần đội tìm kiếm. Anh rõ chưa, Mason?”
Viên cảnh sát không trả lời. Anh ta chỉ quay bước đi và sếp anh ta nói với theo: “Việc này tốt hơn cho tất cả mọi người.”
Đừng nghĩ vậy, Mason tự nhủ thầm.
“Mason...”
Nhưng người đàn ông không nói gì và sải bước vào phòng dành cho nhân viên cảnh sát. Lát sau, Frank cũng vào theo. Mason chẳng chào nhóm cảnh sát đang tụ tập nói về Thằng Bọ, về Mary Beth xinh đẹp và về cú đưa bóng chạy trở về suốt hơn chín mươi hai thước đáng kinh ngạc của Billy Stail. Anh ta bước vào ngăn làm việc của mình và moi một chiếc chìa khóa ra khỏi túi quần. Anh ta mở khóa ngăn kéo bàn, lấy thiết bị nạp đạn nhanh đang cài sáu viên cỡ .357. Anh ta đút nó vào bao da, rồi móc vào thắt lưng. Anh ta bước đến cửa ngăn làm việc của mình. Giọng anh ta cắt ngang cuộc nói chuyện, đồng thời anh ta hất đầu về phía Nathan Groomer - viên cảnh sát tóc màu vàng hơi hoe đỏ chừng ba mươi nhăm tuổi. “Groomer, tôi sẽ đi gặp Culbeau. Cậu đi cùng tôi.”
“Chà”, Frank bắt đầu một cách thong thả, cầm trong tay chiếc mũ vừa vơ lấy từ ngăn làm việc của mình. “Tôi nghĩ là Jim đã muốn tôi đi.”
“Tôi muốn Nathan”, Mason nói.
“Rich Culbeau à?”, Nathan hỏi. “Anh ta và tôi như nước với lửa. Tôi đã tóm anh ta về đồn ba lần vì tội lái xe sau khi uống bia rượu và lần gần đây nhất có đánh anh ta tí chút. Theo tôi thì để Frank đi.”
“Đúng”, Frank đồng tình. “Em họ Culbeau làm việc cùng cha vợ tôi. Anh ta nghĩ tôi cũng là chỗ họ hàng. Anh ta sẽ nghe tôi.”
Mason lạnh lùng nhìn Nathan. “Tôi muốn cậu đi.”
Frank cố gắng lần nữa. “Nhưng Jim nói...”
“Và tôi muốn cậu đi bây giờ.”
“Thôi nào, Mason.” Nathan nói giọng gay gắt. “Đâu cần thiết phải xử sự như vậy với tôi.”
Mason nhìn một con chim mồi được đẽo rất tỉ mỉ - một con vịt trời - trên bàn Nathan, tác phẩm mới nhất của anh ta. Thằng cha này có tài thật, Mason tự nhủ. Rồi anh ta nói với đồng sự: “Cậu sẵn sàng chưa?”
Nathan thở dài, đứng dậy.
Frank hỏi: “Nhưng tôi nói với Jim thế nào đây?”
Không trả lời, Mason bước ra khỏi văn phòng, Nathan theo sau, và đi về phía xe công vụ của Mason. Họ trèo vào xe. Mason cảm thấy cái nóng bao trùm lấy mình, anh ta cho xe nổ máy và để điều hòa chạy hết cỡ.
Sau khi họ đã đeo dây an toàn, cái việc mà câu khẩu hiệu ghi bên thành xe yêu cầu tất cả các công dân có tinh thần trách nhiệm thực hiện, Mason nói: “Bây giờ, hãy nghe này. Tôi…”
“Ầy, thôi nào, Mason, đừng như thế. Tôi chỉ nói với anh những gì hợp lý thôi. Ý tôi là, năm ngoái Frank và Culbeau…
“Hãy im đi và nghe này.”
“Được. Tôi sẽ nghe. Nhưng tôi nghĩ anh chẳng cần nói chuyện theo cách ấy… Được. Tôi nghe đây. Culbeau vừa làm chuyện gì vậy?”
Nhưng Mason không trả lời. Anh ta hỏi: “Khẩu Ruger của cậu đâu?”
“Khẩu súng trường yêu quý của tôi ấy à? Khẩu M77 ấy à?”
“Phải.”
“Trong xe tải của tôi. Ở nhà.”
“Cậu đã lắp thấu kính Hitech rồi chứ hả?”
“Tất nhiên là lắp rồi.”
“Chúng ta sẽ về nhà cậu lấy nó.”
Họ lượn khỏi bãi đỗ xe và ngay sau khi đã ra phố Chính, Mason bật công tắc chiếc đèn xoay xanh đỏ trên nóc xe. Nhưng không bật còi hụ. Anh ta tăng tốc phóng ra khỏi thị trấn. Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Nathan ngậm trong miệng một đống kẹo Red Indian, việc anh ta không thể làm trước mặt Jim, nhưng với Mason thì vô tư. “Khẩu Ruger... Vậy đấy. Đấy là lý do tại sao anh muốn tôi đi, chứ không phải Frank.”
“Đúng thế.”
Nathan Groomer là tay súng trường cừ nhất của cơ quan, một trong những tay cừ nhất của quận Paquenoke. Mason từng chứng kiến anh ta hạ gục một con hươu ở khoảng cách tới hơn tám trăm thước.
“Vậy, sau khi tôi lấy khẩu súng trường, chúng ta sẽ đến chỗ Culbeau hả?”
“Không.”
“Thế chúng ta sẽ đi đâu?”
“Chúng ta sẽ đi săn.”
“Những ngôi nhà ở đây đẹp thật”, Amelia Sachs nhận xét.
Cô và Lucy Kerr đang lái xe đi về phía bắc, dọc theo đường Kênh Đào, từ trung tâm thị trấn quay lại Bến tàu kênh Nước đen. Jesse Corn và Ned Spoto, viên cảnh sát vạm vỡ gần bốn mươi tuổi, bám đằng sau trong một chiếc xe công vụ khác.
Lucy không nói gì, chỉ liếc nhìn những ngôi nhà trông xuống dòng kênh - những ngôi nhà có kiến trúc kiểu thuộc địa trang nhã mà Sachs đã thấy lúc trước.
Sachs lại bị ấn tượng bởi vẻ hoang vắng của những ngôi nhà và những khoảng sân, sự thiếu vắng những đứa trẻ. Giống hệt như các con phố ở Tanner’s Corner.
Trẻ con, cô lại ngẫm nghĩ.
Rồi tự nhủ: Đừng sa vào chuyện đó.
Lucy rẽ phải vào đường 112 rồi tạt sang lề đường - nơi họ vừa có mặt cách đây nửa tiếng đồng hồ, cái gờ đất trông xuống hiện trượng vụ án. Xe của Jesse Corn đỗ xịch đằng sau. Bốn người theo triền đê đi xuống bờ sông, trèo lên chiếc xuồng. Jesse lại vào vị trí cầm chèo, lẩm bẩm: “Người anh em, nhằm hướng bắc sông Paquo nào.” Anh ta nói với giọng đe dọa mà đầu tiên Sachs coi như một sự bông lơn, nhưng rồi cô để ý thấy cả anh ta lẫn hai người còn lại đều không ai mỉm cười cả. Sang đến bờ bên kia, họ trèo ra khỏi chiếc xuồng, theo dấu chân Garrett và Lydia đi tới cái chòi săn nơi Ed Schaeffer bị ong tấn công, rồi vượt qua nó, tiến vào rừng chừng năm mươi feet, đến đây thì mất hút dấu vết.
Dưới sự chỉ huy của Sachs, họ tỏa ra, di chuyển theo những đường tròn càng lúc càng mở rộng, tìm kiếm bất cứ dấu hiệu nào cho thấy hướng Garrett đi. Họ chẳng phát hiện được gì và quay lại chỗ mà các dấu chân biến mất. Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Lucy bảo Jesse: “Cậu biết lối mòn ấy chứ? Cái lối mòn bọn nghiện đã theo đó bỏ chạy khi bị Frank Sturgis phát hiện ra năm ngoái?”.
Jesse gật đầu. Anh ta nói với Sachs: “Nó cách đây chừng năm mươi thước về phía bắc. Đằng kia”, anh ta chỉ. “Có lẽ Garrett biết nó. Nó là lối tốt nhất để đi qua rừng và khu vực đầm lầy này.”
“Chúng ta thử kiểm tra xem”, Ned nói.
Sachs băn khoăn không biết phải xử lý cuộc xung đột sắp sửa xảy ra như thế nào cho khéo léo nhất, rồi quyết định rằng có độc một cách: đương đầu. Tế nhị quá cũng chẳng tác dụng gì, khi ba bọn họ ở một phía, mình cô ở một phía (cô nghĩ Jesse Corn chỉ đứng về phía cô ở phương diện tình cảm thôi) “Chúng ta nên dừng lại đây cho tới lúc nhận được thông tin từ Rhyme.” Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Jesse giữ nụ cười gượng gạo trên gương mặt nếm náp chút vị của lòng trung thành bị chia sẻ.
Lucy lắc đầu. “Garrett chắc chắn đã đi theo lối mòn ấy.”
“Chúng ta không thể biết chắc chắn được”, Sachs nói.
“Xung quanh đây quả thực hơi quá rậm rạp”, Jesse đưa ra ý kiến.
Ned nói: “Với tất cả những đám cỏ, phục linh và nhựa ruồi kia. Cả cơ man dây leo nữa. Không theo lối mòn ấy, thì không có cách nào đi qua khu vực này và tiết kiệm được thời gian đâu.”
“Chúng ta sẽ phải đợi”, Sachs nói, nghĩ tới một đoạn trong Vật chứng, cuốn sách giáo khoa của Rhyme viết về các nhà hình sự học:
Nhìn chung, nhiều cuộc điều tra bị thất bại vì người điều tra không kiềm chế được những hành động hấp tấp khi mà, thực tế, trong hầu hết các trường hợp, việc chậm rãi kiểm tra chứng cứ sẽ chỉ ra lối đi quang quẻ dẫn đến cửa nhà đối tượng, đồng thời giúp người ta có thể bắt giữ đối tượng một cách hiệu quả và an toàn hơn.
Lucy Kerr nói: “Vấn đề đơn giản là người thành phố thì không thực sự hiểu về rừng. Nếu đi theo lối mòn đó sẽ tiết kiệm được nửa thời gian. Hắn ắt phải đi theo lối mòn đó.”
“Có thể hắn đã quay lại bờ sông”, Sachs nêu ý kiến. “Biết đâu hắn chẳng giấu một chiếc thuyền nữa ngược bên trên hay xuôi phía dưới dòng.”
“Đúng đấy”, Jesse nói, bị Lucy lừ mắt nhìn.
Một khoảng im lặng khá lâu, bốn người đứng bất động, mặc đám muỗi mắt châm chích, mồ hôi vã ra trong cái nóng không khoan nhượng.
Cuối cùng, Sachs nói đơn giản: “Chúng ta sẽ chờ.”
Quyết định như thế rồi, cô ngồi xuống tảng đá chắc chắn là gồ ghề nhất trong toàn bộ khu rừng, và với vẻ quan tâm vờ vịt, chăm chú quan sát con chim gõ kiến đang quyết liệt khoan vào một thân cây sồi cao vươn thẳng trước mặt họ.
15.06.2015
PHẦN 1: PHÍA BẮC SÔNG PAQUO
CHƯƠNG 9
Dịch giả: Đinh Minh Hương
Nguồn: NXB Văn học
Nội dung thu gọn
Hiện trường trực tiếp trước”, Rhyme nói với Ben. “Khu vực Nước đen.”
Anh hất đầu chỉ số chứng cứ được đặt trên chiếc bàn bằng gỗ ép công nghiệp. “Đầu tiên, chúng ta hãy xem xét chiếc giày chạy của Garrett. Chiếc giày hắn đã đánh rơi khi lôi Lydia đi.”
Ben cầm chiếc giày lên, kéo khóa mở cái túi nhựa, bắt đầu thò tay vào.
“Găng tay!”, Rhyme ra lệnh. “Bao giờ cũng phải đeo găng tay cao su khi xử lý các vật chứng.”
“Để tránh in dấu vân tay à?” nhà động vật học hỏi trong lúc vội vã đeo găng tay.
“Đấy là một lý do. Một lý do khác nữa là để tránh nhầm lẫn. Chúng tôi không muốn lẫn lộn giữa những nơi mà cậu đã tới với những nơi mà đối tượng đã tới.”
“Vâng. Đúng rồi.” Ben hăng hái gật gật cái đầu húi cua to tướng của mình, y như thể anh ta sợ sẽ quên mất quy tắc này. Anh ta lắc chiếc giày, ngó nghiêng vào bên trong. “Trông như có sỏi hay cái gì đó.”
“Rõ khỉ, tôi không bảo Amelia nhờ người ta chuẩn bị cho các khay khám nghiệm vô trùng”. Rhyme nhìn xung quanh căn phòng. “Thấy cuốn tạp chí đằng kia không? Tạp chí People hả?” Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Ben cầm lên, lắc đầu: “Số ra cách đây ba tuần rồi.”
“Tôi chẳng quan tâm những chuyện yêu đương của Leonardo DiCaprio là mới hay cũ”, Rhyme làu bàu. “Hãy rút tờ phiếu đặt mua dài hạn kẹp bên trong ra… Cậu có ghét những thứ đó không? Nhưng chúng lại có ích cho chúng ta đấy – chúng chạy ra từ máy in, đẹp đẽ, sạch sẽ, bởi vậy chúng có thể được sử dụng làm các khay khám nghiệm mi ni.”
Ben làm theo hướng dẫn, dốc đất cát đá sỏi từ bên trong giày ra tờ phiếu.
“Lấy một mẫu đưa vào kính hiển vi và để tôi xem nào”. Rhyme lăn xe đến bên bàn, nhưng thị kính cao hơn tầm mắt anh chừng vài inch. “Mẹ kiếp.”
Ben đánh giá vấn đề: “Chắc tôi có thể bê cho ông nhìn.”
Rhyme cười khẽ: “Nó nặng gần ba mươi pound. Không, chúng ta sẽ phải tìm một…”
Nhưng nhà động vật học đã bê chiếc kính hiển vi lên và với đôi cánh tay vạm vỡ, giữ nó hết sức chắc chắn. Tất nhiên, Rhyme chẳng thể xoay núm điều chỉnh tiêu cự, nhưng anh nhìn được rõ để đi tới kết luận. “Bụi và các mẩu nhỏ đá vôi. Liệu có phải từ Bến tàu kênh Nước đen không nhỉ?”
“Ừm,” Ben chậm rãi nói. “Không chắc. Ở đó hầu như chỉ toàn bùn lầy.”
“Cho một mẫu qua máy tách hợp chất đi. Tôi muốn xem trong đó còn có gì nữa không.”
Máy tách hợp chất là thứ công cụ mơ ước của một nhà hình sự học. Do một nhà thực vật học người Nga sáng chế ra từ đầu thế kỷ trước nhưng không được sử dụng nhiều cho mãi tới những năm 1930, thiết bị này phân tích các hợp chất như thực phẩm, dược phẩm, máu, dấu vết… và tách riêng rẽ từng thành tố. Có đến nửa tá các loại máy tách hợp chất khác nhau, tuy nhiên loại phổ biến nhất được sử dụng trong khám nghiệm điều tra là máy tách hợp chất khí. Loại này đốt cháy mẫu vật chứng. Khí sinh ra do quá trình đốt cháy được tách riêng rẽ giúp xác định những chất đã tạo nên hợp chất lúc ban đầu. Trong một la-bô của cơ quan điều tra, máy tách hợp chất thông thường nối với phổ kế ghi khối lượng – loại thiết bị có khả năng xác định cụ thể về nhiều chất trong hợp chất lúc ban đầu.
Máy tách hợp chất khí chỉ xử lý được những chất liệu có thể chuyển thành hơi – tức là có thể đốt cháy - ở nhiệt độ tương đối thấp. Tất nhiên, đá vôi thì không thể cháy. Nhưng Rhyme cũng không quan tâm đến đá vôi, anh quan tâm đến dấu vết đã dính vào chỗ đất và những mẩu nhỏ đá vôi này. Chúng sẽ giúp xác định cụ thể hơn các địa điểm mà Garrett đã tới.
“Phải đợi một lúc”, Rhyme nói. “Trong lúc đợi chúng ta hãy xem bụi đất bám ở các rãnh khía dưới đế giày của Garrett. Tôi bảo cho cậu biết, Ben ạ, tôi mê các rãnh khía. Giày và cả lốp xe nữa. Chúng giống như những miếng bọt biển. Nhớ lấy điều ấy.”
“Vâng, tôi sẽ nhớ, thưa ông.”
“Cậy ra một ít và chúng ta hãy thử xem nó có đến từ nơi nào khác ngoài Bến tàu kênh Nước đen không.”
Ben cậy một ít bụi đất ra một tờ phiếu đặt mua tạp chí khác. Anh ta giơ nó trước mặt Rhyme để anh nghiên cứu cẩn thận. Là một chuyên gia khám nghiệm, anh biết tầm quan trọng của bụi đất. Nó dính vào quần áo, nó lưu lại dấu vết tựa những mẩu vụn bánh mì của Hansel và Gretel dẫn đến cửa nhà một đối tượng<18>, nó khiến kẻ tội phạm và hiện trường vụ án y như thể bị trói chặt lại với nhau vậy. Có chừng một nghìn một trăm màu đất khác nhau và nếu một mẫu từ hiện trường vụ án hoàn toàn trùng khớp với một màu đất tìm thấy ở sân sau nhà đối tượng, khả năng rất lớn là đối tượng đã có mặt tại hiện trường. Sự giống nhau về thành phần cấu tạo của đất cũng củng cố thêm mối liên hệ. Locard, nhà hình sự học vĩ đại người Pháp, từng xây dựng nên nguyên tắc khám nghiệm mang tên ông, đó là mỗi khi xảy ra một vụ án, luôn luôn xuất hiện những sự trao đổi giữa thủ phạm với nạn nhân hay với hiện trường. Rhyme đã nhận thấy rằng, trong trường hợp xảy ra tấn công hoặc án mạng, xét tới yếu tố được trao đổi thường xuyên nhất, bụi đất là yếu tố xếp hàng thứ hai sau máu.
Tuy nhiên, việc sử dụng đất cát làm chứng cứ gặp phải vấn đề là chúng quá phổ biến. Để có được ý nghĩa nào đó về mặt khám nghiệm, một mẫu đất mà nguồn đưa đến may ra là kẻ tội phạm phải khác biệt với đất tự nhiên ở khu vực hiện trường.
Bước đầu tiên trong phân tích đất là kiểm tra mẫu đất tự nhiên ở khu vực hiện trường – mẫu đối chiếu – với mẫu đất nhà hình sự học tin tưởng rằng do kẻ tội phạm đưa đến.
Rhyme nói điều này với Ben và anh chàng to lớn cầm lên một túi đất Sachs ghi chú là Mẫu đất đối chiếu – Bến tàu kênh Nước đen, kèm theo ngày, giờ thu thập. Ngoài ra, còn một dòng ghi chú nữa không phải chữ viết của Sachs. Người thu thập: Cảnh sát J. Corn. Rhyme hình dung ra anh chàng cảnh sát trẻ háo hức chạy đi thực hiện mệnh lệnh của Sachs. Ben đổ một ít chỗ đất này ra tờ phiếu đặt mua tạp chí thứ ba. Anh ta đặt nó bên cạnh chỗ đất cậy từ đế giày của Garrett. “Chúng ta so sánh chúng bằng cách nào?”, người thanh niên hỏi, nhìn một lượt qua các thiết bị.
“Bằng mắt của cậu.”
“Nhưng…”
“Hãy cứ quan sát chúng. Xem màu sắc của mẫu chưa xác định có khác biệt với màu sắc của mẫu đối chiếu không.”
“Tôi làm như thế bằng cách nào?”
Rhyme phải ép mình trả lời bằng giọng điềm tĩnh: “Cậu hãy cứquan sát chúng thôi.”
Ben chăm chăm nhìn một mẫu, rồi nhìn sang mẫu kia.
Nhìn lại. Một lần nữa.
Rồi một lần nữa.
Nào, nào… nó không tinh tế tới mức đó đâu. Rhyme phải hết sức cố gắng để tỏ ra kiên nhẫn. Một trong những công việc khó khăn nhất đối với anh trên đời này.
“Cậu thấy gì?”, Rhyme hỏi. “Có phải đất từ hai nơi khác nhau?”
“Chà, tôi không thể nói chính xác thưa ông. Tôi nghĩ một mẫu màu nhạt hơn.”
“Đưa chúng vào kính hiển vi đối chiếu.”
Ben đưa hai mẫu đất vào kính hiển vi đối chiếu và soi qua các thị kính. “Tôi không chắc chắn. Khó mà nói chắc chắn được. Tôi cho là… có lẽ là có sự khác biệt.”
“Để tôi xem nào.”
Các bắp thịt đồ sộ lại bê chiếc kính hiển vi to tướng lên một cách vững vàng và Rhyme nhìn vào hai thị kính. “Chắc chắn là khác so với mẫu đối chiếu”, Rhyme nói. “Màu nhạt hơn. Chứa nhiều tinh thể hơn. Chứa nhiều granite và đất sét hơn, không cùng môi trường thực vật. Vậy là nó không phải từ Bến tàu kênh Nước đen… Nếu chúng ta may mắn, nó chính từ các hốc trú ngụ của hắn.”
Một nụ cười thoáng nở trên môi Ben, nụ cười đầu tiên Rhyme nhìn thấy.
“Gì vậy?.”
“Ồ, ờ thì, đó là cách chúng tôi gọi cái hang mà một con cá chình chọn làm nhà…” Nụ cười trên môi người thanh niên biến mất khi ánh mắt chằm chằm của Rhyme bảo cho anh ta biết đây không phải lúc, không phải chỗ để dông dài.
Nhà hình sự học nói: “Sau khi có kết quả về mẫu đá vôi ở máy tách hợp chất, cậu kiểm tra chỗ đất lấy ra từ đế giày nhé.”
“Thưa ông, vâng.”
Lát sau, màn hình máy vi tính nối với máy tách hợp chất/phổ kế nhấp nháy sáng, những đường đồ thị nhấp nhô như núi đồi và thung lũng xuất hiện. Rồi một cửa sổ mở ra và nhà hình sự học lăn xe đến gần. Anh va vào một cái bàn và chiếc Storm Arrow ngoặt mạnh sang trái, khiến Rhyme chúi người. “Mẹ kiếp.”
Mắt Ben tròn xoe hoảng hốt. “Thưa ông, ông có sao không?”
“Không sao, không sao, không sao”, Rhyme lẩm bẩm. “Cái bàn chết tiệt này làm gì ở đây? Chúng ta đâu cần tới nó chứ.”
“Tôi sẽ nhấc nó ra”, Ben nói ngay, chỉ một tay tóm chiếc bàn nặng y như thể nó làm bằng gỗ balsa<19> và đem cất nó vào góc phòng. “Xin lỗi, đáng lẽ tôi phải để ý từ trước.”
Rhyme phớt lờ sự băn khoăn hối hận của nhà động vật học và chăm chú nhìn màn hình. “Những lượng lớn nitrate, phốt phát và ammonia.”
Kết quả này rất đáng lo ngại nhưng Rhyme chưa nói gì ngay, anh muốn xem trong mẫu đất Ben cậy ra từ đế giày Garrett chứa các chất như thế nào đã. Và kết quả về mẫu đất ấy cũng nhanh chóng xuất hiện trên màn hình.
Rhyme thở dài. “Nhiều nitrate hơn, nhiều ammonia hơn – rất nhiều. Nồng độ cao. Phốt phát cũng nhiều hơn. Có cả chất tẩy. Và cái gì nữa này… Cái chết tiệt gì vậy?”
“Đâu ạ?”, Ben hỏi, vươn người về phía màn hình.
“Ở phía cuối ấy. Cơ sở dữ liệu xác định nó là camphene. Cậu nghe nói bao giờ chưa hả?”
“Chưa, thưa ông.”
“Chà, Garrett đã giẫm lên thứ này, dù nó có là gì đi chăng nữa”, Rhyme nhìn cái túi đựng chứng cứ. “Nào, chúng ta còn gì? Tờ khăn giấy màu trắng Sachs đã phát hiện ra…”
Ben cầm túi lên, đưa nó đến gần Rhyme. Tờ khăn giấy thấm nhiều máu. Anh liếc nhìn mẫu khăn giấy kia – những tờ khăn giấy hiệu Kleenex Sachs tìm thấy tại phòng riêng của Garrett. “Chúng có giống nhau không?”
“Trông cũng giống nhau”, Ben trả lời. “Cả hai đều màu trắng, cùng cỡ.”
Rhyme nói: “Đưa chúng cho Jim Bell. Bảo anh ta là tôi muốn có phân tích AND. Phân tích lướt thôi.”
“Phân tích, ừm… gì ạ, thưa ông?”
“Phân tích cơ bản AND, phản ứng chuỗi polymerase. Chúng ta không có thời gian làm RFLP<20> – nó sẽ cung cấp kết quả là một-trong-sáu-tỉ phiên bản. Tôi chỉ muốn biết liệu đó là máu của Billy Stail hay là máu của người khác. Bảo ai đó hãy xoay xở thế nào mà lấy được các mẫu xác từ Billy Stail và từ cô Mary Beth cũng như từ cô Lydia.”
“Các mẫu? Mẫu gì ạ?”
Rhyme lại phải ép mình giữ sự kiên nhẫn. “Mẫu di tố. Bất cứ mô nào từ xác Billy Stail. Đối với hai cô gái kia thì cách dễ dàng nhất là lấy được vài sợi tóc – chỉ cần còn chân tóc. Bảo một cảnh sát đi thu lược chải đầu trong phòng tắm của Mary Beth và Lydia, đưa đến chỗ sẽ xét nghiệm tờ khăn giấy.”
Người thanh niên cầm cái túi, rồi rời khỏi căn phòng. Lát sau, anh ta quay lại. “Một hoặc hai tiếng đồng hồ nữa họ sẽ cho kết quả, thưa ông. Họ sẽ gửi tới trung tâm y tế ở Avery, chứ không gửi tới cảnh sát bang. Cảnh sát Bell, ý tôi là, Cảnh sát trưởng Bell, nghĩ rằng như thế thì dễ dàng hơn.”
“Một tiếng đồng hồ nữa?”, Rhyme nhăn nhó lẩm bẩm. “Mất thời gian quá.”
Anh không thể nào không băn khoăn tự hỏi liệu sự chậm trễ này có đủ để Thằng Bọ giết chết Lydia hay Mary Beth trước khi họ tìm thấy hắn không.
Ben đứng, buông thõng hai cánh tay kềnh càng. “Ừm, tôi có thể gọi họ quay lại. Tôi đã nói với họ về tầm quan trọng của việc này nhưng.. Ông có muốn tôi gọi họ quay lại không?”
“Thôi được, Ben. Chúng ta sẽ tiếp tục ở đây. Thom, tới lúc lập các bảng rồi”
Anh chàng phụ tá viết lên tấm bảng đen những gì Rhyme đọc
TÌM THẤY TẠI HIỆN TRƯỜNG TRỰC TIẾP – BẾN TÀU KÊNH NƯỚC ĐEN
Khăn giấy hiệu Kleenex thấm máu
Bụi đá vôi
Nitrate
Phốt phát
Ammonia
Chất tẩy
Camphene
Rhyme nhìn chằm chằm. Vẫn chưa đủ câu trả lời cho các câu hỏi…
Như cá trên cạn…
Ánh mắt Rhyme dừng lại ở đống đất Ben cậy ra từ đế giày gã trai. Rồi trong đầu óc anh xuất hiện một ý nghĩ. “Jim!”, anh quát to, giọng oang oang khiến cả Thom lẫn Ben cùng giật mình. “Jim! Anh ta ở cái chỗ quái quỷ nào vậy? Jim!”
“Gì thế?”, viên cảnh sát trưởng chạy vào, lo lắng. “Có chuyện gì thế?”
“Bao nhiêu người làm việc trong tòa nhà này?”
“Tôi không biết. Chừng hai mươi người.”
“Và họ sống rải rác khắp quận?”
“Còn hơn thế nữa. Một số người còn từ Pasquotank, Albemarle và Chowan.”
“Tôi muốn tất cả xuống đây bây giờ.”
“Gì cơ?”
“Tất cả mọi người trong tòa nhà này. Tôi muốn lấy mẫu đất từ giày của họ… Đợi đã và thảm trải sàn xe của họ nữa.”
“Đất…”
“Đất! Bụi! Bùn! Anh biết đấy. Tôi muốn có ngay bây giờ!”
Bell rút lui. Rhyme nói với Ben: “Cái giá đó? Kia kìa?”
Nhà động vật học nặng nề đi về phía chiếc bàn bên trên có để một cái giá dài cắm các ống nghiệm Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
“Nó là thiết bị thử tỷ trọng. Nó sẽ xác định thành phần của những loại vật chất như đất cát chẳng hạn.”
Ben gật đầu. “Tôi đã nghe nói tới. Nhưng chưa bao giờ sử dụng cả.”
“Dễ dàng thôi. Những cái chai đằng kia…” Rhyme nhìn về phía hai cái chai thủy tinh thẫm màu. Một dán nhãn tetra, một dán nhãn ethanol. “Cậu sẽ pha hai thứ đó như tôi bảo và đổ gần đầy vào các ống nghiệm.”
“Được. Để làm gì ạ?”
“Bắt đầu pha đi. Xong xuôi rồi tôi sẽ cho cậu biết.”
Ben pha hai thứ hóa chất theo hướng dẫn của Rhyme, rồi đổ xen kẽ - ethanol và tetrabromoethane, hai thứ chất lỏng có màu khác nhau – vào hai mươi ống nghiệm.
“Đổ một ít đất lấy từ giày Garrett vào ống nghiệm bên tay trái. Chỗ đất ấy sẽ phân tách ra và chúng ta sẽ có các thành phần tạo nên nó. Chúng ta sẽ lấy mẫu đất từ những nhân viên làm việc tại đây, những người sống ở những khu vực khác nhau trong quận. Nếu bất cứ một mẫu nào phù hợp với mẫu từ giày của Garrett thì nghĩa là giày hắn có thể đã mang theo đất xung quanh đấy.”
Ben xuất hiện cùng với những nhân viên đầu tiên và Rhyme giải thích việc anh sắp sửa làm. Viên cảnh sát trưởng nở nụ cười ngưỡng mộ. “Một ý tưởng tuyệt vời, Lincoln. Ông anh họ Roland biết anh ấy đang làm gì khi anh ấy cất lời ca ngợi sếp.”
Nhưng nửa tiếng đồng hồ mất cho sáng kiến này thật vô ích. Không mẫu đất nào từ giày của những nhân viên làm việc tại đây phù hợp với mẫu đất từ giày của Garrett. Rhyme cau có nhìn mẫu đất cuối cùng từ số nhân viên được bỏ vào ống nghiệm.
“Mẹ kiếp.”
“Dù sao cũng là một việc rất đáng thử”, Bell nói.
Một sự lãng phí quỹ thời gian quý báu thì có.
“Tôi đổ các mẫu đất đi nhé?”, Ben hỏi
“Không. Không bao giờ được vứt các mẫu xét nghiệm đi mà không ghi chép lại gì”, Rhyme nói dứt khoát. Rồi sực nhớ ra rằng mình không nên gay gắt quá, cái anh chàng to lớn này ở đây chỉ vì những mối quan hệ họ hàng. “Thom, giúp đỡ chúng tôi nào. Sachs đã đề nghị mượn một chiếc máy chụp ảnh lấy ngay từ cảnh sát bang. Nó phải ở chỗ nào đó trong đây rồi. Đi xem nó đang ở chỗ nào, chụp cận cảnh tất cả các ống nghiệm. Ghi tên từng nhân viên đằng sau mỗi tấm hình.”
Anh chàng phụ tá tìm thấy chiếc máy ảnh và bắt tay vào việc.
“Bây giờ, chúng ta hãy phân tích những gì Sachs phát hiện được tại nhà cha mẹ nuôi của Garrett. Chiếc quần trong cái túi kia – xem có gì trong phần gấu lơ – vê không”.
Ben thận trọng mở cái túi nhựa và kiểm tra chiếc quần. “Thưa có, một ít lá thông”
“Tốt. Chúng rụng khỏi cành hay bị cắt?”
“Bị cắt, trông có vẻ như vậy”
“Tuyệt vời. Nghĩa là hắn đã làm gì đó với chúng. Hắn chủ ý cắt chúng ra. Và mục đích của việc đó có thể liên quan đến vụ án. Chúng ta chưa biết mục đích ấy là gì, nhưng theo tôi phỏng đoán thì là để ngụy trang.”
“Tôi ngửi thấy mùi chồn hôi”, Ben nói, hít hít chiếc quần.
“Đó là thông tin Sachs đã cung cấp. Tuy nhiên, nó không hữu ích gì cho chúng ta. Dù sao thì cũng chưa hữu ích.”
“Tại sao?”, nhà động vật học hỏi.
“Vì không cách nào liên hệ được một loài động vật hoang dã với một địa điểm cụ thể. Một con chồn hôi ở nguyên một chỗ thì hữu ích, chứ một con chồn hôi có thể di chuyển thì chẳng giải quyết được vấn đề gì. Chúng ta hãy xem xét các dấu vết còn lưu lại trên chiếc quần. Cắt lấy vài mảnh từ chiếc quần và đưa qua máy tách hợp chất.”
Trong lúc chờ đợi kết quả, Rhyme kiểm tra nốt số vật chứng thu thập được tại phòng gã trai. “Cho tôi xem cuốn vở, Thom”. Anh chàng phụ tá giở một lượt các trang. Chỉ toàn là các hình vẽ côn trùng xấu xí. Rhyme lắc đầu. Chẳng có gì hữu ích cả.
“Còn những cuốn sách kia?” Rhyme hất đầu chỉ bốn cuốn sách bìa cứng Sachs tìm thấy tại phòng gã trai. Một cuốn – cuốn Thế giới thu nhỏ - đã được đọc thường xuyên tới mức các trang bung hết ra. Rhyme để ý những đoạn khoanh tròn hoặc gạch chân hoặc đánh dấu sao. Nhưng không đoạn nào cung cấp manh mối về những nơi gã trai có thể đã từng đến. Chúng dường như chỉ mô tả về các loài côn trùng. Anh bảo Thom bỏ mấy cuốn sách sang bên.
Rồi Rhyme xem xét những thứ Garrett giấu trong cái lọ đựng ong bắp cày: tiền, ảnh chụp Mary Beth, ảnh chụp gia đình gã trai. Chiếc chìa khóa cũ. Cuộn dây câu.
Chỗ tiền mặt chỉ là một nắm nhàu nhĩ những tờ năm và mười đô la, cùng với vài đồng tiền xu. Rhyme nhận thấy không có các thông tin hữu ích được ghi ở mép những tờ tiền (nhiều kẻ tội phạm hay sử dụng mép những tờ tiền làm chỗ ghi lời nhắn hoặc kế hoạch hành động – và cách nhanh chóng để rũ bỏ những lời nhắn mang tính cáo buộc như vậy từ đồng bọn là mua thứ gì đó, quẳng những lời nhắn ấy vào cái lỗ đen của quá trình lưu thông tiền tệ). Rhyme bảo Ben chiếu đèn PoliLight – thiết bị có những mức ánh sáng thay đổi – lên từng đồng tiền, và phát hiện ra rằng cả tiền giấy lẫn tiền xu có dễ đến trăm dấu vân tay không trọn vẹn, quá nhiều nên chẳng cung cấp được manh mối hữu ích nào cả. Không có nhãn giá trên chiếc khung ảnh và cuộn dây câu, bởi vậy không có cách gì lần tìm những cửa hiệu mà Garrett có thể hay tới.
“Dây câu cân rưỡi”. Rhyme vừa nhìn cuộn dây vừa nhận xét. “Cỡ đó để câu cá nhỏ, phải không Ben?”
“Cỡ đó bắt một con cá vền<21>, cũng chưa chắc được, thưa ông”
Kết quả về các dấu vết ở chiếc quần của gã trai nhấp nháy trên màn hình máy vi tính. Rhyme đọc to: “Dầu hỏa, lại ammonia, lại nitrate, và lại cái chất camphene kia. Thom, làm ơn lập một bảng khác.”
Rhyme đọc.
TÌM THẤY TẠI HỆN TRƯỜNG GIÁN TIẾP – PHÒNG RIÊNG CỦA GARRETT
Xạ chồn hôi
Lá thông bị cắt rời khỏi cành
Các bức vẽ côn trùng
Ảnh chụp Mary Beth
Ảnh chụp gia đình
Các sách về côn trùng
Dây câu
Tiền
Chìa khóa chưa xác định
Dầu hỏa
Ammonia
Nitrate
Camphene
Rhyme nhìn chằm chằm hai bảng chứng cứ. Cuối cùng, anh nói: “Thom, gọi điện đi. Gọi cho Mel Cooper.”
Anh chàng phụ tá nhấc máy điện thoại, quay những con số đã thuộc lòng.
Cooper, người hợp tác với các nhân viên khám nghiệm của Sở Cảnh sát New York, có lẽ nặng bằng nửa Ben. Anh ta trông giống một nhân viên định phí bảo hiểm rụt rè, còn thực tế là một trong những chuyên gia la-bô khám nghiệm hàng đầu cả nước.
“Cậu mở loa ngoài cho tôi nghe được không, Thom?”
Anh chàng phụ tá nhấn một cái nút và lát sau giọng nam cao nhẹ nhàng của Cooper cất lên. “Chào anh, Lincoln. Tôi được biết là giờ anh không ở bệnh viện.”
“Làm sao anh biết, Mel?”
“Chẳng cần suy diễn lắm đâu. Điện thoại tôi hiện danh tính người gọi là Trụ sở Chính quyền quận Paquenoke. Anh hoãn phẫu thuật à?”
“Không. Chỉ là đang giúp giải quyết một vụ án ở đây thôi. Nghe này, Mel, tôi không có nhiều thời gian và tôi cần thông tin về một chất tên là camphene. Anh đã bao giờ biết tới nó chưa?”
“Chưa. Nhưng đợi đã. Tôi sẽ kiểm tra cơ sở dữ liệu.”
Rhyme nghe thấy tiếng gõ bàn phím liên hồi. Cooper cũng là tay gõ bàn phím nhanh nhất mà Rhyme từng gặp.
“Được rồi, chúng ta có đây…. Rất thú vị…”
“Tôi không cần cái sự thú vị, Mel. Tôi cần thông tin chính xác.”
“Nó là một loại terpene – hợp chất carbon và hydrogen. Có nguồn gốc thực vật. Nó từng được sử dụng làm thành phần của thuốc trừ sâu nhưng đã bị cấm từ đầu thập kỷ tám mươi. Thời gian nó được sử dụng phổ biến là cuối những năm 1800. Nó được sử dụng để thắp đèn. Một công nghệ tiên tiến vào thời gian đó – thay cho mỡ cá voi. Hồi ấy, nó được coi như khí ga thiên nhiên. Anh đang lần theo dấu vết một đối tượng chưa xác định được danh tính à?”
“Hắn không phải một đối tượng chưa xác định được danh tính, Mel. Danh tính của hắn đã hết sức rõ ràng. Chỉ là chúng tôi chưa thể tìm thấy hắn. Những chiếc đèn cũ kỹ? Vậy dấu vết của camphene có khả năng chỉ ra rằng hắn đang ẩn náu tại địa điểm nào đấy xây dựng từ thế kỷ XIX.”
“Có khả năng. Nhưng cũng có khả năng khác. Vì anh nên biết ngày nay camphene chỉ có ứng dụng duy nhất trong công nghệ chế tạo các chất thơm.”
“Loại nào?”
“Chủ yếu là nước hoa, nước thơm xoa mặt sau khi cạo râu và mỹ phẩm.”
Rhyme cân nhắc điều này. “Tỷ lệ camphene trong các chất thành phẩm là bao nhiêu?”, anh hỏi.
“Chỉ là những lượng cực kỳ nhỏ. Tính theo phần nghìn.”
Rhyme vẫn luôn luôn bảo các nhóm khám nghiệm của mình đừng bao giờ sợ đưa ra những sự suy diễn táo bạo trong phân tích chứng cứ. Tuy nhiên, anh cũng đau đớn ý thức được khoảng thời gian ngắn ngủi mà hai cô gái kia có thể còn tồn tại trên đời này, và anh cảm thấy hiện họ chỉ vừa đủ nhân lực, vật lực để lần theo một trong hai đầu mối ấy thôi.
“Chúng ta sẽ phải chọn khả năng này”, Rhyme tuyên bố. “Chúng ta sẽ đặt giả thiết rằng dấu vết camphene là từ những chiếc đèn lồng cũ kỹ, loại bỏ khả năng từ các chất thơm, và theo đó mà hành động. Bây giờ, nghe này, Mel, tôi cũng sẽ gửi cho anh ảnh chụp một chiếc chìa khóa. Tôi cần anh lần tìm nguồn gốc của nó.”
“Đơn giản. Khóa xe hơi à?”
“Tôi không biết.”
“Khóa nhà?”
“Không biết.”
“Gần đây vẫn dùng?”
“Không manh mối.”
Cooper nói đầy vẻ hoài nghi: “Có lẽ không đơn giản như tôi tưởng. Nhưng cứ gửi cho tôi, tôi sẽ làm những gì có thể.”
Khi cuộc điện thoại kết thúc, Rhyme yêu cầu Ben chụp cả hai mặt chìa khóa và fax cho Cooper. Rồi anh thử liên lạc với Sachs bằng bộ đàm. Bộ đàm không hoạt động. Anh gọi vào máy di động của cô.
“A lô?”
“Sachs, anh đây.”
“Bộ đàm sao thế?”, cô hỏi.
“Không có sóng.”
“Bọn em nên đi theo hướng nào, Rhyme? Bọn em đã sang bên kia sông nhưng bị mất dấu vết. Và, nói thật…”, giọng Sachs hạ xuống thành thì thầm. “Mấy người ở đây không bình tĩnh. Lucy đang muốn ăn thịt em.”
“Anh đã thực hiện những phân tích cơ bản, nhưng anh chẳng biết làm gì với tất cả các dữ liệu này – anh đang đợi ông chủ nhà máy ở Bến tàu kênh Nước đen. Henry Davett. Chưa biết ông ta tới lúc nào. Nhưng nghe này, Sachs, còn một việc nữa anh phải nói với em. Anh phát hiện ra dấu vết rất đáng kể của ammonia và nitrate trên quần Garrett và trong chiếc giày hắn đánh rơi.”
“Bom à?”, Sachs hỏi, cái giọng âm vang của cô bộc lộ nỗi choáng váng.
“Có vẻ như vậy. Và cuộn dây câu em tìm thấy quá mảnh để tính chuyện câu kéo nghiêm chỉnh. Anh nghĩ hắn sử dụng nó làm dây bẫy kích nổ. Lát nữa đi từ từ thôi. Quan sát xem có bẫy không. Nếu em trông thấy cái gì đó giống như là một manh mối, hãy đề phòng bị lừa.”
“Em sẽ chú ý, Rhyme.”
“Ở nguyên đấy. Hy vọng tôi sớm có chỉ dẫn cho các vị.”
Garrett và Lydia đi thêm được ba hay bốn dặm nữa.
Mặt trời lúc này đã lên cao. Có lẽ đã trưa, hoặc gần trưa, nóng như trong lò. Ít nước đóng chai mà Lydia uống ở chỗ mỏ đá nhanh chóng chuyển thành mồ hôi và cô lả đi vì nóng và khát.
Như thể cảm nhận được điều này, Garrett nói: “Chúng ta sắp sửa tới đấy rồi. Tới đấy sẽ mát hơn. Và tao đã chuẩn bị nhiều nước.”
Mặt đất trải ra ở đây. Những cánh rừng cây cối gãy đổ, những đầm lầy. Không nhà cửa, không đường sá. Nhiều lối mòn cũ kỹ tỏa theo nhiều hướng khác nhau. Những người đang tìm kiếm họ sẽ hầu như không tài nào xác định được lối họ đã đi – những lối mòn chằng chịt tựa mê cung vậy.
Garret hất đầu chỉ một trong những lối mòn hẹp này, bên trái là các tảng đá, bên phải là cái dốc cao hai mươi feet. Họ đi chừng nửa dặm dọc theo lối mòn này, rồi gã dừng lại. Gã ngoái nhìn đằng sau.
Có vẻ hài lòng vì không thấy ai ở gần, Garrett bước vào trong đám cây bụi và trở ra với một sợi dây nilon – trông giống như loại dây câu mảnh – gã đem chăng ngang lối mòn, gần sát mặt đất. Hầu như không thể phát hiện được. Gã buộc sợi dây vào một chiếc gậy, chiếc gậy này đỡ một cái chai thủy tinh cỡ ba hay bốn gallon đựng đầy thứ chất lỏng màu sữa. Có chút chất cặn bám trên thành chai và Lydia ngửi thấy một mùi thoang thoảng – mùi ammonia. Cô khiếp sợ. Một quả bom ư? Cô băn khoăn tự hỏi. Là y tá trực phòng cấp cứu, cô từng xử lý vài trường hợp thiếu niên bị thương do mày mò chế tạo các thiết bị phát nổ. Cô nhớ da thịt bị cháy đen của chúng đã nát bươm ra như thế nào.
“Cậu không thể làm vậy”, Lydia thì thào.
“Tao chẳng muốn nghe những lời vô nghĩa của mày”. Gã trai búng ngón tay. “Tao sẽ thu xếp xong các thứ ở đây, rồi chúng ta về nhà.”
Nhà?
Lydia đứng chết lặng, nhìn chằm chằm vào cái chai lớn mà Garrett phủ lên bằng cành cây.
Garrett lại kéo cô đi xuôi theo lối mòn đó. Mặc dù ngày mỗi lúc một nóng hơn, gã di chuyển nhanh hơn và cô phải khó khăn lắm mới theo kịp cái thằng người mỗi lúc một bẩn thỉu hơn, dính đầy bụi và những mảnh lá mục. Như thể chính bản thân gã đang từ từ biến thành một con côn trùng với mỗi bước rời xa hơn nền văn minh. Nó gợi cho cô nhớ tới câu chuyện nào đó cô từng được yêu cầu đọc hồi đi học mà chưa bao giờ cô đọc hết.
“Lên trên kia”, Garrett hất đầu về phía một ngọn đồi. “Trên đó có chỗ cho chúng ta nghỉ lại. Sẽ tiếp tục đi ra biển vào sáng mai.”
Bộ đồng phục Lydia mặc ướt sũng mồ hồi. Hai khuy áo trên cùng bật ra và màu trắng chiếc áo lót lồ lộ. Gã trai liên tục nhìn vầng ngực tròn của cô gái. Nhưng cô hầu như chẳng quan tâm. Lúc này, cô chỉ muốn trốn thoát bầu không khí ngoài trời, chui vào một bóng râm mát mẻ nào đất, bất cứ chỗ nào gã sẽ đưa cô tới.
Mười lăm phút sau, họ vượt qua khu rừng và đi vào một bãi đất trống. Trước mặt họ xuất hiện một cái cối xay cũ, xung quanh mọc đầy sậy, hương bồ, cỏ cao. Nó nằm bên cạnh một dòng suối mà phần nhiều đã bị đầm lầy lấn sang. Một cánh cối xay cháy rụi. Giữa đống gạch vụn vươn lên một cái ống khói cháy sém – được gọi là “Đài kỷ niệm Tướng Sherman”, gọi theo tên vị tướng phe Liên bang, người đã đốt hết nhà cửa làng mạc trong lúc hành quân ra biển, bỏ lại một vùng toàn những ống khói cháy đen đằng sau.
Garrett dẫn Lydia vào khu vực phía trước của cối xay, khu vực không bị lửa liếm tới. Gã đẩy cô qua khung cửa và kéo cánh cửa bằng gỗ sồi nặng đóng sập lại, cài then. Gã đứng nghe ngóng hồi lâu. Sau khi xem chừng đã hài lòng vì không có ai bám theo, gã đưa cho cô một chai nước nữa. Cô phải chiến đấu với niềm thôi thúc muốn dốc ngược chai nước uống một mạch. Cô hớp một hớp đầy, chưa nuốt ngay, mà cảm nhận được cái buốt tê trong khoang miệng khô khốc, rồi mới chậm rãi nuốt xuống
Khi Lydia uống xong, Garrett lấy cái chai, cởi trói cho cô, rồi lại trói quặt hai tay cô ra đằng sau. “Cậu phải làm như thế sao?”, cô tức giận hỏi.
Gã trai đảo mắt trước câu hỏi ngớ ngẩn. Gã đẩy cô ngồi xuống sàn. “Ngồi đây và ngậm cái mồm chết tiệt của mày lại.” Garrett ngồi dựa vào bức tường đối diện, khép mắt. Lydia vươn đầu về phía cửa sổ, nghe ngóng xem có tiếng máy bay trực thăng hay tiếng những con thuyền đi trên đầm lầy hay tiếng sủa của bầy chó chuyên tìm kiếm cứu nạn không. Nhưng cô chỉ nghe thấy tiếng thở của Garrett, mà cô kết luận trong nỗi tuyệt vọng rằng đó thực sự là tiếng Chúa bỏ rơi cô.
Chú Thích: Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
<18> Hansel và Gretel: hai nhân vật trong truyện cổ Grimm, là hai anh em con một người tiều phu nghèo bị mẹ kế đuổi vào rừng. Hai anh em đã rải những mẩu vụn bánh mì trên đường đi để đánh dấu đường về.
<19> Một loại gỗ nhẹ dùng làm hình mẫu, bè…
<20> Restriction Fragment Length Polymorphism: kỹ thuật đa hình chiều dài đoạn cắt giới hạn
<21> Nguyên văn là “bluegill”.
15.06.2015
PHẦN 1: PHÍA BẮC SÔNG PAQUO
CHƯƠNG 10
Dịch giả: Đinh Minh Hương
Nguồn: NXB Văn học
Nội dung thu gọn
Một dáng người xuất hiện trên ngưỡng cửa, theo sau Jim Bell.
Đó là người đàn ông trạc ngũ tuần, tóc bắt đầu thưa và có gương mặt tròn đạo mạo. Chiếc áo vét màu xanh lam vắt trên cánh tay, còn chiếc sơ mi trắng được là phẳng lỳ và hồ cứng, tuy ở nách thẫm vệt mồ hôi. Chiếc cà vạt kẻ cài ghim buông ngay ngắn.
Rhyme đã nghĩ đây chắc là Henry Davett, nhưng đôi mắt của nhà hình sự học là một trong những bộ phận trên cơ thể trải qua vụ tai nạn mà không hề hấn gì – thị lực anh vẫn hoàn hảo – và anh đọc thấy các chữ cái khắc lồng vào nhau trên cây ghim cài cà vạt từ khoảng cách mười feet: WWJD.
William? Walter? Wayne?
Rhyme chẳng có manh mối nào mà đoán được ông ta là ai.
Người đàn ông nhìn Rhyme, nheo mắt lại vẻ đánh giá và gật đầu chào. Rồi Jim Bell nói: “Henry, xin giới thiệu với ông đây là Lincoln Rhyme.”
Vậy là không phải chữ lồng tên họ ông ta. Đây chính là Davett. Rhyme gật đầu chào lại, đi tới kết luận rằng cây ghim cài cà vạt có lẽ từng thuộc về cha ông ta. William Ward Jonathan Davett.
Ông ta bước vào phòng. Ánh mắt nhanh nhẹn của ông ta lướt qua các thứ thiết bị.
“À, ông biết về máy tách hợp chất phải không?”, Rhyme hỏi, nhận thấy nét mặt Davett biểu hiện ý đồng tình.
“Bộ phận Nghiên cứu và Phát triển của tôi có mấy cái. Nhưng đời này…” Davett lắc đầu vẻ phê phán. “Người ta thậm chí chẳng còn sản xuất nữa. Tại sao các vị vẫn sử dụng?”
“Ngân sách bang, Henry”, Bell nói.
“Tôi sẽ cho chuyển đến đây một cái.”
“Không cần thiết đâu.”
“Đây là thứ giẻ rách”, người đàn ông nói cộc cằn. “Hai mươi phút nữa tôi sẽ cho chuyển đến đây một cái mới.” Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Rhyme nói: “Thu thập chứng cứ không phải là vấn đề. Vấn đề là làm sáng tỏ chúng. Vì thế mà tôi có thể sẽ cần đến sự giúp đỡ của ông. Đây là Ben Kerr, trợ lý khám nghiệm cho tôi.”
Họ bắt tay nhau. Ben xem chừng nhẹ nhõm vì có thêm một người đi lại được bình thường trong căn phòng.
“Mời ông ngồi xuống, Henry”, Ben nói, lăn chiếc ghế văn phòng đến cho ông ta. Người đàn ông ngồi xuống, hơi vươn ra phía trước, cẩn thận vuốt phẳng cà vạt. Cái cử chỉ ấy, tư thế dáng điệu, đôi đồng tử trong cặp mắt đầy tự tin, tất cả khiến Rhyme đi đến nhận xét: hấp dẫn, thông minh… và một tay làm ăn cực kỳ cứng rắn đây.
Rhyme lại băn khoăn về các chữ cái WWJD. Anh chưa chắc chắn rằng mình đã giải được câu đó.
“Việc liên quan tới hai cô gái bị bắt cóc, phải không?”
Bell gật đầu. “Chưa có ai thực sự nói ra những trong thâm tâm…” Anh ta nhìn Rhyme và Ben. “Chúng tôi nghĩ Garrett hẳn đã cưỡng hiếp và giết chết Mary Beth, vứt xác cô gái ở đâu đó.”
Hai mươi tư tiếng đồng hồ….
Viên cảnh sát trưởng tiếp tục. “Nhưng chúng tôi vẫn còn cơ hội cứu Lydia, chúng tôi hy vọng thế. Và chúng tôi phải ngăn chặn Garrett trước khi hắn kịp bắt cóc thêm ai nữa.”
Vị thương gia giận dữ nói: “Và Billy, thật là một nỗi hổ thẹn. Tôi nghe nói cậu ấy chỉ là giữa đường thấy chuyện bất bình, cố gắng cứu Mary Beth mà thành thử thiệt mạng.”
“Garrett đã lấy xẻng đập vỡ đầu cậu ấy. Thật tồi tệ.”
“Vậy bây giờ thời gian là hết sức quý giá. Tôi có thể làm gì?” Davett quay sang Rhyme. “Anh nói phải làm sáng tỏ cái gì đó hả?”
“Chúng tôi đang nắm vài manh mối về nơi Garrett đã trú ngụ và hắn có thể sẽ đưa Lydia đi đâu. Tôi hy vọng ông biết về vùng này và giúp đỡ chúng tôi.”
Davett gật đầu. “Tôi khá thông thạo vùng này. Tôi có bằng về địa chất và kỹ sư hóa. Tôi cũng đã sống cả đời ở Tanner’s Corner và khá quen thuộc quận Paquenoke.”
Rhyme hất đầu chỉ hai bảng chứng cứ. “Xin ông xem hai bảng chứng cứ kia và cho chúng tôi biết một vài suy nghĩ của ông. Chúng tôi đang cố gắng liên hệ các manh mối ấy với một địa điểm cụ thể.”
Bell nói thêm: “Nó có lẽ là một địa điểm mà đi bộ đến được. Garrett không ưa ô tô. Hắn không bao giờ lái xe cả.”
Davett đeo kính và ngả đầu về phía sau, nhìn lên tường.
***
TÌM THẤY TẠI HIỆN TRƯỜNG TRỰC TIẾP – BẾN TÀU KÊNH NƯỚC ĐEN
Khăn giấy Kleenex thấm máu
Bụi đá vôi
Nitrate
Phốt phát
Ammonia
Chất tẩy
Camphene
TÌM THẤY TẠI HIỆN TRƯỜNG GIÁN TIẾP – PHÒNG RIÊNG CỦA GARRETT
Xạ chồn hôi
Lá thông bị cắt rời khỏi cành
Các bức vẽ côn trùng
Ảnh chụp Mary Beth
Ảnh chụp gia đình
Các sách về côn trùng
Dây câu
Tiền
Chìa khóa chưa xác định
Dầu hỏa
Ammonia
Nitrate
Camphen
Davett thong thả đọc đi đọc lại, cặp mắt nheo nheo vài lần. Một thoáng cau mày. “Nitrate và ammonia à? Anh biết đó có thể là gì chứ?”
Rhyme gật đầu. “Tôi nghĩ hắn đã đặt một số bom tự tạo để ngăn cản đội tìm kiếm. Tôi nói với họ về việc này rồi.”
Davett nhăn mặt, quay lại bảng chứng cứ. “Chất camphene… Tôi nghĩ nó từng được sử dụng cho những chiếc đèn lồng cổ. Ví dụ những chiếc đèn thắp bằng dầu đá phiến chẳng hạn.” Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
“Đúng. Vậy chúng ta cho rằng nơi hắn đang giữ Mary Beth là một ngôi nhà cổ. Được xây từ thế kỷ XIX.”
“Chắc chắn xung quanh đây có tới hàng nghìn ngôi nhà, lều lán, chuồng trại cũ kỹ.. Cái gì nữa? Bụi đá vôi… Cái này không thu hẹp được phạm vi tìm kiếm lắm. Có một rặng núi đá vôi chạy dài suốt quận Paquenoke. Nó từng là nguồn lợi lớn cho mọi người ở đây.” Davett đứng lên, di ngón tay chéo trên tấm bản đồ từ mép phía nam đầm lầy Sầu Thảm sang phía tây nam, từ ô L-4 sang ô C-14. “Anh có thể tìm thấy đá vôi ở bất cứ chỗ nào dọc theo đường này. Chứng cứ ấy không mấy hữu ích. Nhưng…” Ông ta bước lùi lại, khoanh hai tay. “Phốt phát thì hữu ích đấy. Bắc Carolina là một nguồn cung cấp phốt phát lớn, nhưng nó không được khai thác ở xung quanh đây. Nơi khai thác ở xa hơn về phía nam. Vậy, kết hợp với chất tẩy, tôi cho rằng hắn đã ở gần khu vực nước bị ô nhiễm.”
“Khỉ gió”, Jim Bell nói. “Như thế có nghĩa hắn ở chính trên sông Paquenoke.”
“Không”, Davett đáp lời. “Sông Paquo sạch sẽ. Nó thẫm màu vì lấy nước từ đầm lầy Sầu Thảm và hồ Drummond.”
“Ôi, đó là thứ nước thần”, viên cảnh sát trưởng nói.
“Thế là thế nào?” Rhyme hỏi.
Davett giải thích: “Một số người già ở đây gọi nước của đầm lầy Sầu Thảm là nước thần. Nó chứa đầy chất tannic acid tiết ra từ lá bách và lá bách xù mục. Chất này tiêu diệt vi khuẩn nên nước để được lâu – trước khi có tủ lạnh người ta từng sử dụng nó làm nước uống trên thuyền buồm. Người ta từng nghĩ nó có các đặc tính kỳ diệu.”
“Vậy…”, Rhyme nói, chẳng bao giờ quan tâm lắm tới những huyền thoại địa phương. “Nếu không phải là sông Paquenoke, dấu vết của phốt phát kia sẽ đặt hắn vào khu vực nào?”
Davett nhìn Bell. “Hắn bắt cóc cô gái thứ hai ở đâu?”
“Cùng chỗ với Mary Beth. Bến tày kênh Nước đen.” Bell chạm vào tấm bản đồ, rồi di ngón tay lên phía bắc tới ô H-9. “Vượt sang bên kia sông, đến một cái chòi săn khoảng vị trí này, rồi tiếp tục đi về phía bắc nửa dặm. Rồi đội tìm kiếm mất dấu vết. Họ đang chờ chúng ta chỉ đường.”
“Ồ, thế thì chẳng còn nghi ngờ gì nữa”, Davett nói với sự tự tin đáng khích lệ. Nhà doanh nhân di ngón tay sang phía đông. “Hắn đã vượt lạch Đá. Ở vị trí này. Thấy không? Một số thác nước đằng đó sủi bọt như bia, vì trong nước chứa rất nhiều chất tẩy và phốt phát. Nó bắt đầu đổ ra gần thác Hobeth và có đến hàng tấn. Người thị trấn ấy không biết gì về quy hoạch và phân vùng.”
“Tốt”, Rhyme nói. “Bây giờ, sau khi hắn đã sang bên kia con lạch, ông cho rằng hắn sẽ đi theo hướng nào?”
Davett lại đọc bảng chứng cứ. “Nếu anh phát hiện được lá thông bị cắt gãy, tôi phải phỏng đoán rằng hắn đi theo hướng này”. Ông ta đập đập tay vào ô I-5 và ô J-8. “Thông thì có ở khắp Bắc Carolina, nhưng xung quanh đây hầu hết là các cánh rừng sồi, tuyết tùng cổ thụ, bách và bạch đàn. Cánh rừng thông lớn duy nhất mà tôi biết nằm ở phía đông bắc. Đây. Trên đường đến đầm lầy Sầu Thảm”. Davett đăm đăm nhìn hai bảng chứng cứ lâu hơn rồi lắc đầu. “Tôi e mình chẳng thể nói thêm được mấy nữa. Anh đã cử đi mấy đội tìm kiếm rồi?”
“Một đội”, Rhyme trả lời.
“Cái gì?” Davett quay sang anh, cau mày. “Chỉ một đội? Anh đang đùa.”
“Không”, Bell nói, giọng tự vệ trước cuộc kiểm tra chéo cứng rắn của Davett.
“Chà, một đội đông chừng nào?”
“Bốn cảnh sát”, Bell trả lời.
Davett giễu cợt: “Thật điên rồ”. Ông ta hất tay chỉ tấm bản đồ. “Các vị phải lục soát hàng trăm dặm vuông. Đây là Garrett Hanlon… Thằng Bọ. Hắn gần như sống ở phía bắc sông Paquo. Hắn có thể qua mặt các vị trong tích tắc.”
Viên cảnh sát trưởng hắng giọng. “Ông Rhyme đây cho rằng không sử dụng quá nhiều người thì tốt hơn.”
“Anh chẳng thể sử dụng quá nhiều người trong một tình huống như thế này”, Davett nói với Rhyme. “Anh nên lấy năm mươi người, trang bị cho họ súng trường, và bảo họ đập các bụi cây cho tới lúc tìm thấy hắn. Anh đang hoàn toàn sai lầm.”
Rhyme nhận ra Ben đã theo dõi bài thuyết giáo của Davett với vẻ mặt rất xấu hổ. Lẽ dĩ nhiên, nhà động vật học cho rằng người taphải tế nhị khi tranh luận với một kẻ què quặt. Mặc dù vậy, nhà hình sự học vẫn bình thản nói: “Một cuộc săn lùng lớn chỉ tổ đẩy Garrett đến chỗ giết chết Lydia, rồi lẩn trốn.”
“Không”, Davett nói dứt khoát. “Nó sẽ khiến hắn hoảng sợ mà thả cô gái ra. Tôi có chừng bốn mươi lăm công nhân đang làm ca tại nhà máy. Chà, chừng hơn chục người là phụ nữ. Tôi không thể yêu cầu họ tham gia. Nhưng số nam giới… Hãy để tôi cử họ đi. Chúng tôi sẽ tìm được vài khẩu súng. Cho họ rà soát khắp khu vực lạch Đá.”
Rhyme hoàn toàn có thể hình dung được ba mươi hay bốn mươi tay thợ săn nghiệp dư và hăng hái sẽ làm gì trong một cuộc tìm kiếm như thế này. Anh lắc đầu. “Không, đây mới là cách giải quyết vụ việc.”
Ánh mắt họ gặp nhau trong một khoảnh khắc im lặng nặng nề. Davett nhún vai và nhìn đi chỗ khác trước, nhưng sự rút lui ấy chẳng phải là sự nhượng bộ cho rằng Rhyme có lẽ đang hành động đúng. Mà nó hoàn toàn ngược lại: một sự phản đối dứt khoát, rằng với việc phớt lờ lời khuyên của ông ta, Rhyme và Bell đang là những kẻ liều mạng.
“Henry”, Bell nói. “Tôi đã đồng ý để ông Rhyme chỉ huy cách giải quyết vụ việc. Chúng tôi rất biết ơn ông ấy.”
Những lời của viên cảnh sát trưởng có phần nhằm tới chính bản thân Rhyme – một câu xin lỗi ngấm ngầm thay cho Davett.
Tuy nhiên, về phía Rhyme, anh thích thú đón nhận thái độ thẳng thừng của Davett. Đối với anh, đó là sự tự thừa nhận đáng sửng sốt, nhưng Rhyme, người vốn không tin tưởng chút nào vào các điềm báo, cảm thấy sự hiện diện lúc này đây của người đàn ông là điềm báo – rằng cuộc phẫu thuật sẽ tốt đẹp và cải thiện được tình trạng của anh. Anh cảm thấy như thế nhờ sự trao đổi chớp nhoáng vừa diễn ra – khi nhà doanh nhân cứng rắn này nhìn thẳng vào mắt anh và bảo anh hoàn toàn sai lầm. Davett thậm chí chẳng để ý đến tình trạng của Rhyme, tất cả những gì ông ta trông thấy là những hành động của anh, quyết định của anh, thái độ của anh. Đối với Davett, có thể tàn tật của anh chẳng liên quan gì. Đôi bàn tay kỳ diệu của Tiến sĩ Weaver sẽ đưa anh tiến thêm một bước, tới chỗ mà nhiều người nữa cũng sẽ cư xử với anh theo cách như vậy.
Nhà doanh nhân nói: “Tôi sẽ cầu nguyện cho hai cô gái”. Rồi quay sang Rhyme. “Tôi cũng sẽ cầu nguyện cho cả anh.” Cái nhìn kéo dài hơn một chút so với cái nhìn từ biệt thông thường, Rhyme cảm nhận rằng câu sau được nói ra chân thành – và theo đúng nghĩa đen của nó. Ông ta bước khỏi cửa.
“Henry là người hơi khó thay đổi quan điểm”, Bell nói khi Davett đã đi rồi.
“Và ông ta có mối quan tâm riêng trong vụ việc này, phải không?”, Rhyme hỏi.
“Cô gái bị ong bắp cày đốt chết năm ngoái. Meg Blanchard…”
Bị đốt một trăm ba mươi bảy phát. Rhyme gật đầu.
Bell tiếp tục. “Cô ấy làm việc ở công ty của Henry. Đi lễ ở cùng nhà thờ với ông ấy và gia đình ông ấy. Ông ấy cũng giống như hầu hết người dân vùng này – ông ấy nghĩ cuộc sống trong thị trấn sẽ tốt đẹp hơn nếu loại bỏ được Garrett Hanlon. Mỗi tội ông ấy lại có xu hướng cho rằng cách của ông ấy là cách hay nhất để giải quyết vụ việc.”
Nhà thờ… cầu nguyện… Rhyme bất chợt hiểu ra một điều. Anh nói với Bell: “Cây ghim cài cà vạt của Davett. Chữ cái J nghĩa là Jesus?”
Bell cười to. “Anh đúng đấy. Ồ, Henry vốn vẫn hạ gục các đối thủ cạnh tranh trong làm ăn chẳng chớp mắt, nhưng ông ấy lại là một trợ tế ở nhà thờ. Mỗi tuần ba lần gì đó. Một trong những lý do khiến ông ấy muốn cử cả đạo quân đi săn lùng Garrett là vì ông ấy nghĩ rằng thằng đó có vẻ là thứ ngoại đạo.”
Rhyme vẫn chưa xác định được ý nghĩa những chữ cái còn lại. “Tôi chịu. Ý nghĩa những chữ cái còn lại là như thế nào?”
“What Would Jesus Do?<22> Tất cả những tín đồ Cơ Đốc giáo chân chính trong vùng này đều tự hỏi mình câu ấy mỗi khi họ phải đối diện với một quyết định lớn. Bản thân tôi hoàn toàn không biết Chúa sẽ làm gì trong một vụ án như thế này. Nhưng tôi sẽ nói anh biết tôi sẽ làm gì: tôi sẽ gọi cho Lucy và cô bạn của anh, bảo họ hướng truy tìm dấu vết Garrett.”
“Lạch Đá à?”, Jesse Corn hỏi sau khi Sachs truyền đạt lại thông tin. Anh chàng cảnh sát chỉ tay. “Ở đằng kia, cách đây nửa dặm.”
Anh ta bắt đầu vượt qua khu vực cây bụi, theo sau là Lucy và Amelia. Ned Spoto khóa đuôi, cặp mắt màu nhạt của anh ta lo lắng quét khắp xung quanh.
Năm phút sau, họ thoát khỏi đám dây leo chằng chịt và bước lên một lối đi đã nhẵn dấu chân người. Jesse ra hiệu cho họ xuôi theo lối này, về phía tay phải - phía đông.
“Đây là cái lối mòn ấy à?” Sachs hỏi Lucy. “Cái lối mòn chị nghĩ là hắn đã đi?.”
“Phải”, Lucy trả lời.
“Chị đã đúng”, Sachs nói khẽ, chỉ đủ cho mình nghe. “Nhưng chúng ta vẫn phải đợi.”
“Không, đấy là cô phải chứng tỏ rằng ai nắm quyền chỉ huy”, Lucy nói sống sượng.
Điều ấy tuyệt đối đúng, Sachs tự nhủ thầm. Rồi thêm: “Nhưng bây giờ thì chúng ta biết có thể có bom trên đường truy tìm. Còn lúc trước chúng ta chưa biết.” Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
“Dù sao nếu cứ đi tôi cũng sẽ để ý xem có bẫy gì không”. Lucy không nói nữa và cô tiếp tục bước theo lối mòn, mắt cắm xuống đất, thể hiện rằng, thực tế, cô vẫn quan sát đề phòng.
Mười phút sau, họ tới lạch Đá, nước của nó trắng như sữa và sủi bọt vì các chất gây ô nhiễm. Trên bờ lạch, họ phát hiện ra hai loại dấu chân – dấu giày vải kích thước nhỏ nhưng hằn sâu, có lẽ của một cô gái vóc người to béo. Không nghi ngờ gì nữa, đấy chính là Lydia. Và dấu chân trần của nam giới. Garrett rõ ràng đã vứt nốt chiếc giày còn lại.
“Hãy sang bên kia con lạch ở chỗ này”, Jesse nói. “Tôi biết cánh rừng thông mà ông Rhyme đề cập tới. Đây là đường ngắn nhất để đến đấy.”
Sachs chuẩn bị bước xuống nước.
“Dừng lại!”, Jessy đột ngột gọi to.
Sachs đứng sững lại, đặt tay lên khẩu súng lục, khom mình. “Có chuyện gì thế?”, cô hỏi. Lucy và Ned, rúc rích cười trước phản ứng của cô, đang ngồi trên những tảng đá, cởi tất và giày.
“Cô để ướt tất và tiếp tục đi bộ”, Lucy nói. “Cô sẽ có cả chục vết thương phải băng bó trước khi đi được một trăm thước. Chân cô sẽ bị phồng rộp.”
“Cô không có nhiều kinh nghiệm đi bộ, phải không?” Ned hỏi người nữ cảnh sát.
Jesse Corn dành cho anh chàng đồng nghiệp nụ cười bực bội. “Vì cô ấy sống ở thành phố, Ned. Cũng hoàn toàn giống như tôi chẳng nghĩ cậu là một chuyên gia về tàu điện ngầm và các tòa nhà chọc trời.”
Sachs phớt lờ cả câu phê phán lẫn lời bảo vệ đầy sự ga lăng, cởi đôi bốt thấp cổ, cởi đôi tất đen chỉ cao đến mắt cá chân. Xắn gấu quần bò lên.
Họ bắt đầu đi qua con lạch. Nước lạnh như nước đá, cảm giác hết sức dễ chịu. Sachs thấy nuối tiếc khi chuyến vượt lạch – mà Jesse phát âm thành “lặt” – kết thúc.
Sang bờ bên kia, họ đợi vài phút cho chân khô, rồi đi tất, đi giày vào. Tiếp theo, họ kiểm tra xung quanh bờ cho tới lúc lại phát hiện được các dấu chân. Đội tìm kiếm liền đi theo các dấu chân đó vào rừng nhưng vì mặt đất trở nên khô ráo hơn và những bụi cây đan nhau chằng chịt hơn, họ đã mất dấu vết.
“Đám thông ở đằng kia”, Jesse nói. Anh ta chỉ về phía đông bắc, “Đi xuyên thẳng qua đấy là cách hợp lý nhất đối với họ.”
Theo sự hướng dẫn chung chung của Jesse, họ đi bộ thêm hai mươi phút nữa, đi hàng một, quan sát kỹ lưỡng mặt đất để đề phòng dây bẫy. Rồi sồi, nhựa ruồi, lách… dần dần nhường chỗ cho bách xù và độc cần. Phía trước họ, cách một phần tư dặm, là một rặng thông khổng lồ. Nhưng chẳng còn bất cứ dấu chân nào của kẻ bắt cóc và nạn nhân của gã nữa – không có manh mối nào về vị trí họ đã đi vào rừng.
“Rộng mênh mông như thế này”, Lucy lẩm bẩm. “Làm sao chúng ta tìm thấy dấu vết của họ trong đấy?”
“Chúng ta hãy tỏa ra”, Ned gợi ý. Anh ta có vẻ cũng bị mất tinh thần vì khoảng cây cối rậm rạp trước mặt. “Nếu hắn đặt một quả bom thì họa có trời mới thấy được.”
Họ đang sắp sửa tỏa ra thì Sachs nghênh nghênh đầu. “Khoan. Ở yên đấy đã”, cô ra lệnh rồi bắt đầu từ từ đi qua bụi cây, mắt nhìn xuống đất, xem có bẫy không. Chỉ đi chừng năm mươi feet, tới một lùm cây cái cây trổ hoa, bây giờ hoa đã rụng, xung quanh gốc đầy các cánh rữa nát, cô phát hiện ra dấu chân của Garrett và Lydia trên nền đất. Chúng dẫn tới một lối mòn quang quẻ và lối mòn này dẫn vào rừng.
“Họ đi lối này!”, Sachs gọi. “Đi theo dấu chân tôi ấy. Tôi đã soát bẫy rồi.”
Một lát sau, ba người cảnh sát tới chỗ cô.
“Làm sao cô phát hiện được?”, anh chàng Jesse Corn đang trồng cây si hỏi.
“Anh ngửi thấy mùi gì?” Sachs hỏi lại.
“Xạ chồn”, Ned trả lời.
Sachs nói: “Garrett để lại mùi xạ chồn trên chiếc quần tôi tìm thấy tại nhà hắn. Tôi suy luận rằng lúc trước hắn đã đi theo lối này. Tôi căn cứ vào mùi xạ chồn còn vương ở đây thôi.”
Jesse cười to và bảo Ned: “Một cô gái thành phố đấy, anh thấythế nào?”
Ned đảo mắt và họ bắt đầu đi theo lối mòn, từ từ di chuyển về phía rặng thông.
Có vài lần họ đi qua những khu vực rộng lớn, héo úa – cây to, cây nhỏ chết hết cả. Khi đi qua những khu vực đó, Sachs cảm thấy bất an – đội tìm kiếm hoàn toàn phơi mình ra trước khả năng bị tấn công. Qua nửa bãi trống thứ hai và sau một cú thót tim nữa vì con thú hay con chim nào đấy rúc sột soạt trong bụi cây, cô rút điện thoại di động ra.
“Rhyme, anh ở đấy chứ?”
“Gì thế? Tìm thấy cái gì à?”
“Bọn em phát hiện được dấu vết rồi. Nhưng hãy cho em biết – có chứng cứ nào chỉ ra khả năng Garrett sử dụng súng không?”
“Không”, Rhyme trả lời, “Sao vậy?”
“Có những khu vực trống trong cánh rừng này – mưa acid hoặc các chất gây ô nhiễm đã tiêu diệt sạch cây cối. Bọn em chẳng có gì che chắn. Thật là một nơi lý tưởng để mai phục.”
“Anh không thấy dấu vết nào hướng tới việc sử dụng súng. Bọn anh có phát hiện ra nitrate, nhưng nếu đấy là từ đạn thì bọn anh cũng sẽ phải phát hiện ra các hạt nhỏ đã cháy, dung môi làm sạch, dầu mỡ, cordite, thủy ngân fulminate. Không thấy bất cứ thứ gì như vậy.”
“Điều ấy chỉ có nghĩa là hắn không sử dụng súng trong thời gian gần đây.”
“Phải.”
Sachs cúp máy.
Quan sát sung quanh một cách thận trọng, đầu óc căng thẳng, họ đi thêm vài dặm nữa, xung quanh không khí đầy mùi nhựa thông. Như bị ru ngủ bởi cái nóng và tiếng côn trùng vo ve, họ vẫn đi trên lối mòn mà Garrett và Lydia đi lúc trước, tuy dấu chân hai người chẳng còn rõ ràng nữa. Sachs băn khoăn tự hỏi liệu có phải họ đã bỏ qua…
“Dừng lại!”, Lucy Kerr kêu lên. Cô khuỵu gối xuống. Ned và Jesse đứng sững. Chỉ trong tích tắc Sachs đã rút khẩu súng lục ra. Rồi cô nhìn thấy cái mà Lucy đang nhìn – ánh màu bạc của một sợi dây chăng ngang đường.
“Trời đất”, Ned nói. “Làm sao chị nhìn thấy được? Nó hoàn toàn trong suốt”
Lucy không trả lời. Cô bò ra lề lối mòn, bám theo sợi dây. Khẽ khàng gạt các bụi cây. Những chiếc lá nóng bỏng, khô khốc kêu sột soạt khi bị nhấc lên lần lượt.
“Muốn tôi gọi đội tháo bom từ Elizabeth City đến không?”, Jesse hỏi.
“Xuỵt”, Lucy yêu cầu.
Đôi bàn tay thận trọng của người nữ cảnh sát mỗi lần chỉ dịch chuyển những chiếc lá đi một milimét.
Sachs nín thở. Trong một vụ án mới đây, cô đã là nạn nhân của một quả bom sát thương. Cô bị thương không nặng, tuy nhiên cô nhớ rằng chỉ một tích tắc thôi, tiếng nổ kinh hoàng, sức nóng, sóng áp suất, các mảnh vỡ, tất cả trùm kín lên cô. Cô không muốn trải qua điều đó một lần nữa. Cô cũng biết nhiều quả bom ống tự tạo được nhồi các vật hình tròn – đôi khi là các đồng mười xu hoặc một xu – chúng sẽ trở thành những mảnh đạn gây chết người. Liệu Garrett có làm như vậy không? Cô nhớ tấm ảnh chụp gã: đôi mắt trũng sâu, tối lờ mờ. Cô nhớ những chiếc lọ đựng côn trùng. Nhớ cái chết của cô gái ở Bến tàu kênh Nước đen – bị ong đốt chết. Nhớ Ed Schaeffer đang hôn mê vì nọc ong bắp cày. Phải, cô đi đến kết luận, Garrett dứt khoát sẽ đặt những cái bẫy ác độc nhất mà gã có thể nghĩ ra được.
Sachs sợ hãi lùi lại khi Lucy gạt chiếc lá cuối cùng khỏi đống lá.
Người nữ cảnh sát thở một hơi dài, ngồi bệt xuống đất. “Một con nhện”, cô lẩm bẩm.
Sachs cũng đã trông thấy. Chẳng phải là dây câu, đó chỉ là một đoạn tơ nhện dài.
Họ đứng dậy.
“Nhện”, Ned vừa nói vừa cười to. Jesse cũng cười tủm tỉm.
Nhưng giọng họ không có gì là hài hước cả và Sachs để ý thấy, khi họ lại bắt đầu đi xuôi theo lối mòn, mỗi người đều thận trọng nhấc chân bước qua sợi tơ nhện óng ánh.
***
Lincoln Rhyme, ngả đầu ra đằng sau, mắt nheo nheo nhìn tấm bảng.
TÌM THẤY TẠI HIỆN TRƯỜNG GIÁN TIẾP – PHÒNG RIÊNG CỦA GARRETT
Xạ chồn hôi
Lá thông bị cắt rời khỏi cành
Các bức vẽ côn trùng
Ảnh chụp Mary Beth
Ảnh chụp gia đình
Các sách về côn trùng
Dây câu
Tiền
Chìa khóa chưa xác định
Dầu hỏa
Ammonia
Nitrate
Camphene
Anh thở dài bực bội. Cảm thấy bất lực hoàn toàn. Đối với anh, các chứng cứ chưa thể tháo gỡ được.
Ánh mắt anh tập trung vào: Các sách về côn trùng.
Rồi anh liếc nhìn Ben. “Vậy. Cậu là sinh viên, phải không?”
“Thưa ông, vâng.”
“Tôi đoán là cậu đọc nhiều.”
“Đấy là tôi dành phần lớn thời gian của mình để làm - nếu không ra ngoài thực nghiệm.”
Rhyme nhìn chằm chằm gáy mấy cuốn sách mà Amelia đã đem từ phòng riêng của Garrett về. Anh trầm ngâm. “Các cuốn sách được ưa thích của một người nói lên những điều gì về người này? Ý tôi là, ngoài cái điều hiển nhiên – rằng người này quan tâm đến chủ đề nằm trong các cuốn sách đó.”
“Nghĩa là thế nào ạ?”
“Chà, nếu một người đọc chủ yếu các sách dạy cách hoàn thiện bản thân, nó cho biết điều gì đó về người này. Nếu anh ta đọc chủ yếu là tiểu thuyết, nó cho biết điều gì đó khác. Những cuốn sách của Garrett toàn là sách hướng dẫn, chẳng phải sách văn học. Cậu có suy luận gì?”
“Tôi không biết, thưa ông”. Anh chàng to lớn liếc nhìn chân Rhyme một cái – dường như chỉ là vô tình – rồi chuyển sự chú ý sang bảng chứng cứ. Anh ta lẩm bẩm: “Tôi chẳng thể suy diễn gì về con người. Tôi thấy hiểu động vật đơn giản hơn nhiều. Chúng mang tính xã hội hơn, có thể dự đoán dễ dàng hơn, nhất quán hơn so với con người. Chúng cũng thông minh hơn hẳn”. Rồi anh ta nhận ra mình đang dông dài, đỏ bừng mặt và ngừng nói.
Rhyme lại liếc nhìn các cuốn sách. “Thom, cậu mang cho tôi thiết bị lật trang được không?” Gắn với một bộ kiểm soát môi trường cho phép Rhyme điều khiển bằng ngón tay duy nhất còn hoạt động được, thiết bị này sử dụng phần ứng cao su để lật trang. “Nó ở trong xe hả?”
“Tôi nghĩ thế.”
“Tôi hy vọng cậu đã đóng gói nó. Tôi đã bảo cậu đóng gói nó.”
“Tôi nói là tôi nghĩ nó ở trong xe mà”, anh chàng phụ tá nói giọng đều đều. “Tôi sẽ đi xem nó có ở trong xe không”. Anh ta rời khỏi căn phòng.
Chúng cũng thông minh hơn hẳn…
Một lát sau, Thom quay lại mang theo thiết bị lật trang.
“Ben”, Rhyme gọi. “Cuốn sách ở trên cùng ấy?”
“Kia ạ?” Anh chàng to lớn hỏi, nhìn chằm chằm vào cuốn sách. Đó là cuốn Hướng dẫn thực địa về côn trùng khu vực Bắc Carolina.
“Cho lên khung đi”, Rhyme sốt ruột nói. “Cậu làm ơn.”
Anh chàng phụ tá hướng dẫn Ben cách đặt cuốn sách, rồi cắm thêm một loạt dây điện vào bộ kiểm soát môi trường nằm phía dưới bàn tay trái Rhyme.
Anh đọc trang đầu tiên, không phát hiện được điều gì hữu ích. Tiếp theo, đầu óc anh ra lệnh cho ngón đeo nhẫn của anh cử động. Một xung lực phóng từ não, truyền xuống qua một sợi trục bé tí còn tồn tại trong tủy sống, vượt qua cả triệu bà con đã chết của nó, chạy vùn vụt dọc cánh tay Rhyme, đi vào bàn tay anh.
Ngón tay anh đưa sang bên.
Tới lượt ngón tay của phần ứng đưa sang bên. Trang đầu tiên được lật.
Chú Thích:
<22> Có nghĩa là: Chúa sẽ làm gì?