PHẦN 2: CON NAI CÁI LÔNG TRẮNG
CHƯƠNG 21
Dịch giả: Đinh Minh Hương
Nguồn: NXB Văn học
Nội dung thu gọn
Tại quán Eddie, quán bar cách khu tạm giam một khối phố, Rich Culbeau lạnh lùng nói: “Đây không phải là trò chơi.” Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
“Tao không nghĩ đây là trò chơi”, Sean O’Sarian đáp. “Tao chỉ cười to thôi. Ý tao là, mẹ kiếp, đơn giản là cười to thôi. Tao đang xem đoạn phim quảng cáo kia.” Gã hất đầu chỉ chiếc màn hình ti vi bám đầy dầu mỡ đặt bên trên cái giá đựng đậu phộng chiên nhãn hiệu Beer Nuts. “Đoạn thằng cha này đang cố gắng đến sân bay và xe hắn…”
“Mày hay như thế quá. Mày cợt nhả. Mày chẳng chú ý gì.”
“Được rồi. Tao đang lắng nghe đây. Bọn ta sẽ vào từ phía sau. Cái cửa sẽ được để mở.”
“Đây là việc tao định hỏi”, Harris Tomel nói. “Cửa sau khu tạm giam chẳng bao giờ mở. Nó lúc nào cũng khóa và nó có, bọn mày biết đây, then ngang bên trong.”
“Then ngang sẽ được tháo ra và cửa sẽ mở. Ok chưa?”
“Đây là mày nói thế”, Tomel hoài nghi.
“Nó sẽ mở”, Culbeau tiếp tục. “Bọn ta đi vào. Sẽ có chìa khóa mở phòng giam thằng nhãi trên bàn, cái bàn sắt bé tí. Bọn mày biết không hả?”
Tất nhiên hai gã kia biết cái bàn. Bất cứ kẻ nào từng qua đêm trong khu tạm giam của Tanner’s Corner đều bị sây sát ống đồng do va vào cái bàn chết tiệt được vít chặt xuống sàn gần cửa, đặc biệt nếu lại đang say xỉn nữa.
“Rồi, tiếp tục đi”, O’Sarian nói, bây giờ đã chú ý.
“Bọn ta mở khóa phòng giam thằng nhãi và đi vào. Tao sẽ dùng bình xịt hơi cay xịt cho nó một phát. Trùm một cái bao qua đầu nó - tao có cái bao bố vẫn để dìm mèo con trong ao, chỉ trùm qua đầu nó thôi và đưa nó ra ngoài qua cửa sau. Nếu muốn nó cứ việc la hét nhưng chẳng ma nào nghe thấy đâu. Harris, mày sẽ ngồi trên xe tải đợi. Hãy lùi xe vào sát cửa ấy. Đừng tắt máy.”
“Bọn ta sẽ đưa nó đi đâu?”, O’Sarian hỏi.
“Không đến chỗ đứa nào hết.” Culbeau nói, tự hỏi liệu O’Sarian có đang nghĩ là bọn gã sẽ đưa tên tù bị bắt cóc về nhà một đứa trong bọn không. Nếu thế thì thằng ôn gầy giơ xương này thậm chí còn ngu ngốc hơn Culbeau vẫn tưởng. “Đến cái ga ra cũ, gần đường tàu hỏa.”
“Tốt”, O’Sarian nhận xét.
“Bọn ta đưa nó đến đó. Tao đã có cái bình hàn xì. Và bọn ta sẽ cho nó thử tí. Theo tao thì chỉ năm phút là cùng, thằng nhãi sẽ cung khai nơi đang giữ Mary Beth.”
“Và rồi bọn ta…” Giọng O’Sarian nhỏ đi.
“Cái gì?”, Culbeau quát. Sau đó gã thì thào: “Mày sắp sửa nói cái điều mà có lẽ mày không muốn nói oang oang ra trước bàn dân thiên hạ đấy hả?”
O’Sarian thì thào đáp trả: “Mày vừa nói tới việc cho thằng nhãi thử mùi cái bình hàn xì. Tao thấy nó xem chừng chẳng hay hớm gì hơn việc tao đang định hỏi - việc sẽ thực hiện tiếp theo đấy.”
Điều này thì Culbeau phải công nhận, tuy tất nhiên gã không nói với O’Sarian rằng gã này có lẽ đã ghi được một điểm. Thay vào đó, gã chỉ bảo: “Việc gì đến sẽ phải đến.”
“Đúng”, Tomel đồng tình.
O’Sarian nghịch cái nắp chai bia, dùng nó cậy ghét bẩn trong móng tay ra. Gã đã trở nên cáu kỉnh.
“Sao?”, Culbeau hỏi.
“Như thế này mạo hiểm lắm. Tóm thằng nhãi ở trong rừng thì dễ dàng hơn. Ở chỗ cái cối xay ấy.”
“Nhưng hắn không còn ở chỗ cái cối xay trong rừng nữa”, Tomel nói.
O’Sarian nhún vai: “Tao chỉ đang băn khoăn không biết số tiền ấy có đáng không.”
“Mày muốn bàn lùi à?” Culbeau gãi gãi bộ râu quai nón, nghĩ nóng thế này gã phải cạo nó đi mới được, nhưng như thế thì cái cằm xệ ba ngấn của gã lại có thể bị người ta chú ý hơn. “Tao vẫn muốn tiền chia đôi hơn là chia ba đấy.”
“Không, mày biết tao đâu muốn bàn lùi. Thế nào cũng được.” O’Sarian lại đánh mắt sang ti vi. Gã chú mục vào một bộ phim và lắc đầu, giương to mắt lên nhìn một nữ diễn viên.
“Hẵng khoan”, Tomel nói, ánh mắt hướng ra bên ngoài cửa sổ. “Xem kìa.” Gã hất đầu chỉ ra bên ngoài.
Nữ cảnh sát tóc đỏ người New York, cái cô ả rút dao nhanh phát khiếp, đang đi bộ ngược lên bên trên con phố, tay cầm một cuốn sách.
Tomel nhận xét “Cô em đẹp gái đấy. Tao có thể xài một chút được.”
Nhưng Culbeau nhớ ánh mắt lạnh lẽo của cô ả và mũi dao im phăng phắc dưới cằm O’Sarian. Gã nói: “Không đáng để mày nhọc công.”
Tóc đỏ bước vào khu tạm giam.
O’Sarian cũng đang nhìn. “Chà, cô em đó khiến tình hình hơi xấu đi.”
Culbeau chậm rãi nói: “Không, không đâu. Harris, đỗ cái xe tải ở đằng kia. Và vẫn để nổ máy.”
“Còn cô ta thì sao?”, Tomel hỏi.
Culbeau nói: “Tao có vô khối bình xịt hơi cay.”
Bên trong khu tạm giam, cảnh sát Nathan Groomer ngồi ngả người trên chiếc ghế dựa ọp ẹp và gật đầu với Sachs. Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Sự si mê của Jesse Corn đã khiến cô phát ngấy, nụ cười xã giao của Nathan khiến cô cảm thấy thoải mái hơn. “Xin chào cô.”
“Anh là Nathan, đúng không?”
“Vâng.”
“Con chim mồi kia”, Sachs nhìn xuống bàn anh ta.
“Cái vật cũ kỹ này ấy à?”, Nathan nhún nhường hỏi.
“Nó là chim gì thế?”
“Vịt trời cái. Chừng một năm tuổi. Vịt. Không phải chim mồi.”
“Anh tự làm à?”
“Thú vui của tôi. Cũng còn mấy con nữa trên bàn làm việc của tôi ở trụ sở chính. Nếu muốn cô cứ việc xem. Tôi tưởng cô đi rồi?”
“Tôi sắp đi. Tình hình thế nào?”
“Ai cơ? Cảnh sát trưởng Bell ấy à?”
“Không, ý tôi là Garrett.”
“Ồ, tôi không biết Mason quay lại gặp hắn, nói chuyện, cố gắng bắt hắn khai cô gái đang ở đâu. Nhưng hắn không khai gì cả.”
“Mason đang ở đây à?”
“Không, anh ta đi rồi.”
“Còn Cảnh sát trưởng Bell và Lucy?”
“Không ở đây, họ đi tất cả rồi. Quay lại trụ sở chính quyền quận. Tôi có thể giúp đỡ cô được gì?”
“Garrett muốn cuốn sách này”, Sachs giơ nó lên. “Tôi đưa cho hắn được chứ?”
“Sách gì thế, Kinh Thánh à?”
“Không, sách về côn trùng.”
Nathan cầm lấy nó, kiểm tra kỹ lưỡng - Sachs đồ là xem có vũ khí không. Rồi anh ta trả lại. “Thằng nhãi kỳ quái. Cứ như trong phim kinh dị. Cô nên đưa cho hắn một cuốn Kinh Thánh mới phải.”
“Tôi nghĩ hắn chỉ quan tâm đến loại sách này.”
“Theo tôi thì cô đúng đấy. Bỏ vũ khí của cô vào cái két sắt kia và tôi sẽ cho cô vào.”
Sachs bỏ khẩu Smith & Wesson vào và bước về phía cửa, nhưng Nathan nhìn cô vẻ chờ đợi. Cô nhướn một bên mày.
“Chà, thưa cô, tôi hiểu là cô còn con dao nữa.”
“Ồ, vâng. Tôi quên.”
“Nguyên tắc là nguyên tắc, cô biết đấy.”
Sachs đưa con dao gấp ra. Nathan bỏ nó xuống bên cạnh khẩu súng.
“Anh có muốn giữ cả bộ còng không?” Sachs đập nhẹ vào chiếc bao đựng còng của mình.
“Không. Người ta không thể gặp rắc rối lớn với cái đó. Tất nhiên, ở chỗ chúng tôi từng có một đức cha đã gặp rắc rối lớn với nó. Nhưng chẳng qua là vì bà vợ của đức cha về nhà sớm và phát hiện ra ông ấy đang bị trói cổ tay vào cọc giường, còn Sally Anne Carlson thì đang cưỡi lên ông ấy. Nào, cô được phép vào rồi đấy.”
Rich Culbeau, bị gã Sean O’Sarian nhút nhát bám rịt, đứng bên cạnh một bụi tử đinh hương đã lụi phía sau khu tạm giam.
Cửa sau khu tạm giam mở ra một cánh đồng lớn, đầy cỏ, rác, các bộ phận ô tô cũ, máy móc hỏng. Cũng có không ít vỏ bao cao su èo uột.
Harris Tomel lái chiếc Ford F-250 long lanh của gã tấp vào lề đường và quay đầu xe lại. Culbeau nghĩ Tomel đáng lẽ nên đến từ hướng kia vì hướng này hơi lộ liễu, nhưng con phố vắng tanh vắng ngắt, hơn nữa, sau khi quầy kem sữa bột ngô đóng cửa, chẳng có lý do cho bất cứ ai đi tới khu vực này. Ít nhất thì chiếc xe tải cũng còn mới và giảm thanh tốt, nó không gây tiếng ồn.
“Đứa nào ở văn phòng đằng trước vậy?”, O’Sarian hỏi.
“Nathan Groomer.”
“Với cô ả cớm đó à?”
“Tao không biết. Làm thế quái nào mà tao biết được? Nhưng nếu cô ả ở đây thì cô ả sẽ phải bỏ súng và con dao đã gí vào cổ mày vào két sắt.”
“Liệu Nathan có nghe thấy nếu cô ả hét lên không?”
Nhớ lại ánh mắt lạnh lẽo của tóc đỏ và lưỡi dao loáng lên, Culbeau nói: “Nhiều khả năng là thằng nhãi sẽ hét chứ chẳng phải cô ả.”
“Ờ, thế, nếu nó hét lên thì sao?”
“Chúng ta sẽ trùm nhanh cái bao lên đầu nó. Này.” Culbeau đưa cho O’Sarian bình xịt hơi cay sơn hai màu trắng - đỏ. “Xịt thấp thôi vì người ta hay chúi xuống.”
“Liệu nó?... Ý tao là, liệu nó có ảnh hưởng đối bọn ta không? Hơi cay ấy?”
“Không, nếu mày không tự xịt thẳng vào cái bản mặt mày. Hơi xịt ra thành luồng chứ không phải thành đám.”
“Tao nên nhằm vào ai?”
“Thằng nhãi.”
“Nếu cô ả ở gần tao hơn thì sao?”
Culbeau lẩm bẩm: “Cô ả là phần tao.”
“Nhưng...”
“Phần tao.”
“Được rồi”, O’Sarian nhất trí.
Hai gã chúi đầu khi đi qua một ô cửa sổ bẩn thỉu phía sau khu tạm giam và dừng lại trước cánh cửa kim loại. Clubeau nhận ra nó hé mở chừng nửa đốt ngón tay. “Thấy chưa, không khóa”, gã thì thào. Cảm thấy đã ghi điểm trong một cuộc đấu nào đấy với O’Sarian. Rồi băn khoăn tự hỏi tại sao gã lại cảm thấy cần thiết phải đạt được điều ấy. “Bây giờ, tao sẽ gật đầu. Rồi bọn ta ập vào, xịt hơi cay cả hai đứa - cứ xịt cái của nợ đó thật nhiều vào.” Gã đưa cho O’Sarian một cái bao tải dày. “Tiếp theo trùm cái này lên đầu nó.”
O’Sarian nắm chặt chiếc bình xịt, hất đầu chỉ cái bao tải thứ hai xuất hiện trong tay Culbeau. “Vậy chúng ta sẽ tóm cả cô ả nữa?”
Culbeau thở dài, bực bội nói: “Phải, Sean ạ. Chúng ta sẽ tóm.”
“Ồ. Được rồi. Chỉ thắc mắc thế thôi.”
“Khi chúng nó chẳng còn kháng cự được nữa, lôi nhanh chúng nó ra ngoài. Đừng dừng lại vì bất cứ lý do gì.”
“Ok... Ồ, tao đã định nói. Tao có mang theo khẩu Colt của tao.”
“Cái gì?”
“Tao có khẩu .38 ly. Tao mang theo nó.” O’Sarian hất đầu chỉ xuống túi quần. Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Culbeau im lặng một lát. Rồi gã nói: “Tốt”. Gã nắm bàn tay to tướng của gã vào tay nắm cửa.
16.06.2015
PHẦN 2: CON NAI CÁI LÔNG TRẮNG
CHƯƠNG 22
Dịch giả: Đinh Minh Hương
Nguồn: NXB Văn học
Nội dung thu gọn
Liệu đây có phải khung cảnh cuối cùng mà anh ngắm nhìn không? Anh băn khoăn tự hỏi.
Từ chiếc giường bệnh, Lincoln Rhyme trông thấy được một công viên trong Trung tâm Y khoa của Đại học Tổng hợp Bắc Carolina ở Avery. Những cái cây sum suê, lối đi bộ lượn ngoằn ngoèo qua bãi cỏ xanh rì, vòi phun nước bằng đá mà một cô y tá đã nói với anh là phỏng theo một giếng nước nổi tiếng nào đấy trong khuôn viên Đại học Tổng hợp Bắc Carolina ở Chapel Hill.
Từ chiếc giường ngủ tại ngôi nhà của anh trên đường Tây Công viên Trung tâm ở Manhattan, Rhyme có thể trông thấy bầu trời và vài tòa nhà dọc theo đại lộ Năm. Nhưng những khung cửa sổ ở đó cách sàn và khá cao nên anh không trông thấy được Công viên Trung tâm trừ phi chiếc giường được đẩy sát vào khung kính, cho phép anh nhìn xuống đám cây cỏ.
Còn ở đây, có lẽ vì trong khi xây dựng người ta đã lưu ý tới các bệnh nhân bị chấn thương tủy sống và thần kinh, những khung cửa sổ được đặt thấp hơn. Thậm chí có thể chạm tới quang cảnh, Rhyme tự nhủ một cách châm biếm.
Rồi anh lại băn khoăn không biết liệu cuộc phẫu thuật có đem đến chút thành công nào không. Liệu anh thậm chí có sống sót không.
Lincoln Rhyme biết rằng không có khả năng làm những việc đơn giản là điều đáng nản nhất.
Ví dụ, đi từ New York đến Bắc Caroiina là cả một dự án, phải tính toán trước bao nhiêu lâu, phải lên kế hoạch thật cẩn thận, sao cho những khó khăn trong chuyến đi hoàn toàn không ảnh hưởng xấu tới Rhyme. Nhưng cái gánh nặng ghê gớm anh phải chịu đựng do chấn thương trở nên nặng nề nhất mỗi khi nó tác động đến những việc nhỏ nhặt mà một người khỏe mạnh vốn vẫn làm chẳng cần suy nghĩ gì hết. Gãi chỗ ngứa trên thái dương, đánh răng, lau miệng, mở lon sô đa, ngồi thẳng dậy trên chiếc ghế dựa để nhìn ra bên ngoài cửa sổ và quan sát lũ chim sẻ lăn lộn trong đám đất cát của khu vườn...
Anh lại băn khoăn tự hỏi anh đang ngu ngốc tới mức nào.
Anh đã gặp được nhà thần kinh học giỏi nhất nước và bản thân anh là một khoa học gia. Anh đã đọc và đã hiểu các tài liệu viết về khả năng gần như không thể cải thiện tình hình ở những bệnh nhân chấn thương tủy sống cấp độ C4. Nhưng anh vẫn quyết tâm tiến tới cuộc phẫu thuật với Cheryl Weaver - bất chấp nguy cơ là cái khung cảnh thôn dã bên ngoài ô cửa sổ này, tại một bệnh viện xa lạ ở một thị trấn xa lạ, có lẽ sẽ trở thành hình ảnh thiên nhiên cuối cùng anh còn được trông thấy trong cuộc đời.
Tất nhiên là có các nguy cơ.
Vậy tại sao anh vẫn sẽ làm phẫu thuật?
Ồ, có một lý do rất xác đáng.
Nhưng đó là một lý do mà nhà hình sự học lạnh lùng trong anh không muốn thừa nhận và là một lý do mà anh sẽ chẳng bao giờ dám nói to ra thành lời. Vì nó chẳng liên quan gì đến việc có thể đi đi lại lại xung quanh một hiện trường vụ án tìm kiếm chứng cứ, chẳng liên quan gì đến việc đánh răng hay ngồi dậy trên giường. Không, không, nó hoàn toàn chỉ vì Amelia Sachs.
Rốt cuộc thì anh đã thừa nhận sự thật: rằng anh càng ngày càng sợ bị mất cô. Anh ủ ê nghĩ ngợi rằng sớm muộn gì cô cũng sẽ gặp một anh chàng Nick khác - anh chàng đa tình đẹp trai từng là người yêu của cô mấy năm trước. Anh xác định điều này là tất yếu, chừng nào mà anh vẫn còn phải bất động như hiện nay. Cô muốn có con. Cô muốn một cuộc đời bình thường. Và vì vậy mà Rhyme sẵn sàng mạo hiểm với cái chết, mạo hiểm với tình trạng sẽ còn tồi tệ hơn, hy vọng rằng tình hình của anh có thể được cải thiện. Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Tất nhiên anh biết cuộc phẫu thuật sẽ không cho phép anh khoác tay Sachs đi dạo dọc theo đại lộ Năm. Anh chỉ hy vọng một sự cải thiện hết sức nhỏ - dịch đến gần cuộc đời bình thường hơn chút ít. Đến gần cô hơn chút ít. Nhưng trong trí tưởng tượng đáng kinh ngạc của mình, Rhyme có thể hình dung ra được bàn tay anh nắm lấy bàn tay cô, siết chặt lấy nó và cảm thấy cái áp lực mơ hồ từ làn da cô.
Một điều nhỏ nhặt đối với tất cả những người khác trên thế giới này, nhưng đối với Rhyme, lại là một điều kỳ diệu.
Thom bước vào phòng. Sau chút im lặng, anh chàng nói: “Một nhận xét này.”
“Tôi không muốn nghe nhận xét nào hết. Amelia đâu?”
“Dù sao tôi cũng cứ nói với anh. Đã năm ngày anh chưa uống.”
“Tôi biết. Thật đến là bực bội.”
“Anh đang giữ sức khỏe cho cuộc phẫu thuật.”
“Mệnh lệnh của bác sĩ”, Rhyme sốt ruột nói.
“Chúng có ý nghĩa đối với anh từ khi nào vậy?”
Một cái nhún vai. “Họ chuẩn bị dò hỏi tôi đủ thứ đấy. Chẳng qua là tôi nghĩ sẽ không khôn ngoan nếu làm tăng thêm lượng cocktail trong máu.”
“Sẽ không khôn ngoan. Anh đúng đấy. Nhưng anh đã chú ý nghe lời bác sĩ của anh. Tôi rất tự hào về anh.”
“Ôi, sự tự hào - bây giờ thì đó cũng có một thứ tình cảm hữu íchđấy.”
Thom tiếp tục: “Nhưng tôi muốn nói điều này.”
“Đằng nào thì cậu cũng sẽ nói, cho dù tôi có muốn cậu nói hay không.”
“Tôi đã đọc nhiều về vấn đề này, Lincoln. Các bước tiến hành phẫu thuật ấy.”
“Ồ, thế à? Tôi hy vọng cậu đã sử dụng thời gian của cậu.”
“Tôi chỉ muốn nói là nếu lần này không được, chúng ta sẽ quay lại. Sang năm. Sang năm nữa. Năm năm nữa. Rồi sẽ được.”
Thói đa cảm trong Lincoln Rhyme cũng đã chết y như tủy sống của anh, tuy nhiên anh vẫn cố gắng nói: “Cảm ơn, Thom. Bây giờ thì cái bà bác sĩ ấy đang ở chỗ quái quỷ nào vậy? Tôi đã lao động vất vả để tóm được những kẻ bắt cóc tâm thần cho những con người này. Tôi nghĩ là họ sẽ đối xử với tôi tử tế hơn một chút chứ.” Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
“Chị ấy mới muộn mười phút thôi, Lincoln. Còn chúng ta hôm nay đã thay đổi cuộc hẹn hai lần.”
“Gần hai mươi phút rồi. A, đây rồi.”
Cánh cửa phòng bệnh mở ra. Và Rhyme ngẩng nhìn, chờ đợi được trông thấy Tiến sĩ Weaver. Nhưng đó không phải ngưòi bác sĩ phẫu thuật.
Cảnh sát trưởng Jim Bell, mặt lấm tấm mồ hôi, bước vào. Ngoài hành lang đằng sau lưng anh ta là cậu em rể, Steve Farr. Cả hai người đàn ông đều đang rất căng thẳng.
Ngay lập tức nhà hình sự học nghĩ rằng họ đã tìm thấy xác Mary Beth, rằng gã trai trên thực tế đã giết chết cô gái. Và tiếp theo anh nghĩ Sachs sẽ thất vọng nhường nào trước tin tức ấy, khi niềm tin cô đặt vào gã trai vỡ tan tành.
Nhưng Bell đem đến tin tức khác. “Tôi xin lỗi phải thông báo với anh chuyện này, Lincoln.” Và Rhyme biết rằng đã có chuyện gì đó liên quan mật thiết đến cá nhân anh hơn, chứ không chỉ đơn thuần vì Garrett Hanlon và Mary Beth McConnell. “Lúc đầu tôi định gọi điện. Nhưng rồi tôi cho rằng anh phải được nghe nói trực tiếp. Vì thế mà tôi tới đây.” Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
“Chuyện gì, Jim?”, Rhyme hỏi.
“Amelia.”
“Cái gì?”, Thom hỏi.
“Cô ấy làm sao?” Rhyme, tất nhiên, không thể cảm thấy được quả tim mình đập trong lồng ngực, nhưng anh cảm thấy được máu dồn lên mặt và thái dương. “Cái gì? Nói tôi nghe!”
“Rich Culbeau và hai gã bạn đi qua khu tạm giam. Tôi chẳng biết chính xác bọn họ mưu toan gì - chắc cũng chẳng có gì tốt đẹp - nhưng dù sao bọn họ cũng đã phát hiện ra một cảnh sát của tôi, Nathan, tay bị còng, ngồi ở văn phòng đằng trước. Còn phòng giam thì trống hoác.”
“Phòng giam?”
“Phòng giam Garrett”, Bell tiếp tục, y như thể điều này giải thích tất cả.
Rhyme vẫn không hiểu ý nghĩa của sự việc. “Chuyện gì...”
Viên cảnh sát trưởng nói bằng giọng cộc cằn: “Nathan bảo rằng cô Amelia của anh đã gí súng khống chế anh ta và giải thoát cho Garrett. Đó là một trường hợp cướp ngục. Bọn họ đang chạy trốn, bọn họ có vũ khí và không ai nắm trong tay manh mối nào về việc bọn họ ở đâu.”
16.06.2015
PHẦN 3: CUỘC ĐẤU TAY ĐÔI
CHƯƠNG 23
Dịch giả: Đinh Minh Hương
Nguồn: NXB Văn học
Nội dung thu gọn
Chạy.
Nhanh hết mức có thể. Đôi chân cô nhức nhối vì những cơn đau khớp đang lan khắp người. Người cô ướt sũng mồ hôi, đã xây xẩm mặt mày vì nóng và mất nước.
Và cô vẫn còn choáng váng khi nghĩ tới việc vừa làm. Garrett ở bên cạnh cô, im lặng chạy xuyên cánh rừng ngoại vi Tanner’s Corner.
Như thế này còn hơn cả ngu ngốc đấy, thưa cô...
Khi Sachs vào phòng giam để đưa cho Garrett cuốn Thế giới thu nhỏ, cô đã quan sát gương mặt sung sướng của gã trai lúc nhận lấy cuốn sách. Một lát trôi qua, gần như có người nào đó bắt buộc cô, cô thò tay qua các chấn song, nắm vai gã trai. Bối rối, gã nhìn đi chỗ khác. “Không, hãy nhìn tôi”, cô yêu cầu. “Hãy nhìn.”
Cuối cùng thì Garrett cũng nhìn. Sachs xem xét bộ mặt đầy mụn, cái mồm giật giật, cặp mắt sẫm màu, đôi lông mày rậm rạp của cậu ta. “Garrett, tôi cần biết sự thật. Việc này chỉ là giữa cậu và tôi thôi. Hãy nói tôi nghe, cậu đã giết Billy Stail à?”
“Tôi thề là tôi không giết. Tôi thề! Đó là gã đàn ông kia - cái gã mặc quần yếm màu nâu vàng. Gã đã giết Billy. Đó là sự thật!”
“Các chứng cứ không chứng tỏ điều này, Garrett.”
“Nhưng người ta có thể nhìn nhận cùng một điều theo những cách khác nhau.” Gã đáp lại bằng giọng điềm tĩnh. “Nói chung, như kiểu chúng ta và con ruồi cùng trông thấy một vật nhưng cách chúng ta nhìn nhận nó khác với cách con ruồi nhìn nhận nó.”
“Ý cậu là gì?”
“Chúng ta trông thấy một vật chuyển động - chỉ là một hình ảnh không rõ nét khi bàn tay ai đó đang cố gắng đập con ruồi. Nhưng theo cái cách mắt con ruồi làm việc thì nó trông thấy một bàn tay dừng lại trong không trung một trăm lần trong quá trình hạ dần xuống. Giống như một tập hợp các bức ảnh tĩnh. Cùng một bàn tay, cùng một chuyển động, nhưng con ruồi và chúng ta nhìn nhận khác nhau. Và màu sắc... Chúng ta nhìn vào một vật thấy độc một màu đỏ thuần nhất, tuy nhiên có những loài côn trùng lại thấy được chục sắc đỏ khác nhau.”
Bằng chứng gợi ý rằng hắn đã phạm tội, Rhyme. Nó chưa chứng minh được điều ấy. Bằng chứng có thể được diễn giải theo nhiều cách khác nhau.
“Còn Lydia”, Sachs kiên trì hỏi, nắm lấy vai gã trai thậm chí chặt hơn. “Tại sao cậu bắt cóc cô ấy?”
“Tôi đã nói với tất cả mọi người lý do tại sao… Vì cô ta cũng đang gặp nguy hiểm. Bến tàu kênh Nước đen... đó là một chốn nguy hiểm. Người ta chết ở đó. Người ta biến mất ở đó. Tôi chỉ bảo vệ cô ta thôi.”
Tất nhiên đó là một chốn nguy hiểm. Nhưng nó nguy hiểm vìmi chăng?
Tới đây, Sachs nói: “Cô ấy bảo cậu đang định cưỡng hiếp cô ấy.”
“Không, không, không... Cô ta nhảy xuống nước, đồng phục bị ướt và rách. Tôi trông thấy cô ta, cô biết đấy, từ trên cao, ngực cô ta. Và tôi bị... kích thích. Nhưng tất cả chỉ có thế.”
“Còn Mary Beth. Cậu đã gây thương tích cho cô ấy, đã cưỡng đoạt cô ấy à?”
“Không, không, không! Tôi nói với cô rồi. Cô ấy bị đập đầu và tôi lau máu bằng cái tờ khăn giấy đó. Tôi không bao giờ làm thế, không làm thế với Mary Beth.”
Sachs đăm đăm nhìn Garrett một lúc lâu hon.
Bến tàu kênh Nước đen... đó là một chốn nguy hiểm.
Cuối cùng, cô hỏi: “Nếu tôi đưa cậu ra khỏi đây cậu sẽ đưa tôi tới chỗ Mary Beth nhé?”
Garrett chau mày. “Tôi làm thế, rồi cô sẽ đưa cô ấy quay lại Tanner’s Corner. Và cô ấy có thể bị hãm hại.”
“Đó là cách duy nhất, Garrett. Tôi sẽ đưa cậu ra nếu cậu đưa tôi tới chỗ cô ấy. Chúng tôi có thể đảm bảo cho cô ấy được an toàn, Lincoln Rhyme và tôi.”
“Ông ta và cô có thể làm được điều ấy?”
“Phải. Nhưng nếu cậu không bằng lòng cậu sẽ ở tù lâu đấy. Và nếu Mary Beth vì cậu mà chết, cậu sẽ mắc tội giết người, cũng y như cậu đã bắn cô ấy vậy. Và cậu sẽ không bao giờ ra khỏi nhà tù được đâu.”
Garrett nhìn ra bên ngoài cửa sổ. Dường như ánh mắt gã đuổi theo một con côn trùng đang bay. Sachs không thể trông thấy nó. “Được rồi.”
“Cô ấy ở cách đây bao xa?”
“Đi bộ sẽ mất tám đến mười tiếng. Cũng tùy.”
“Tùy cái gì?”
“Tùy xem có bao nhiêu người đuổi theo chúng ta và tùy xem chúng ta bỏ trốn thận trọng tới mức nào.”
Garrett nói nhanh, giọng chắc chắn của gã khiến Sachs lo lắng - như thể gã đã dự đoán là sẽ có người cứu gã ra hoặc đã tính toán trước rằng gã sẽ bỏ trốn và đã cân nhắc việc tránh bị truy đuổi.
“Đợi đấy”, cô bảo gã và bước trở ra văn phòng. Cô mở két sắt, lấy khẩu súng và con dao và đi ngược lại tất cả những gì đã được đào tạo, đi ngược lại tất cả những hiểu biết thực tiễn, chĩa khẩu Smith & Wesson vào Nathan Groomer. Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
“Tôi xin lỗi phải làm việc này”, Sachs thì thào. “Tôi cần chìa khóa mở phòng giam hắn và tôi cần anh quay lại, cho hai tay ra đằng sau lưng.”
Mắt trợn tròn, Nathan lưỡng lự, có lẽ cân nhắc xem có nên tìm đến khẩu súng đeo bên hông không. Hay - bây giờ thì Sachs đã nhận ra - có lẽ thậm chí chẳng nghĩ ngợi gì hết. Vì bản năng hoặc phản xạ hoặc chỉ là cơn giận dữ thuần túy hẳn đã khiến anh ta rút vũ khí ra khỏi bao.
“Như thế này còn hơn cả ngu ngốc đấy, thưa cô”, Nathan nói.
“Chìa khóa.”
Anh ta mở ngăn kéo và quăng nó lên bàn. Anh ta cho tay ra đằng sau lưng. Sachs còng tay anh ta bằng chính bộ còng của anh ta và giật đứt chiếc điện thoại treo trên tường.
Rồi cô cho Garrett ra khỏi phòng giam, cũng còng tay gã lại. Cửa sau khu tạm giam dường như để mở, nhưng cô nghĩ là mình đã nghe thấy tiếng bước chân và tiếng động cơ ô tô bên ngoài. Cô lựa chọn cửa trước. Họ thực hiện một cuộc chạy trốn không vương dấu vết gì, không bị phát hiện. Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Bây giờ, đã cách khu trung tâm một dặm, vây xung quanh là bụi rậm và cây cối, gã trai hướng dẫn cô đi dọc theo một lối mòn khó xác định. Những mắt xích của chiếc còng kêu leng keng khi gã giơ tay chỉ hướng họ phải đi.
Sachs nhủ thầm: Nhưng, Rhyme ạ, em chẳng thể làm gì! Anh hiểu chứ? Em không có sự lựa chọn. Nếu trung tâm tạm giam ở Lancaster đúng như cô nghĩ thì Garrett sẽ bị cưỡng đoạt và ăn đòn ngay ngày đầu tiên và chắc chưa đến một tuần sẽ thiệt mạng. Sachs cũng biết đây là cách duy nhất để tìm thấy Mary Beth. Rhyme đã khai thác hết các chứng cứ và sự ngang ngạnh trong ánh mắt Garrett nói với cô rằng gã sẽ không đời nào chịu hợp tác.
(Không, tôi không lẫn lộn giữa bản năng làm mẹ với nỗi băn khoăn đâu, Tiến sĩ Penny ạ. Và tất cả những gì tôi biết là nếu Lincoln và tôi có một đứa con trai, nó sẽ độc lập suy nghĩ và bướng bỉnh giống như chúng tôi vậy, và nếu chẳng may bất cứ điều gì xảy ra cho chúng tôi, tôi sẽ cầu nguyện để một người nào đấy sẽ trông nom nó theo cái cách tôi đang trông nom Garrett...)
Họ di chuyển nhanh. Sachs ngạc nhiên thấy gã trai len lỏi qua cây cối mới thanh thoát làm sao, mặc dù tay gã bị còng. Xem chừng gã biết chính xác phải đặt bàn chân xuống chỗ nào, loại cây nào người ta có thể dễ dàng vạch cành lá đi qua, loại cây nào sẽ cản người ta lại. Chỗ nào mặt đất quá mềm không bước bên trên được.
“Đừng bước chỗ đó”, Garrett nói giọng lạnh lùng. “Đây là đất sét từ vịnh Carolina. Nó giữ chân người ta như keo vậy.”
Họ đi bộ nửa tiếng đồng hồ cho tới lúc mặt đất trở nên nhão nhoét, còn không khí thì đầy mùi mêtan lẫn mùi các chất bị phân rã. Tuyến đường rốt cuộc chẳng thể đi qua được - cuối cái lối mòn ấy là một bãi lầy lớn - và Garrett dẫn Sachs sang con đường hai làn rải nhựa. Họ bắt đầu đi qua các bụi cây mọc lúp xúp dọc theo lề đường.
Vài chiếc ô tô chạy thong thả, các lái xe không để ý gì tới kẻ tội phạm mà họ đang đi qua.
Sachs ghen tỵ quan sát họ. Mới chạy trốn được hai mươi phút, cô ngẫm nghĩ, thế mà cô đã cảm thấy tim mình thắt lại trước cuộc đời bình thường của tất cả những người khác - và trước khúc ngoặt đen tối của cuộc đời cô.
Như thế này còn hơn cả ngu ngốc đấy, thưa cô.
“Cô ơi!”
Mary Beth McConnell giật mình tỉnh dậy.
Cái nóng và bầu không khí ngột ngạt trong ngôi nhà gỗ đã khiến cô thiếp đi trên chiếc đi văng hôi hám.
Giọng nói, ở gần bên, lại gọi: “Cô ơi, cô không sao chứ? Này cô? Mary Beth?”
Cô nhảy khỏi đi văng và vội vã bước tới trước ô cửa sổ vỡ kính. Cô cảm thấy xây xẩm mặt mày, phải cúi đầu xuống một phút, dựa vào tường để đứng vững, vết thương trên thái dương nhức nhối dữ dội. Cô nghĩ: Mẹ mày, Garrett.
Bớt đau đớn, Mary Beth nhìn được rõ ràng. Và cô tiếp tục bước tới chỗ cửa sổ.
Đó là nhà truyền giáo. Ông ta đi với người bạn, một người đàn ông cao, đang hói dần, mặc quần dài màu xám và sơ mi lao động. Nhà truyền giáo vác rìu.
“Cảm ơn ông, cảm ơn ông!”, Mary Beth thì thầm.
“Này cô, cô không sao chứ?”
“Tôi không sao. Hắn chưa quay lại.” Giọng Mary Beth vẫn khàn khàn đau đớn. Nhà truyền giáo đưa cho cô một bi đông nước nữa và cô uống cạn.
“Tôi đã gọi cảnh sát thị trấn”, ông ta bảo Mary Beth. “Họ đang đến. Mười lăm, hai mươi phút nữa họ sẽ đến. Nhưng chúng tôi sẽ không đợi họ. Chúng tôi sẽ giải thoát cô ngay bây giờ, hai chúng tôi.”
“Tôi chẳng thể cảm ơn ông cho đủ được.”
“Hãy đứng lùi lại một chút. Tôi suốt đời chẻ gỗ và sau một phút cái cánh cửa đó sẽ trở thành một đống củi. Đây là Tom. Ông ấy cũng làm việc cho quận.”
“Chào ông, Tom.”
“Chào cô. Đầu cô có ổn không?”, ông ta chau mày hỏi.
“Trông thế thôi chứ cũng không đến nỗi”, Mary Beth nói, sờ vào vết thương đã khô.
Thình, thình.
Chiếc rìu bập vào cánh cửa. Từ chỗ cửa sổ, Mary Beth có thể trông thấy lưỡi rìu khi nó vung lên cao và bắt ánh nắng. Cạnh sắc của nó lấp lánh, nghĩa là nó rất sắc. Mary Beth từng giúp đỡ cha chẻ củi để đốt lò sưởi. Cô nhớ cô đã say mê quan sát ông biết chừng nào, sau khi kết thúc công việc, mài lưỡi rìu vào một tảng đá mài - những tia lửa màu da cam bay tung lên, giống như pháo hoa trong ngày mùng Bốn tháng Bảy.
“Kẻ bắt cóc cô là ai?”, Tom hỏi. “Thuộc loại hư hỏng à?”
Thình... thình.
“Hắn là học sinh trung học ở Tanner’s Corner. Hắn thật đáng sợ. Hãy nhìn tất cả những cái này.” Mary Beth hất tay chỉ đám côn trùng bị nhốt trong lọ.
“Chao ôi!”, Tom nói, tì sát cửa sổ để nhìn vào.
Thình.
Cánh cửa nứt ra khi nhà truyền giáo bổ được một mảnh lớn.
Huỵch.
Mary Beth liếc nhìn cánh cửa. Garrett hẳn đã gia cố nó có thể bằng cách đóng ghép hai cánh cửa lại. Cô bảo Tom: “Tôi cảm thấy chính mình là một trong những con bọ chết tiệt của hắn. Hắn...”. Mary Beth trông thấy vụt một cái cánh tay trái Tom thọc qua cửa sổ và tóm lấy cổ áo cô. Tay phải gã thụi vào ngực cô. Gà kéo mạnh cô về phía trước, áp sát các chấn song, và đặt cái mồm ướt nhoẹt, đầy mùi bia với thuốc lá lên môi cô. Lưỡi gã phóng ra cố gắng lùa qua hai hàm răng cô. Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Gã sục sạo ngực cô, bóp véo, cố gắng tìm thấy đầu vú cô qua lần vải áo, trong khi đó cô vặn đầu đi để tránh gã, vừa nhổ ra phì phì vừa thét lên.
“Mày đang làm cái quái quỷ gì vậy?”, nhà truyền giáo kêu to, buông rơi rìu. Ông ta chạy tới chỗ cửa sổ.
Nhưng trước khi ông ta kéo được Tom ra thì Mary Beth đã tóm lấy bàn tay đang sờ soạng khắp ngực cô và đẩy mạnh xuống. Cô khiến cổ tay Tom sượt qua một mảnh thủy tinh nhọn nhô lên trên khung cửa sổ. Gã hét lên vì đau đớn và choáng váng. Gã thả cô ra, loạng choạng ngã về phía sau.
Chùi miệng, Mary Beth từ chỗ cửa sổ chạy vào giữa căn phòng.
Nhà truyền giáo quát Tom: “Mày làm như thế làm cái mẹ gì?”
Hãy đập cho hắn một phát! Mary Beth tự nhủ thầm. Đập cho hắn một phát bằng cái rìu ấy. Hắn thật điên rồ. Giao luôn cả hắncho cảnh sát.
Tom chẳng thèm nghe. Gã bóp cánh tay đang chảy máu, xem xét vết cứa. “Chúa ôi, Chúa ôi, Chúa ôi...”
Nhà truyền giáo lẩm bẩm: “Tao đã bảo mày phải kiên nhẫn. Sau năm phút là bọn ta đưa được nó ra và chỉ nửa tiếng đồng hồ nữa là bọn ta cho nó dang tay dang chân ra ở chỗ mày. Bây giờ thì kế hoạch của bọn ta rối tung lên rồi.”
Dang tay dang chân...
Lời gã kia nằm trong đầu óc Mary Beth một lát trước khi ý nghĩa của nó xuất hiện: không có cuộc gọi cho cảnh sát nào cả, không có ai đang tới cứu cô.
“Trời ơi, nhìn này. Nhìn này!” Tom giơ cổ tay bị cứa lên, máu đang chảy ròng ròng xuống cánh tay.
“Đ.mẹ”, nhà truyền giáo lẩm bẩm. “Bọn ta sẽ phải nhờ người khâu chỗ đó lại. Mày ngu lắm. Tại sao mày không đợi được chứ? Thôi nào, hãy đi xử lý chỗ đó đã.”
Mary Beth nhìn Tom loạng choạng bước vào cánh đồng cỏ. Cách ô cửa sổ mười feet, gã dừng lại. “Đồ chó cái thối tha! Mày hãy sẵn sàng đi. Bọn tao sẽ quay lại.” Gã liếc nhìn xuống và cúi người khuất khỏi tầm nhìn một lát. Rồi gã đứng lên, cầm hòn đá cỡ quả cam to trong bàn tay còn lành lặn. Gã ném nó qua chấn song. Mary Beth loạng choạng lùi về phía sau đúng lúc nó đáp vào căn phòng, chỉ cách cô chừng gang rưỡi. Cô buông người lên đi văng, khóc nức nở.
Trong khi hai gã bước về phía cánh rừng, cô lại nghe thấy Tom hét: “Mày hãy sẵn sàng đi!”
Cả lũ đang ở nhà Harris Tomel, một ngôi nhà đẹp năm phòng ngủ kiến trúc kiểu thuộc địa, tọa lạc trên bãi cỏ khá lớn mà gã chưa bao giờ mó tay sửa sang. Ý tưởng về việc trang trí bãi cỏ của Tomel chỉ là đỗ chiếc F-250 ở đằng trước và chiếc Suburban ở đằng sau.
Gã làm như thế này vì, dù sao trong bộ ba gã cũng là kẻ đã vào đại học và sở hữu nhiều áo len hơn sơ mi ca rô, Tomel phải nỗ lực hơn một chút để ra dáng một gã nhà quê thô lậu. Ờ, chắc chắn gã từng phải ngồi tù, nhưng đó là sau chuyến làm ăn bậy bạ ở Raleigh, nơi gã bán cổ phiếu, trái phiếu trong các công ty mà vấn đề duy nhất của chúng là chúng không tồn tại. Gã có thể bắn ngang ngửa một tay bắn tỉa nhưng Culbeau chưa bao giờ thấy hay nghe nói gã tự mình trực tiếp tấn công ai, ít nhất là những người không quan hệ gì tới gã. Tomel cũng suy nghĩ quá nhiều, dành quá nhiều thời gian cho áo quần, gọi rượu pha bằng những loại yêu cầu riêng, thậm chí tại quán bar Eddie.
Bởi vậy, khác với Culbeau, kẻ lao động quần quật xây dựng cơ ngơi của mình, và khác với O’Sarian, kẻ xoay xở đủ cách nhặt về các cô nàng phục vụ bàn để các cô nàng ấy săn sóc tới cái nhà lưu động cho gã, Harris Tomel cứ mặc kệ nhà cửa sân xướng. Culbeau đồ rằng Tomel hy vọng sẽ tạo được ấn tượng gã là một kẻ bần tiện.
Nhưng đó là việc của Tomel và bộ ba đang có mặt tại ngôi nhà với sân trước sân sau nhếch nhác cùng các vật trang điểm thảm cỏ đến từ thành phố Detroit đâu phải nhằm mục đích bàn bạc chuyện tôn tạo quang cảnh, các gã có mặt tại đây chỉ vì một lý do duy nhất: Tomel đã được thừa kế bộ sưu tập súng ăn đứt mọi bộ sưu tập súng khác khi cha gã đã câu cá trên băng ở hồ Spivy vào đêm Giao thừa cách đây mấy năm và ngày hôm sau chẳng tỉnh dậy nữa.
Cả lũ đứng trong căn phòng ốp gỗ của Tomel, xem xét các hộp đựng súng, đúng cái kiểu hai mươi năm trước Culbeau và O’Sarian đứng bên cạnh giá bày kẹo rẻ tiền ở cửa hiệu tạp phẩm Peterson trên phố Cây Thích, quyết định xem thó cái nào.
O’Sarian cầm lên khẩu Colt AR-15 màu đen, phiên bản dân sự của khẩu M-16, vì gã lúc nào cũng oang oang nói mãi về Việt Nam và xem tất cả các bộ phim chiến tranh gã có thể kiếm.
Tomel lấy khẩu Browning được khảm dát rất đẹp mà Culbeau thèm muốn y như gã thèm muốn đám đàn bà con gái trong quận, tuy bản thân gã là một tay súng trường và gã thích khoan được một lỗ vào tim con nai ở cách xa gần ba trăm thước hơn việc nổ một phát khiến một con vịt chỉ còn nắm lông. Phần gã, hôm nay, gã lựa chọn khẩu Winchester .30-06 rất diện của Tomel với chiếc kính ngắm to hơn hẳn bình thường.
Ba gã gói ghém vô số đạn, nước, điện thoại di động của Culbeau, thức ăn. Và tất nhiên cả rượu lậu. Cả túi ngủ nữa. Tuy không gã nào nghĩ cuộc săn sẽ kéo dài.
16.06.2015
PHẦN 3: CUỘC ĐẤU TAY ĐÔI
CHƯƠNG 24
Dịch giả: Đinh Minh Hương
Nguồn: NXB Văn học
Nội dung thu gọn
Một Lincoln Rhyme nghiêm nghị lăn xe quay vào la-bô khám nghiệm đã được thu dọn.
Lucy Kerr và Mason Germain đứng bên cạnh chiếc bàn bằng gỗ ép công nghiệp lúc nãy đặt kính hiển vi. Họ đứng khoanh tay trước ngực và khi Thom cùng Rhyme vào phòng, cả hai đều nhìn nhà hình sự học cùng anh chàng phụ tá với vẻ vừa khinh miệt vừa nghi ngờ.
“Thế quái nào mà cô ta có thể làm việc đó chứ?”, Mason hỏi. “Lúc ấy cô ta nghĩ gì?”
Nhưng đây chỉ là hai trong số nhiều câu hỏi về Amelia Sachs và việc cô đã làm, những câu hỏi không thể trả lời, chưa thể, bởi vậy Rhyme chỉ hỏi: “Có ai bị thương không?”
“Không”, Lucy nói. “Nhưng Nathan rất bàng hoàng, nhìn xuống nòng khẩu Smith & Wesson mà chúng tôi thật điên rồ mới đưa cho cô ta.”
Rhyme nỗ lực duy trì vẻ ngoài điềm tĩnh, nhưng nỗi lo sợ cho Sachs xuyên thấu trái tim anh. Lincoln Rhyme vốn tin tưởng vào các chứng cứ hơn bất cứ thứ gì khác, và các chứng cứ thì chỉ ra rõ ràng rằng Garrett Hanlon là một kẻ bắt cóc, giết người. Sachs, bị vẻ ngoài có tính toán của gã đánh lừa, cũng đang chịu nguy hiểm y như Mary Beth hay Lydia.
Jim Bell bước vào phòng.
“Cô ấy có lấy cái xe nào không?”, Rhyme tiếp tục hỏi.
“Tôi nghĩ là không”, Bell nói. “Tôi đã hỏi xung quanh đây. Không có cái xe nào biến mất cả.”
Bell nhìn tấm bản đồ vẫn được dính trên tường. “Đây không phải một khu vực dễ dàng để đi khỏi, cũng không dễ dàng bị phát hiện. Nhiều đầm lầy, không nhiều đường lớn. Tôi đã…”
Lucy nói: “Hãy sử dụng chó, Jim. Irv Wanner trông nom mấy con chó săn cho cảnh sát bang đấy. Hãy gọi cho Đại úy Dexter ở Elizabeth City và xin số điện thoại của Irv. Ông ta sẽ lần theo dấu vết bọn họ.”
“Ý kiến hay đấy. Chúng ta sẽ...”
“Tôi muốn đề xuất một việc”, Rhyme ngắt lời.
Mason cất tiếng cười lạnh lùng.
“Cái gì?” Bell hỏi.
“Tôi muốn thương lượng với anh.”
“Không thương lượng gì hết”, Bell nói. “Cô ta là một tội phạm chạy trốn. Và có súng, để nhả đạn.”
“Chị ấy sẽ không bắn bất cứ ai”, Thom nói.
Rhyme tiếp tục: “Amelia tin tưởng rằng không có cách nào khác để tìm thấy Mary Beth. Đó là lý do tại sao cô ấy hành động như vậy. Họ đang đến chỗ Mary Beth bị giam giữ.”
“Điều này chẳng thành vấn đề”, Bell nói. “Vấn đề là không thể cướp một kẻ giết người ra khỏi nhà tù được.”
“Hãy cho tôi hai mươi tư tiếng đồng hồ trước khi anh gọi cảnh sát bang. Tôi sẽ tìm thấy hai người cho anh. Chúng ta có thể vạch các lời buộc tội. Nhưng nếu để cảnh sát bang và chó nghiệp vụ tham gia vào thì chúng ta đều biết rằng họ sẽ hành động đúng theo quy định, mà như thế thì có nghĩa sẽ có nhiều khả năng dẫn đến thương vong.”
“Thương lượng ghê nhỉ, Lincoln”, Bell nói. “Cô bạn anh đã cướp tù nhân của chúng tôi...”
“Nếu không nhờ tôi thì hắn đã chẳng trở thành tù nhân của các vị. Tự các vị chẳng bao giờ tìm thấy hắn được.”
“Thôi, quên mẹ nó đi”, Mason nói. “Chúng ta đang lãng phí thời gian và mỗi phút chúng ta lãng phí nói này nói nọ bọn nó sẽ đi được xa hơn đấy. Tôi tán thành quan điểm huy động tất cả mọi người ở thị trấn tìm kiếm bọn nó. Rải cảnh sát khắp khu vực này. Làm như Henry Davett gợi ý ấy. Phát súng trường và...”
Bell cắt lời anh ta, hỏi Rhyme: “Nếu chúng tôi cho anh hai mươi tư tiếng đồng hồ thì chúng tôi được gì?”
“Tôi sẽ ở lại giúp đỡ các anh tìm thấy Mary Beth. Dù mất bao nhiêu lâu.”
Thom nói: “Cuộc phẫu thuật, Lincoln...”
“Quên cuộc phẫu thuật đi”, anh lẩm bẩm, cảm thấy nỗi tuyệt vọng khi nói điều này. Anh biết lịch của Tiến sĩ Weaver sít sao đến mức nếu anh bỏ lỡ ngày hẹn đã đặt trên bàn anh sẽ phải quay lại danh sách chờ. Cái ý nghĩ là Sachs làm việc này để anh không làm phẫu thuật được thoáng qua trong đầu Rhyme. Kéo dài thêm vài ngày và cho anh cơ hội thay đổi quyết định. Nhưng anh gạt cái ý nghĩ đó sang bên, nổi khùng lên với chính mình: Hãy tìm ra cô ấy, hãy cứu cô ấy. Trước khi Garrett bổ sung cô ấy vào danh sách các nạn nhân của gã.
Bị đốt một trăm ba mươi bảy phát.
Lucy nói: “Chúng tôi đang đứng trước cái, người ta gọi thế nào nhỉ, lòng trung thành bị chia sẻ, có phải không?”
Mason nói: “Đúng, làm sao chúng tôi biết được rằng anh sẽ không khiến chúng tôi tìm kiếm lòng vòng và để cô ta trốn thoát?”
“Bời vì...”, Rhyme kiên nhẫn nói. “Amelia đã sai lầm. Garrett là kẻ sát nhân và hắn chỉ sử dụng cô ấy để vượt ngục. Một khi hắn không cần cô ấy nữa, hắn sẽ giết cô ấy.”
Bell đi đi lại lại một lúc, đăm đăm nhìn tấm bản đồ. “Được rồi, chúng tôi sẽ làm như vậy, Lincoln. Anh có hai mươi tư tiếng.”
Mason thở dài. “Và cách quái nào mà ông tìm thấy cô ta giữa chốn hoang dã ấy chứ?” Anh ta hất tay về phía tấm bản đồ. “Ông sẽ chỉ gọi cho cô ta và hỏi cô ta ở đâu ư?”
“Đây chính xác là việc tôi sẽ làm. Và ai đó hãy đưa Ben Kerr quay lại đây!”
Lucy Kerr đứng trong văn phòng bên cạnh phòng tác chiến, gọi điện thoại.
“Cảnh sát bang Bắc Carolina, Elizabeth City nghe đây.” Giọng phụ nữ trả lời dứt khoát. “Chị cần gì?”
“Tôi muốn gặp Thám tử Gregg.”
“Xin giữ máy.”
“A lô?” Lát sau, một giọng nam giới hỏi.
“Pete, tôi là Lucy Kerr ở Tanner’s Corner.”
“Này, Lucy, tình hình thế nào? Mấy cô gái mất tích sao rồi?”
“Đã kiểm soát được tình, hình”, Lucy nói, giọng điềm tĩnh, tuy cô điên tiết vì Bell cứ khăng khăng yêu cầu cô phải nhắc lại đúng như lời Lincoln Rhyme: “Nhưng chúng tôi gặp một vấn đề nhỏ khác”.
Một vấn đề nhỏ…
“Chị cần gì? Vài cảnh sát à?”
“Không, chỉ là truy tìm vị trí một máy điện thoại di động.”
“Có lệnh không?”
“Thư ký thẩm phán sẽ fax cho anh ngay bây giờ.”
‘‘Cho tôi số điện thoại và số sêri.”
Lucy cung cấp thông tin.
“Mã vùng nào đấy, 212 à?”
“Đó là một số điện thoại của New York. Đang sử dụng điện thoại di động ở ngoài vùng đăng ký.”
“Không vấn đề gì. Chị muốn có ghi âm các cuộc nói chuyện chứ?”
“Chỉ cần vị trí thôi.”
Và một tầm nhìn rõ ràng đến mục tiêu...
“Khỉ nào... hẵng hượm. Tờ fax đây…” Gregg ngừng lại một chút, đọc. “Ồ, chỉ là một người mất tích?”
“Chỉ thế thôi”, Lucy miễn cưỡng nói.
“Chị biết là tốn kém đấy. Chúng tôi sẽ phải yêu cầu chị trả tiền.”
“Tôi hiểu.”
“Được rồi, giữ máy nhé, tôi sẽ gọi các nhân viên kỹ thuật của tôi.” Có một tiếng cách khẽ.
Lucy ngồi bên bàn, vai rũ xuống, bàn tay trái gập lại. Cô nhìn chằm chằm những ngón tay đỏ lên sau nhiều năm làm vườn, vết sẹo cũ do chiếc đai kim loại của một thùng gỗ nâng bổi, vết thắt ngẫng ở ngón đeo nhẫn sau năm năm đeo nhẫn cưới.
Gập lại, duỗi ra.
Quan sát các tĩnh mạch và cơ phía dưới da, Lucy Kerr nhận ra một điều. Rằng vụ phạm tội của Amelia Sachs đã trút vào lòng cô nỗi tức giận mãnh liệt hơn bất cứ tình cảm nào từng xuất hiện trong cô từ trước tới nay.
Khi người ta cắt mất một phần cơ thể cô, cô đã cảm thấy xấu hổ, rồi cảm thấy thật bất hạnh. Khi chồng cô rời bỏ cô, cô cảm thấy tội lỗi và nhẫn nhục chịu đựng. Và khi rốt cuộc cô tức giận trước các sự việc này, nỗi tức giận của cô tựa như than hồng - nó tỏa ra sức nóng ghê gớm nhưng chưa bao giờ bùng lên thành những ngọn lửa.
Nhưng vì một lý do mà cô chẳng thể hiểu được, người nữ cảnh sát đến từ New York ấy đã khiến cơn giận giữ mãnh liệt và ngoài ra không có thứ cảm xúc gì khác, bùng lên trong trái tim Lucy - tựa như đám ong bắp cày tuôn khỏi tổ, giết chết Ed Schaeffer theo cái cách thật khủng khiếp.
Cơn giận giữ mãnh liệt trước sự phản bội lại Lucy Kerr, người chưa bao giờ cố ý làm ai phải đau đớn, một phụ nữ yêu cây cỏ, một phụ nữ từng là người vợ tốt của chồng mình, người con gái hiếu thảo của cha mẹ, người chị gái hiền hậu, người nữ cảnh sát chân chính, một phụ nữ chỉ mong muốn những niềm vui vô hại mà cuộc đời hào phóng ban phát cho tất cả, tuy nhiên dường như quyết tâm từ chối riêng mình cô.
Chẳng còn cảm giác xấu hổ hay tội lỗi hay nhẫn nhục hay buồn rầu.
Chỉ là nỗi tức giận - trước những sự phản bội xảy ra trong cuộc đời cô. Từ cơ thể cô, từ chồng cô, từ Chúa.
Và bây giờ từ Amelia Sachs.
“A lô, Lucy?”, Pete hỏi từ Elizabeth City. “Chị đang ở đầu dây chứ?”
“Vâng, tôi đây.”
“Chị... chị có sao không? Nghe giọng chị là lạ.”
Lucy hắng giọng. “Không sao. Anh sẵn sàng chưa?”
“Rồi. Khi nào thì đối tượng thực hiện cuộc gọi?”
Lucy nhìn sang phòng bên kia. Cô hỏi to: “Sẵn sàng chưa?” Rhyme gật đầu.
Lucy nói vào điện thoại: “Bất cứ lúc nào kể từ lúc này.”
“Hãy giữ máy nhé”, Gregg nói. “Tôi sẽ kết nối.”
Làm ơn cho việc này có tác dụng, Lucy tự nhủ thầm. Làm ơn...
Rồi cô thêm dòng ghi chú vào lời cầu nguyện của mình: Và, lạy Chúa lòng lành, hãy để con bắn một phát trúng tim đứa phản bội.
Thom đeo bộ tai nghe qua đầu Rhyme. Rồi anh chàng phụ tá bấm một số điện thoại.
Nếu Sachs đã tắt máy, sẽ chỉ có ba hồi chuông và tiếp theo cái giọng phụ nữ trầm bổng êm ái ở hộp thư thoại sẽ cất lên.
Một hồi... hai hồi...
“A lô?”
Rhyme không tin mình lại cảm thấy nhẹ nhõm dường ấy khi nghe thấy giọng Sachs. “Sachs, em không sao chứ?”
Im lặng một chút. “Em không sao.”
Rhyme nhìn thấy, trong căn phòng bên cạnh, Lucy Kerr với gương mặt rầu rĩ gật đầu.
“Hãy nghe anh này, Sachs. Hãy nghe anh này. Anh biết tại sao em hành động như vậy, nhưng em phải đầu thú thôi. Em... em vẫn nghe đấy chứ?
“Em đây, Rhyme.”
“Anh biết em đang làm gì. Garrett đã đồng ý đưa em đến chỗ Mary Beth.”
“Đúng vậy.”
“Em không thể tin tưởng hắn đâu”, Rhyme nói. (Đồng thời nghĩ trong nỗi tuyệt vọng: Và cả mình nữa. Anh trông thấy Lucy xoay ngón tay thành hình tròn, nghĩa là: Giữ cho cô ta đừng cúp máy.) “Anh đã thương lượng với Jim. Nếu em đưa hắn quay lại, họ sẽ có hướng xem xét tội trạng của em. Cảnh sát bang hiện vẫn chưa tham gia. Và anh sẽ ở đây tới chừng nào tìm thấy Mary Beth. Anh hoãn phẫu thuật rồi.”
Rhyme nhắm mắt chốc lát, cảm giác tội lỗi xuyên thấu anh. Nhưng anh chẳng có sự lựa chọn nào. Anh hình dung ra cái chết của cô gái ở Bến tàu kênh Nước đen, cái chết của Ed Schaeffer... Tưởng tượng thấy những con ong bắp cày xúm xít trên cơ thể Amelia. Anh phải phản bội cô để cứu cô.
“Garrett vô tội, Rhyme. Em biết cậu ta vô tội. Em không thể để cậu ta bị đưa tới trung tâm tạm giam được. Ở đó bọn họ sẽ giết chết cậu ta.”
“Thế thì chúng ta sẽ thu xếp giam giữ hắn tại một chỗ khác. Và chúng ta sẽ xem xét lại các chứng cứ. Chúng ta sẽ tìm kiếm thêmcác chứng cứ. Chúng ta sẽ cùng làm. Em và anh. Chúng ta đã nói như vậy, phải không, Sachs? Em và anh… Bao giờ cũng là em và anh. Không có gì mà chúng ta lại không tìm ra được.”
Một chút im lặng. “Không có ai đứng về phía Garrett. Cậu ta hoàn toàn đơn độc, Rhyme.”
“Chúng ta có thể bảo vệ hắn.”
“Anh không thể bảo vệ một người trước cả một thị trấn, Lincoln.”
“Đừng dùng tên riêng”, Rhyme nói. “Điều đó sẽ đem đến xui xẻo, nhớ không?”
“Toàn bộ chuyện này đã là xui xẻo rồi.”
“Làm ơn đi, Sachs...”
Cô nói: “Đôi khi, người ta chỉ cần dựa vào niềm tin.” Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com) Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
“Bây giờ thì ai đang phân phát các câu châm ngôn đấy?” Rhyme bắt buộc mình cất tiếng cười - một phần để trấn an Sachs. Một phần để trấn an chính mình.
Tiếng rọt rẹt mơ hồ.
Hãy trở về nhà đi, Sachs, Rhyme tự nhủ thầm. Làm ơn đi! Chúng ta vẫn còn cứu vãn được gì đó. Tính mạng em cũng đang mong manh y như cái sợi thần kinh ở cổ anh - cái sợi bé tí duy nhất vẫn còn hoạt động.
Và cũng quý giá y như vậy đối với anh.
Sachs nói: “Garrett bảo em là bọn em có thể tới chỗ Mary Beth trong đêm nay hoặc sáng mai. Em sẽ gọi cho anh khi nào bọn em gặp được cô gái.”
“Sachs, đừng cúp máy vội. Còn điều này. Để anh nói điều này.”
“Gì vậy?”
“Dù em nghĩ về Garrett như thế nào, cũng đừng tin tưởng hắn. Em nghĩ hắn vô tội. Nhưng cũng hãy chấp nhận là hắn có thể có tội. Em biết chúng ta vốn vẫn tiếp cận các hiện trường vụ án như thế nào, Sachs.”
“Với một tư duy mở.” Cô đọc thuộc lòng quy tắc. “Không định kiến. Tin tưởng rằng mọi cái đều có thể.”
“Đúng. Hãy hứa với anh là em sẽ nhớ như thế.”
“Cậu ta bị còng mà, Rhyme.”
“Cứ còng hắn nhé. Và đừng để hắn đến gần vũ khí của em.”
“Vâng. Em sẽ gọi cho anh khi nào bọn em gặp được Mary Beth.”
“Sachs...”
Đường dây im bặt.
“Mẹ kiếp”, nhà hình sự học lầm bẩm. Anh nhắm mắt, trong cơn giận dữ cố gắng giải thoát mình khỏi bộ tai nghe. Thom vươn người về phía trước, nhấc nó ra khỏi đầu Rhyme. Anh chàng chải lại mái tóc thẫm màu cho nhà hình sự học.
Từ căn phòng bên cạnh, Lucy gác điện thoại và bước sang. Qua vẻ mặt cô, Rhyme có thể nói là việc truy tìm vị trí không đạt được kết quả.
“Pete bảo bọn họ ở trong vòng bán kính ba dặm tính từ trung tâm Tanner’s Corner.”
Mason lẩm bẩm: “Họ không xác định được cụ thể hơn à?”
Lucy nói: “Nếu cô ta giữ máy thêm mấy phút nữa, họ sẽ có thể xác định vị trí của cô ta chỉ sai số mười lăm feet”.
Bell đang xem xét tấm bản đồ. “Được rồi, cách trung tâm thị trấn ba dặm.”
“Liệu hắn có quay lại Bến tàu kênh Nước đen không?”, Rhyme hỏi.
“Không”, Bell nói. “Chúng ta biết rằng bọn họ đi ra khu Bờ Ngoài và Bến tàu kênh Nước đen thì ở hướng ngược lại.”
“Đường ngắn nhất để đi ra khu Bờ Ngoài là đường nào?”, nhà hình sự học hỏi.
“Bọn họ không thể đi bộ”, Bell vừa nói vừa bước tới trước tấm bản đồ. “Bọn họ sẽ phải đi ô tô hoặc vừa ô tô vừa thuyền. Có hai đường để ra đó. Bọn họ có thể theo đường 112 về phía nam đến đường 17. Theo tuyến ấy bọn họ đến Elizabeth City và có thể dùng thuyền, hoặc tiếp tục đi hết đường 17 đến đường 158 rồi lái xe ra bãi biển. Hoặc bọn họ có thể lựa chọn đường Harper... Mason, anh lấy Frank Sturgis và Trey, đến đường 112. Dựng rào chắn tại Belmont.”
Rhyme nhận ra đây là ô M-10 trên tấm bản đồ.
Viên cảnh sát trưởng tiếp tục: “Lucy, cô và Jesse lấy thêm Harper xuống đường Millerton. Dựng rào chắn tại đấy”. Đây là ô H-14.
Bell gọi cậu em rể vào. “Steve, cậu điều phối thông tin liên lạc và trang bị bộ đàm cho tất cả mọi người nếu ai chưa có.”
“Rõ rồi, Jim.”
Bell bảo Lucy và Mason: “Thông báo với tất cả mọi người là Garrett đang mặc bộ đồ nỉ của phòng tạm giam. Màu xanh lơ. Bạn gái anh đang mặc gì? Tôi không nhớ.”
“Cô ấy không phải bạn gái tôi”, Rhyme trả lời.
“Xin lỗi.”
Rhyme nói: “Quần bò, áo phông đen”.
“Cô ta có đội mũ không?”
“Không.”
Lucy và Mason đi ra cửa.
Một lát sau, căn phòng chỉ còn Bell, Rhyme và Thom.
Viên cảnh sát trưởng gọi cho cảnh sát bang, đề nghị viên thám tử vừa giúp đỡ họ định vị số máy di động cử người theo dõi tần số đó, vì đối tượng mất tích có thể sẽ liên lạc lại.
Rhyme để ý thấy Bell ngừng một chút. Anh ta liếc nhìn Rhyme và nói vào điện thoại: “Cảm ơn đề nghị của anh, Pete. Nhưng tới lúc này mới là một đối tượng mất tích. Chưa có gì nghiêm trọng đâu.”
Bell gác máy, lầm bầm: “Chưa có gì nghiêm trọng. Lạy Chúa, lạy Chúa tôi”.
Mười lăm phút sau, Ben Kerr bước vào văn phòng. Anh ta thực tế có vẻ mừng rỡ được quay lại, tuy rõ ràng là bối rối trước cái tin tức đòi hỏi sự quay lại của anh ta.
Anh ta cùng Thom dỡ các thiết bị khám nghiệm mượn của cảnh sát bang đã được gói ghém lại, trong lúc Rhyme đăm đăm nhìn tấm bản đồ và các bảng chứng cứ trên tường.
TÌM THẤY TẠI HIỆN TRƯỜNG TRỰC TIẾP - BẾN TÀU KÊNH NƯỚC ĐEN
Khăn giấy Kleenex thấm máu
Bụi đá vôi
Nitrate
Phốt phát
Ammonia
Chất tẩy
Camphene
TÌM THẤY TẠI HIỆN TRƯỜNG GIÁN TIẾP – PHÒNG RIÊNG CỦA GARRETT
Xạ chồn hôi
Lá thông bị cắt rời khỏi cành
Các bức vẽ côn trùng
Ảnh chụp gia đình
Ảnh chụp Mary Beth
Các sách về côn trùng
Dây câu
Tiền
Chìa khóa chưa xác định
Dầu hỏa
Ammonia
Nitrate
Camphene
TÌM THẤY TẠI HIỆN TRƯỜNG GIÁN TIẾP - MỎ ĐÁ
Túi vải bao bì cũ - Không đọc được tên in bên trên
Ngô - Thức ăn chăn nuôi?
Muội than trên túi
Nước đóng chai nhãn hiệu Deer Park
Bích quy phó mát nhãn hiệu Planters
TÌM THẤY TẠI HIỆN TRƯỜNG GIÁN TIẾP - CỐI XAY
Bản đồ khu vực Bờ Ngoài
Cát bãi biển
Lá thích/sồi đã rữa
Rhyme đăm đăm nhìn bảng chứng cứ cuối cùng, nhận ra rằng chứng cứ Sachs tìm thấy tại cối xay mới ít ỏi làm sao. Đây luôn luôn là vấn đề khi người ta đã đặt các manh mối hiển nhiên tìm thấy tại hiện trường vụ án vào một địa điểm cụ thể - ví dụ như chỗ cát và tấm bản đồ. Xét theo khía cạnh tâm lý, người ta bớt tập trung chú ý và rà soát ít cẩn thận hơn. Anh ước gì họ có thêm chứng cứ từ hiện trường này.
Rồi Rhyme nhớ lại một việc. Lydia nói rằng Garrett thay quần áo khi đội tìm kiếm đang đến gần. Tại sao? Lý do duy nhất là hắn biết những quần áo hắn giấu ở đó có thể tiết lộ nơi hắn giấu Mary Beth. Anh liếc nhìn Bell. “Anh bảo Garrett đang mặc bộ đồ nỉ của tù nhân à?”
“Phải.”
“Anh có quần áo hắn mặc lúc bị bắt chứ?”
“Ở đằng phòng tạm giam.”
“Anh cử người đem đến đây được không?”
“Chỗ quần áo ấy à? Có ngay.”
“Hãy yêu cầu bỏ chúng vào túi giấy.” Rhyme đưa ra mệnh lệnh. “Đừng gập lại.”
Viên cảnh sát trưởng gọi tới phòng tạm giam, yêu cầu một cảnh sát đem chỗ quần áo đến. Từ những câu trao đổi ở đầu dây đằng này, Rhyme suy luận rằng viên cảnh sát kia còn hơn cả sung sướng khi được góp phần vào việc tìm thấy cái cô ả đã trói chân trói tay anh ta lại với nhau và làm anh ta phải mất mặt.
Rhyme đăm đăm nhìn tấm bản đồ bờ biển miền Đông. Họ có thể thu hẹp phạm vi rà soát, chỉ tập trung vào các ngôi nhà cổ - vì chúng có những chiếc đèn đốt bằng camphene - và chỉ tập trung vào các ngôi nhà không nằm sát bãi biển - với dấu vết của lá thích và sồi. Nhưng việc xác định một khu vực cụ thể thì thật đáng nản. Hàng trăm dặm.
Điện thoại của Bell đổ chuông. Anh ta nhận cuộc gọi và trao đổi một phút rồi cúp máy. Anh ta bước tới trước tấm bản đồ. “Các rào chắn đã được dựng. Garrett và Amelia có thể sẽ đi vào trong nội địa ở chỗ này để vòng qua - anh ta đập đập vào ô M-10 - nhưng từ vị trí của Mason và Frank, cánh đồng này nằm trong tầm quan sát tốt và bọn họ sẽ bị phát hiện.”
Rhyme hỏi: “Tuyến đường sắt phía nam thị trấn thì sao?”
“Nó không được sử dụng để chở hành khách. Nó là tuyến vận chuyển hàng hóa và không có lịch tàu chạy. Nhưng bọn họ có thể đi bộ dọc theo đó. Đó là lý do tại sao tôi dựng rào chắn tại Belmont. Tôi cuộc rằng bọn họ sẽ đi lối ấy. Tôi cũng đang nghĩ Garrett có thể lẩn trốn một thời gian trong khu Bảo tồn sinh thái Thác Manitou - với mối quan tâm của hắn đến côn trùng và thiên nhiên hoặc đại loại vậy. Hắn có thể vẫn hay ở đó.” Bell đập đập vào ô T-10.
Farr hỏi: “Sân bay thì sao?”
Bell nhìn Rhyme: “Cô ta có thể lái trộm máy bay đi không?”
“Không, cô ấy không biết lái máy bay.”
Rhyme để ý thấy một ghi chú trên tấm bản đồ. Anh hỏi: “Căn cứ quân sự gì kia?”
“Nó từng được sử dụng làm kho vũ khí trong thập kỷ sáu mươi và bảy mươi. Đã đóng cửa nhiều năm nay rồi. Nhưng khắp chỗ đó có các đường hãm và boong ke. Chúng ta sẽ cần đến hai chục người mới lục soát hết chỗ đó và hắn vẫn có thể tìm được một cái xó để ẩn trốn.”
“Chỗ đó có lực lượng tuần tra không?”
“Trước thì có, bây giờ thì không.”
“Khu vực hình vuông kia là gì? Ở ô E-5 và E-6 ấy?”
“Kia á? Có lẽ là cái công viên giải trí cũ”, Bell nói, nhìn Farr và Ben.
“Đúng”, Ben xác nhận. “Hồi nhỏ em trai tôi và tôi hay đến đấy. Nó được gọi là, gì nhỉ? Nóc Nhà Anh điêng hoặc đại loại vậy.”
Bell gật đầu. “Nó từng là khu vui chơi giải trí của một làng người Anh điêng. Cách đây mấy năm thì ngừng hoạt động - không có ai đến đấy nữa. Williamsburg và Sáu Lá Cờ được ưa thích hơn nhiều. Là nơi ẩn trốn tốt, nhưng nằm ở hướng ngược lại hướng ra khu Bờ Ngoài. Garrett sẽ không đến đấy đâu.” Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Bell đặt tay vào ô H-14. “Lucy đang ở đây. Mà ở những khu vực đó Garrett và Amelia sẽ phải bám theo đường Harper. Rời xa con đường sẽ là đầm lầy đầy đất sét. Bọn họ phải mất hàng ngày trời mới đi qua được - nếu bọn họ còn sống sót, mà chưa chắc bọn họ đã sống sót nổi. Bởi vậy... Tôi nghĩ chúng ta hãy cứ chờ xem sẽ xảy ra chuyện gì.”
Rhyme lơ đãng gật đầu, cặp mắt anh di chuyển từ mốc địa hình này sang mốc địa hình khác trên tấm bản đồ quận Paquenoke y như chiến hữu của anh - con nhặng bất kham, lúc bấy giờ đã bay khỏi.
16.06.2015
PHẦN 3: CUỘC ĐẤU TAY ĐÔI
CHƯƠNG 25
Dịch giả: Đinh Minh Hương
Nguồn: NXB Văn học
Nội dung thu gọn
Garrett Hanlon dẫn Amelia đi xuôi một con đường rộng trải nhựa. Họ đi chậm hơn lúc nãy, mệt lừ vì nóng và gắng sức.
Khu vực này có những nét quen và cô nhận ra đây là đường Kênh Đào – con đường sáng hôm nay họ đã đi từ trụ sở chính quyền quận đến khám nghiệm hiện trường vụ án ở Bến tàu kênh Nước đen. Cô có thể trông thấy trước mặt những gợn sóng lăn tăn đen thẫm của sông Paquenoke. Bên kia kênh đào là những ngôi nhà lớn, đẹp đẽ mà cô đã bình phẩm với Lucy.
Sachs nhìn xung quanh. “Tôi không hiểu. Đây là con đường chính dẫn vào thị trấn. Tại sao chẳng có rào chắn nào?”.
“Họ nghĩ chúng ta đi lối khác. Họ đã dựng rào chắn ở phía đông và phía nam so với đây.”
“Làm thế nào mà cậu biết được?”
Garrett trả lời: “Họ nghĩ tôi kỳ cục. Họ nghĩ tôi là thằng ngu. Khi mình khác mọi người thì mọi người hay nghĩ như vậy. Nhưng tôi không như vậy”.
“Nhưng chúng ta đang đi đến chỗ Marry Beth?”
“Chắc chắn rồi. Chỉ không phải theo lối mà họ nghĩ.”
Một lần nữa, sự tự tin và thiếu cởi mở của Garrett lại khiến Sachs lo lắng, nhưng sau đó cô lại chú ý vào con đường, họ tiếp tục đi trong im lặng. Mất hai mươi phút, họ ở cách cái ngã ba nơi Kênh Đào kết thúc tại đường 112 tối đa nửa dặm - Billy Stail đã bị sát hại ở ngã ba này.
“Nghe nào!”, Garrett thì thào, hai bàn tay bị còng túm lấy cánh tay Sachs.
Cô nghênh nghênh đầu nhưng không nghe thấy gì cả.
“Nấp vào bụi đi”. Họ lùi từ đường vào một bụi nhựa ruồi lá cọ ngưa ngứa.
“Gì thế?”, Sachs hỏi.
“Xuỵt.”
Một lát sau, một chiếc xe tải lớn không thùng chạy lại từ phía sau họ.
“Nó từ cái nhà máy kia”, Garrett thì thào. “Ở phía trước mặt.”
Chữ in trên thành xe cho thấy nó thuộc Công ty Davett. Cô nhận ra tên của người đàn ông đã giúp đỡ họ xử lý các chứng cứ. Chiếc xe đi qua rồi , họ trở ra đường.
“Làm thế nào mà cậu nghe thấy?”
“Ồ, người ta phải luôn luôn thận trọng. Giống như những con bướm đêm.”
“Những con bướm đêm? Ý cậu là gì?”
“Những con bướm đêm rất hay. Chúng, nói chung, cảm nhận được sóng siêu âm. Chúng có ra đa phát hiện các vật. Khi một con dơi phóng ra một chùm âm thanh để tìm kiếm chúng, những con bướm đêm liền gấp cánh lại và thả mình rơi xuống đất, ẩn trốn. Cả từ trường và điện trường nữa – côn trùng cũng cảm nhận được. Nói chung, những thứ mà chúng ta thậm chí không ý thức được. Cô biết là người ta có thể dụ một số loài côn trùng bằng sóng radio chứ? Hoặc đuổi chúng đi, tuỳ thuộc vào tần số.” Garrett chợt im lặng, đầu quay sang hướng khác, bất động. Rồi gã lại nhìn Sachs. Gã nói: “Người ta phải luôn luôn lắng nghe. Nếu không có thể bị kẻ khác thộp cổ lúc nào chả biết”.
“Kẻ nào?”, Sachs ngập ngừng hỏi.
“Cô biết đấy, tất cả.” Rồi Garrett hất đầu chỉ ngược lên phía trên con đường, về hướng Bến tàu kênh Nước đen và sông Paquenoke. “Mười phút nữa là chúng ta sẽ được an toàn. Họ sẽ không bao giờ tìm thấy chúng ta.”
Sachs đang băn khoăn tự hỏi thực tế thì điều gì sẽ xảy ra cho Garrett khi họ tìm thấy Mary Beth và quay lại Tanner’s Corner. Gã sẽ vẫn phải nhận một số tội. Nhưng nếu Mary Beth chứng thực câu chuyện về kẻ giết người thực sự - gã đàn ông mặc quần yếm màu nâu vàng - trong trường hợp đó, ủy viên công tố có thể sẽ chấp nhận Garrett đã bắt cóc cô gái vì lợi ích của bản thân cô. Lời biện hộ cho các tội khác sẽ được mọi toà án hình sự chấp nhận. Và gã có thể sẽ trắng án.
Nhưng ai là gã đàn ông mặc quần yếm? Tại sao gã rình mò trong những cánh rừng xung quanh Bến tàu kênh Nước đen? Gã đã gây ra các vụ án mạng trong vòng vài năm qua và đang cố gắng đổ tội cho Garrett chăng? Gã đã dọa dẫm thằng bé Todd Wilkes tới mức nó phải tự tử? Liệu có hay không một đường dây ma tuý mà Billy Stail tham gia vào? Sachs biết vấn đề ma tuý ở các thị trấn nhỏ cũng nghiêm trọng như ở các thành phố lớn vậy.
Rồi cái ý nghĩ này xuất hiện trong cô: rằng Garrett có thể nhận diện thủ phạm thực sự đã sát hại Billy Stail – gã đàn ông mặc quần yếm, kẻ tới lúc này chắc phải nghe nói về vụ trốn chạy rồi, và đang mò đi tìm kiếm Garrett, tìm kiếm cả cô nữa. Để bịt miệng họ. Có lẽ nên…
Garrett đột ngột đứng sững lại, khuôn mặt hiện vẻ sợ hãi. Gã xoay người một vòng.
“Gì thế?”, Sachs thì thào.
“Ô tô?”, đang phóng nhanh.”
“Đâu?”
“Xuỵt.”
Họ nhìn thấy ánh đèn quét từ phía sau.
Người ta phải luôn luôn lắng nghe. Nếu không có thể bị kẻ khác thộp cổ lúc nào chả biết.
“Không!”, Garrett sững sờ kêu lên và đẩy Sachs vào một khóm lách.
Hai chiếc xe tuần tra của quận Paquenoke lao dọc theo đường Kênh Đào. Cô không trông thấy được ai đang lái chiếc xe thứ nhất, nhưng viên cảnh sát ngồi ở ghế hành khách – viên cảnh sát da đen đã treo tấm bảng viết cho Rhyme – nheo mắt chăm chú quan sát khu rừng. Anh ta cầm khẩu súng săn. Lucy Kerr lái chiếc xe thứ hai. Jesse Corn ngồi bên cạnh cô.
Garrett và Sachs nằm dán xuống đất, nấp dưới đám cỏ chồi.
Những con bướm đêm liền gấp cánh lại và thả mình rơi xuống đất…
Hai chiếc xe lao qua và phanh kít lại nơi đường Kênh Đào gặp đường 112. Chúng đỗ ngang đường, chắn cả hai làn đường, và những người cảnh sát rời khỏi xe, vũ khí sẵn sàng.
“Chặn đường”, Sachs lẩm bẩm. “Khỉ gió thật.”
“Không, không, không”, Garrett lẩm bẩm, điếng người. “Họ phải nghĩ là chúng ta đi lối kia chứ - về phía đông. Họ phải nghĩ như thế chứ!”
Một chiếc xe chở khách chạy qua Sachs và Garrett, giảm tốc độ ở cuối con đường. Lucy vẫy cho chiếc xe dừng lại và tới hỏi han người lái xe. Rồi họ yêu cầu anh ta ra khỏi xe và mở cốp xe, khám xét kỹ lưỡng.
Garrett nằm thu lu trong đám cỏ. “Làm thế quái nào mà họ xác định được chúng ta sẽ đi lối này nhỉ?”, gã thì thầm. “Làm thế quái nào chứ?”
Vì họ có Lincoln Rhyme, Sachs thầm trả lời.
“Họ không trông thấy gì hết, Lincoln”, Jim Bell bảo anh.
“Amelia và Garrett sẽ chẳng đời nào lại đi ra chính giữa đường Kênh Đào đâu”, Rhyme bực bội nói. “Hai người sẽ lợi dụng các bụi rậm. Tránh bị phát hiện.”
Jim Bell nói: “Đã bố trí rào chắn và họ đang khám xét tất cả các xe. Ngay cả khi họ biết người lái xe”. Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
“Lối duy nhất để từ khu tạm giam vượt qua các đầm lầy là đường Kênh Đào rồi tới đường 112”. Nhưng giọng Bell nghe nghi ngại. “Tuy nhiên, tôi phải nói rằng đây là cú liều lĩnh lớn – điều tất cả mọi người đến Bến tàu kênh Nước đen. Nếu bọn họ đã thực sựđang đi về phía đông ra khu Bờ Ngoài thì bây giờ bọn họ đã thoát khỏi tay chúng tôi và chúng tôi sẽ không đời nào tìm thấy bọn họ được nữa. Đây là ý tưởng của anh, chà, nó có vẻ không được hiện thực cho lắm.”
Nhưng Rhyme tin tưởng rằng mình đúng. Hai mươi phút trước, trong lúc đăm đăm nhìn tấm bản đồ, lần theo tuyến đường gã trai đã đưa Lydia đi – tuyến đường dẫn đến đầm lầy Sầu Thảm và hầu như không dẫn đến đâu khác – anh bắt đầu băn khoăn tự hỏi về vụ bắt cóc Lydia. Anh nhớ lời Sachs nói với anh sáng hôm nay khi họ đang truy đuổi Garrett. Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Lucy bảo hắn không có lẽ lại đi đường này.
Và chi tiết ấy khiến anh đặt ra câu hỏi mà chưa ai trả lời được thỏa đáng. Chính xác tại sao Garrett lại bắt cóc Lydia Johansson? Câu trả lời của Tiến sĩ Penny là để giết chết cô ta như một nạn nhân thay thế. Nhưng, hoá ra, gã đã không giết cô ta tuy gã có thừa thời gian hành động. Cũng không cưỡng hiếp cô ta. Không còn động cơ gì khác để bắt cóc cô ta. Họ là những người xa lạ, cô ta chưa bao giờ chửi bới gã, gã xem chừng không có nỗi ám ảnh gì về cô ta, cô ta chẳng phải nhân chứng trong vụ sát hại Billy. Vậy mục đích của gã có thể là gì?
Rồi Rhyme nhớ lại việc Garrett đã sẵn lòng cho Lydia biết Mary Beth đang bị giữ ở khu Bờ Ngoài – và cô gái vui vẻ như thế nào, không cần đến sự giải cứu ra sao. Lý do gì mà gã tự nguyện cung cấp những thông tin ấy? Và các chứng cứ ở chỗ cối xay – cát bãi biển, tấm bản đồ khu Bờ Ngoài… Theo Sachs thì Lucy đã dễ dàng tìm thấy. Quá dễ dàng. Anh đi đến kết luận rằng hiện trường đã được dàn dựng, như giới khoa học khám nghiệm vốn vẫn gọi các chứng cứ được bố trí để đánh lạc hướng điều tra.
Lúc đó, Rhyme kêu lên một cách cay đắng: “Chúng ta đã bị qua mặt!”.
“Ý ông là gì, Lincoln?, Ben hỏi.
“Hắn đã đánh lừa chúng ta”, nhà hình sự học nói. Một gã trai mười sáu tuổi đãnh đánh lừa được tất cả họ. Ngay từ đầu, Rhyme giải thích rằng Garrett đã cố ý làm tuột một chiếc giày tại hiện trường bắt cóc Lydia. Gã đã cho bụi đá vôi vào đấy, nó sẽ khiến bất cứ ai hiểu biết về vùng này – như Davett chẳng hạn – nghĩ tới cái mỏ đá, nơi gã đã bố trí các chứng cứ khác, chiếc túi bám muội than và ngô – đến lượt các chứng cứ đó dẫn người ta tới chỗ cối xay.
Đội tìm kiếm phải tìm thấy Lydia, cùng với các chứng còn lại – để họ tin rằng Mary Beth bị giữ ở một ngôi nhà khu Bờ Ngoài.
Kế hoạch của Garrett thật xuất sắc, tuy nhiên gã đã mắc một sai lầm – cho rằng đội tìm kiếm phải mất vài ngày mới tìm thấy Lydia (đây là lý do tại sao gã định để lại tất cả số thức ăn kia cho cô gái). Tới lúc đó thì gã đã có mặt bên cạnh Mary Beth tại nơi ẩn trốn thực sự, còn đội tìm kiếm cứ việc lục soát khu Bờ Ngoài.
Bởi vậy mà Rhyme đã hỏi Bell xem tuyến ngắn nhất để đi từ Tanner’s Corner về phía tây là tuyến nào. “Bến tàu kênh Nước đen”, viên cảnh sát trưởng trả lời. “Đường 112.” Và Rhyme đã yêu cầu Lucy cùng các đồng sự của cô tới đó càng nhanh càng tốt.
Cũng có khả năng Garrett và Sachs đã vượt qua ngã ba mất rồi và đang đi về phía tây. Nhưng Rhyme tính toán khoảng cách và không nghĩ là họ có thể đi bộ - lại trong điều kiện phải trốn tránh - được xa như vậy với thời gian ít ỏi đó.
Lúc này, Lucy gọi điện về từ chỗ rào chắn. Thom bật loa ngoài. Nữ cảnh sát, rõ ràng vẫn không biết Rhyme thực sự ở phe nào, hoài nghi nói: “Xung quanh đây, tôi chẳng trông thấy bóng dáng bọn họ đâu cả và chúng tôi đã kiểm tra hết mọi xe đi qua. Anh chắc chắn vào việc đấy chứ?”.
Và dù Lucy lựa chọn suy nghĩ như thế nào về lời đáp ngạo mạn này, cô cũng chỉ nói: “Hãy hy vọng là anh đúng. Ở đây thì có khả năng là sẽ thực sự phải thất vọng.” Cô cúp máy.
Một lát sau, điện thoại của Bell đổ chuông. Anh ta nghe, rồi ngẩng nhìn Rhyme. “Ba cảnh sát nữa vừa tới đường Kênh Đào, cách đường 112 chừng một dặm về phía nam. Họ đang đi bộ rà soát ngược lên phía bắc, tiến đến chỗ nhóm Lucy, kẹp Garrett cùng với Sachs vào giữa.” Anh ta nghe một lúc lâu hơn, liếc nhìn Rhyme, rồi lảng ánh mắt sang chỗ khác, tiếp tục nói vào điện thoại: “Vâng, cô ta có vũ khí… Và, vâng, tôi thấy bảo cô ta là tay súng cừ”.
Sachs và Garrett khom mình nấp trong bụi, quan sát các xe chờ đợi để đi qua rào chắn.
Rồi, ở phía sau họ, một âm thanh khác mà thậm chí không có thính giác nhạy bén của loài bướm đêm Sachs cũng phát hiện ra được: những tiếng còi hụ. Họ trông thấy loạt đèn pha thứ hai - tiến đến đầu đằng kia – đầu phía nam - đường Kênh Đào. Một chiếc xe tuần tra nữa đỗ lại và thêm ba cảnh sát bước ra, cũng được trang bị súng săn. Họ bắt đầu đi từ từ qua các bụi rậm, di chuyển về phía Garrett và Sachs. Sau mười phút là họ sẽ đi qua đúng đám lách đang che giấu hai kẻ chạy trốn.
Garrett nhìn cô vẻ chờ đợi.
“Gì thế?”, Sachs hỏi.
Garrett liếc nhìn khẩu súng của cô.
“Cô sẽ sử dụng nó chứ?”
Sachs sững sờ chằm chằm chiếu ánh mắt vào gã. “Không. Tất nhiên là không.”
Garrett hất đầu chỉ về phía rào chắn. “Họ thì có.”
“Sẽ không ai bắn gì cả!”, Sachs gay gắt thì thào, khiếp sợ thấy Garrett thậm chí tính toán đến khả năng ấy. Cô ngoảnh nhìn cánh rừng đằng sau. Nó lầy lội và không thể đi qua mà không bị nhìn thấy hoặc nghe thấy. Phía trước họ là hàng rào thép mắt cáo vây xung quanh Công ty Davett. Qua các mắt lưới, cô nhìn thấy có xe trong bãi đỗ.
Amelia Sachs từng làm về tội phạm đường phố một năm. Kinh nghiệm đó, cộng với những hiểu biết của cô về xe hơi, có nghĩa cô có thể mất chưa đầy ba mươi giây để đột nhập vào và đấu dây lửa khởi động một chiếc xe.
Nhưng thậm chí nếu cô đánh cắp được xe rồi, bằng cách nào họ ra khỏi khu vực nhà máy? Có một cửa vận chuyển và giao hàng vào nhà máy, tuy nhiên nó cũng nằm trên đường Kênh Đào. Họ sẽ vẫn phải chạy qua rào chắn. Liệu họ có thể đánh cắp một chiếc SUV hoặc một chiếc xe tải loại nhỏ và lao qua hàng rào ở chỗ không ai trông thấy được, rồi xuyên rừng đến đường 112? Khắp xung quanh Bến tàu kênh Nước đen là những quả đồi dốc đứng cùng những chỗ thụt sâu xuống đầm lầy, liệu họ có thể thoát mà không để lăn xe và tự sát?
Tốp cảnh sát đang đi bộ rà soát bây giờ chỉ còn cách gần hai trăm thước.
Bất kể họ sẽ làm gì, đây cũng là lúc hành động. Sachs quyết định rằng họ không có sự lựa chọn. “Nào, Garrett. Chúng ta phải trèo qua hàng rào kia.”
Họ lom khom di chuyển về phía bãi đỗ xe.
“Cô đang nghĩ tới một chiếc xe à?”, Garrett hỏi, nhận ra nơi họ hướng đến.
Sachs liếc nhìn lại sau lưng. Tốp cảnh sát còn cách gần một trăm thước.
Garrett tiếp tục nói: “Tôi không thích ô tô. Chúng làm tôi sợ”.
Nhưng Sachs chẳng chú ý nữa. Cô nghe thấy lời Garrett nói lúc trước, nó vẫn loanh quanh luẩn quẩn trong đầu óc cô.
Những con bướm đêm liền gấp cánh lại và thả mình rơi xuống đất!
* * *
“Bây giờ họ đang ở vị trí nào?” Rhyme yêu cầu thông tin. “Tốp cảnh sát làm nhiệm vụ rà soát ấy?”
Bell nhắc lại câu hỏi vào điện thoại của mình, lắng nghe rồi đặt tay vào một điểm trên tấm bản đồ, quãng nửa ô G-10. “Họ gần đến chỗ này. Đất là lối vào công ty Davett. Cách chừng một trăm thước về phía bắc.”
“Liệu Amelia và Garrett có thể đi vòng qua nhà máy về phía đông được không?”
“Không, xung quanh khu vực của Davett là hàng rào. Vượt sang bên kia đầm lầy nhão nhoét. Nếu bọn họ đi về phía tây bọn họ sẽ phải bơi theo kênh đào và có thể sẽ không leo lên bờ được. Dù sao thì chỗ đó cũng không có gì che chắn. Lucy và Trey chắc chắn sẽ trông thấy bọn họ.”
Chờ đợi thật vô cùng khó khăn, Rhyme biết Sachs sẽ gãi và chọc vào da thịt mình để làm vơi bớt nỗi băn khoăn lo lắng – hệ quả xấu xuất phát từ những nỗ lực và tài năng của cô. Phải, các thói quen gây tổn hại, nhưng anh mới ghen tỵ với cô làm sao. Trước tai nạn, bản thân Rhyme sẽ làm vơi bớt nỗi căng thẳng bằng cách đi đi lại lại. Bây giờ thì anh chẳng làm gì được ngoài việc nhìn chằm chằm tấm bản đồ và bị ám ảnh bởi ý nghĩ rằng cô đang chịu biết bao nguy hiểm.
Một cô thư ký thò đầu qua cửa.
“Cảnh sát trưởng Bell, cảnh sát bang đang ở đường dây số hai.”
Jim Bell bước vào văn phòng ở phía bên kia dãy hành lang nhận điện thoại. Anh ta nói chuyện vài phút rồi lại bước vào la-bô. Anh ta phấn chấn thông báo: “Chúng tôi tóm được bọn họ rồi! Người ta định vị được tín hiệu máy di động của cô ta. Cô ta đang di chuyển về phía tây trên đường 112. Bọn họ vượt qua được rào chắn”.
Rhyme hỏi: “Bằng cách nào?”.
“Có vẻ như bọn họ đã lẻn vào bãi đỗ xe của Davett và đánh cắp một chiếc xe tải loại nhỏ hoặc một chiếc SUV, xuyên rừng một đoạn rồi trở ra quốc lộ. Trời đất, như thế tay lái phải rất cứng.”
Đó là Amelia của tôi, Rhyme tự nhủ. Cô gái ấy có thể lái xe leo tường…
Bell tiếp tục: “Cô ta sẽ vứt chiếc xe đó và sử dụng một chiếc khác”.
“Làm sao các anh biết được?”
“Cô ta gọi tới một công ty cho thuê xe ở Hobeth Falls. Lucy và các cảnh sát khác đang âm thầm bám theo cô ta. Chúng tôi đang trao đổi với nhân viên của Davett xem ai bị mất xe để ở bãi đỗ. Nhưng chúng tôi không cần đến việc mô tả chiếc xe nếu cô ta cứ giữ máy một chút nữa. Vài phút nữa thôi là nhân viên kỹ thuật sẽ định vị được chính xác.” Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Lincoln Rhyme đăm đăm nhìn tấm bản đồ - tuy cho tới lúc này nó đã in sâu vào đầu óc anh. Lát sau, anh thở dài rồi lẩm bẩm: “Chúc may mắm”.
Nhưng lời chúc ấy dành cho kẻ săn mồi hay con mồi thì Rhyme hẳn không nói ra.
16.06.2015
PHẦN 3: CUỘC ĐẤU TAY ĐÔI
CHƯƠNG 26
Dịch giả: Đinh Minh Hương
Nguồn: NXB Văn học
Nội dung thu gọn
Lucy Kerr tăng tốc cho chiếc Crown Victoria lên tám mươi dặm.
Cô chạy nhanh hả, Amelia?
Ờ, tôi cũng vậy.
Họ đang phóng dọc theo đường 112, chiếc đèn trên nóc xe xoay điên cuồng lấp loé ánh sáng màu đỏ, trắng và xanh lơ. Còi hụ không bật, Jesse Corn ngồi bên cạnh Lucy, nói chuyện điện thoại với Pete Gregg ở văn phòng cảnh sát bang đặt tại Elizabeth City. Trong chiếc xe ngay đằng sau họ là Trey Williams và Ned Spoto. Mason Germain và Frank Sturgis – một người tính tình kín đáo, mới lên chức ông – trong chiếc xe thứ ba.
“Bọn họ đang ở chỗ nào?”, Lucy hỏi.
Jesse hỏi văn phòng cảnh sát bang câu này và gật đầu nhận câu trả lời. Anh ta nói: “Chỉ trước năm dặm. Bọn họ đã rẽ khỏi quốc lộ, chạy về phía nam”.
Làm ơn, Lucy nhẩm một lời cầu nguyện khác, làm ơn, hãy giữ máy chỉ một phút nữa thôi.
Cô đạp chân ga gần chạm sàn xe.
Cô chạy nhanh, Amelia. Tôi chạy nhanh.
Cô bắn cừ.
Nhưng tôi cũng bắn cừ. Tôi không khoe mẽ như cô, với tất cả những trò rút súng biểu diễn vớ vẩn, nhưng suốt cuộc đời tôi đã sống cùng súng đạn.
Lucy nhớ lại khi Buddy rời bỏ cô, cô đã thu lấy mọi viên đạn có trong nhà và găm chúng xuống dòng nước đục ngầu của con kênh đào Nước đen. Sợ rằng một đêm nào đó cô có thể thức giấc, liếc nhìn sang nửa giường bên kia trống trải và sẽ cho chiếc nòng loáng dầu của khẩu súng ngắn công vụ vào miệng, tự đưa mình đến cái chốn mà chồng cô, cũng như tự nhiên, xem chừng muốn cô hãy đến.
Trong vòng ba tháng rưỡi, Lucy đi xung quanh vùng với khẩu súng ngắn công vụ không nạp đạn, túm cổ những tay rượu lậu, những tay dân phòng, đám thiếu niên to xác còn thò lò mũi xanh hổn hển hít khí butane đầm lầy. Và cô xử lý tất cả bọn họ chỉ bằng những câu dọa dẫm.
Rồi một buổi sáng cô thức giấc, như thể vừa trải qua cơn sốt, cô đi tới cửa hiệu bán đồ quân dụng Shakey trên phố Cây Thích, mua một hộp đạn Winchester cỡ 357. (“Ái chà, Lucy, cái quận này ở trong tình trạng tồi tệ hơn ta nghĩ, khiến mi phải tự sắm đạn.”) Cô trở về nhà, nạp đạn vào súng và kể từ đó súng của cô không lúc nào không có đạn.
Đó là một sự kiện đầy ý nghĩa đối với cô. Khẩu súng được nạp lại đạn là biểu tượng cho sự sống sót.
Amelia, tôi đã chia sẻ cùng cô những thời khắc ảm đạm nhất trong đời tôi, tôi đã nói với cô về cuộc phẫu thuật – nó là cái lỗ đen trong đời tôi. Tôi đã nói với cô về nỗi ngại ngùng của tôi trước những người đàn ông. Về tình yêu của tôi đối với con trẻ. Tôi đã ủng hộ cô khi Sean O’Sarian lấy mất súng của cô. Tôi đã xin lỗi cô khi cô đúng và tôi sai lầm.
Tôi đã tin tưởng cô. Tôi…
Một bàn tay chạm vào vai Lucy. Cô liếc nhìn sang Jesse Corn. Anh ta đang dành cho cô một trong những nụ cười dịu dàng của anh ta. “Quốc lộ cua ở đoạn trước mặt”, anh ta nói.
Lucy chậm rãi thở ra và ngồi dựa vào lưng ghế, buông xuôi đôi vai. Cô từ từ giảm tốc độ.
Tuy nhiên , khi họ thực hiện cú cua mà Jesse vừa nhắc tới, mặc dù có biển quy định tốc độ là bốn mươi dặm, cô vẫn cho xe chạy sáu mươi lăm dặm.
“Cách một trăm feet về phía trước”, Jesse Corn thì thào.
Họ rời khỏi xe, tập trung xung quanh Mason Germain và Lucy Kerr.
Cảnh sat1 bang cuối cùng đã mất tín hiệu từ máy di động của Amelia, nhưng chỉ sau khi nó ở nguyên chừng năm phút tại địa điểm mà bây giờ họ đang phóng ánh mắt tới: một kho chứa nằm cách một ngôi nhà chừng năm mươi feet, trong rừng – cách đường 112 một dặm. Lucy nhận ra nó nằm về phía tây Tanner’s Corner. Đúng như Lincoln Rhyme dự đoán.
“Mọi người không nghĩ Mary Beth đang ở trong đó chứ hả?”, Frank Sturgis, quệt qua bộ ria mép hoe hoe vàng. “Ý tôi là, nó cách trung tâm thị trấn có bảy dặm. Tôi cảm thấy nếu hắn giữ cô gái ở gần thị trấn như thế thì ngớ ngẩn quá.” Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
“Không, bọn chúng chỉ đang chờ cho chúng ta đi qua”, Masson nói. “Rồi bọn chúng sẽ tiếp tục tới Hobeth Falls và thuê một chiếc xe.”
“Dù sao thì…”, Jesse nói, “cũng có người sống ở đây”. Anh ta đã đề nghị được cung cấp địa chỉ của ngôi nhà. “Pete Hallburton. Ai biết người này không?”
“Tôi nghĩ là biết”, Trey Williams trả lời, “Có vợ. Không có quan hệ gì với Garrett, theo như tôi biết”.
“Họ có con cái gì không?”
Trey nhún vai. “Tôi nghĩ có lẽ là có. Nhớ mang máng một trận bóng đá năm ngoái…”
“Đang mùa hè. Bọn trẻ có thể ở nhà”, Frank lẩm bẩm. “Garrett có thể đã giữ chúng làm con tin bên trong.”
“Có thể”, Lucy nói. “Nhưng phép đạc tam giác đối với tín hiệu điện thoại của Amelia chỉ ra rằng bọn họ đang ở trong kho chứa, không ở trong ngôi nhà. Bọn họ có thể đã vào nhà nhưng tôi không biết… Tôi không cách nào trông thấy bọn họ chỉ đang ẩn nấp đâu đây bên ngoài cho tới lúc bọn họ nghĩ đã an toàn để lên đường tới Hobeth thuê xe.”
“Chúng ta làm gì đây?”, Frank hỏi. “Chặn lối dẫn vào nhà bằng xe của chúng ta à?”
“Chúng ta đỗ ở đây thôi, làm thế kia bọn họ sẽ nghe thấy chúng ta mất”, Jesse nói.
Lucy gật đầu. “Tôi nghĩ chúng ta chỉ nên đi bộ tới chỗ kho chứa – khẩn trương lên - theo hai hướng.”
“Tôi có bình xịt CS”, Mason nói. CS-38 - một loại hơi cay quân sự tác dụng mạnh được cất khoá tại văn phòng cảnh sát trưởng, Bell chưa phân phát cho ai bình nào và Lucy băn khoăn tự hỏi làm sao Mason lại có trong tay được.
“Đừng, đừng”, Jesse phản đối. “Có thể khiến bọn họ hoảng hốt đấy.”
Lucy chắc chắn rằng đó hoàn toàn chẳng phải điều anh ta quan tâm. Cô cuộc là anh ta không muốn xịt thứ khí kinh khủng ấy vào cô bạn gái mới. Tuy nhiên, cô cũng đồng ý, cảm thấy là, vì các cảnh sát không mang mặt nạ, khí ga có thể tác dụng ngược lại họ. “Đừng xịt”, cô nói. “Tôi sẽ vào qua cửa trước. Trey, anh đưa…”
“Không”, Mason giọng bình thản. “Tôi vào qua cửa trước”.
Lucy do dự rồi nói: “Được. Tôi sẽ vào qua cửa ngách. Trey và Frank, các anh vào qua cửa sau và cửa ngách đằng kia”. Cô nhìn Jesse. “Tôi muốn anh và Ned canh chừng cửa trước và cửa sau ngôi nhà. Đằng kia”.
“Rõ”, Jesse đáp.
“Và các cửa sổ”, Mason lạnh lùng bảo Ned. “Tôi không muốn bất cứ kẻ nào từ bên trong nhà nhắm súng xuống lưng chúng ta.”
Lucy nói: “Nếu bọn họ nhào ra xe, hãy chỉ bắn thủng các lốp hoặc nếu các anh có khẩu Magnum như của Frank kia thì hãy bắn vỡ động cơ. Đừng bắn Garrett hay Amelia trừ phi bắt buộc. Tất cả các anh đều biết quy tắc giao tranh”. Cô nhìn Mason khi đề cập điều này, nghĩ tới vụ bắn tỉa của anh ta tại cối xay. Nhưng viên cảnh sát xem chừng chẳng nghe thấy lời cô. Cô gọi vào bộ đàm và thông báo với Jim Bell rằng họ chuẩn bị tập kích kho chứa.
“Tôi đã cho xe cấp cứu sẵn sàng”, anh ta nói.
“Đây đâu phải một cuộc ra quân của lực lượng đặc nhiệm,” Jesse nghe lỏm được câu trao đổi, phát biểu. “Chúng tôi phải cực kỳ thận trọng trong việc nổ súng.”
Lucy tắt bộ đàm. Cô hất đầu chỉ kho chứa. “Di chuyển tới đó.”
Họ lom khom chạy, sử dụng những cây thông và sồi làm vật che chắn. Ánh mắt Lucy dán chặt vào các ô cửa sổ tối mò của kho chứa. Hai lần cô chắc chắn trông thấy cái gì đó chuyển động bên trong. Đó có thể là bóng phản chiếu của mây và của cây cối trong lúc cô chạy, nhưng cô chẳng thể nào chắc chắn được. Khi họ đã đến gần, cô dừng lại và đổi khẩu súng sang tay trái, lau lòng bàn tay. Rồi cô lại đổi khẩu súng sang tay thuận.
Nhóm cảnh sát tập trung lại ở mặt sau không có cửa sổ của kho chứa. Lucy nghĩ cô chưa từng làm việc gì giống như thế này.
Đây đâu phải một cuộc ra quân của lực lượng đặc nhiệm…
Nhưng anh nhầm đấy, Jesse – đấy chính xác là sự việc đang diễn ra.
Lạy Chúa lòng lành, hãy cho con bắn một phát thật trúng đứa phản bội.
Một con chuồn chuồn béo múp đâm bổ vào Lucy. Cô lấy bàn tay trái gạt nó đi. Nó quay lại và lượn gần đó vẻ đe doạ, y như thể Garrett đã cử sinh vật này ra để làm cô sao lãng.
Suy nghĩ dớ dẩn, Lucy tự bảo mình. Rồi cô tức giận đập con côn trùng lần nữa.
Thằng Bọ…
Bay sẽ thua thôi, Lucy tự nhủ thầm – ý nghĩ này ám chỉ cả hai kẻ chạy trốn.
“Tôi sẽ không nói gì cả”, Mason nói. “Tôi cứ vào thôi. Lucy, khi cô nghe thấy tôi đá cánh cửa, cô sẽ vào qua cửa ngách nhé.”
Cô gật đầu. Và mặc dù băn khoăn vì thấy Mason quá háo hức, mặc dù tha thiết muốn tóm được Amelia Sachs, cô vẫn sẵn lòng chia sẻ một phần gánh nặng của cái nhiệm vụ khó khăn này.
“Để tôi kiểm tra cho chắc chắn, xem cửa ngách mở hay đóng”, Lucy thì thầm.
Họ tản ra, về vị trí. Lucy chúi xuống phía dưới một ô cửa sổ và vội vã tới chỗ cửa ngách. Nó không khoá và hé mở. Cô gật đầu lại và giơ mười ngón tay lên, ý là, cô đồ rằng, để đếm lùi mười giây cho tới lúc anh ta bước qua khung cửa, biến mất.
Mười, chín, tám…
Lucy quay về phía cửa, ngửi thấy mùi gỗ mốc meo pha lẫn hương thơm ngọt của xăng và dầu bay ra từ bên trong kho. Cô thận trọng lắng nghe. Cô nghe được tiếng rung ì ì – tiếng động cơ của chiếc xe Amelia đã đánh cắp.
Năm, bốn, ba…
Lucy thở sâu một hơi để trấn tĩnh. Một hơi nữa.
Sẵn sàng, cô tự nhủ.
Rồi một tiếng kêu đánh rầm hát ra từ phía trước kho chứa khi Mason đá cánh cửa nhảy vào bên trong. “Cảnh sát đây!”, anh ta hô to. “Không ai được động đậy!”
Nào! Lucy tự nhủ.
Cô đá cánh của ngách. Nhưng nó chỉ mở ra chừng nửa gang tay rồi dừng sựng lại – đập phải cái máy cắt cỏ lớn đỗ ngay đằng sau. Nó không mở thêm tí nào. Cô dùng vai huých hai lần mà nó chẳng nhúc nhích. “Mẹ kiếp”, Lucy thì thầm và chạy vòng sang phía trước kho chứa.
Cô chưa kịp chạy được nửa đường thì nghe thấy Mason kêu to: “Ôi, lạy Chúa”.
Và rồi Lucy nghe thấy một tiếng súng nổ.
Lát sau, lại một tiếng súng nữa.
“Chuyện gì đang diễn ra vậy?”, Rhyme hỏi.
“Được rồi”, Bell nói ngập ngừng, cầm trong tay chiếc điện thoại. Tư thế của anh ta có cái vẻ khiến Rhyme lo lắng: viên cảnh sát trưởng đứng áp chặt chiếc điện thoại vào tai, bàn tay kia vung ra nắm chặt. Anh ta nghe và gật đầu, rồi nhìn Rhyme. “Đã có súng nổ.” Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
“Súng nổ?”
“Mason và Lucy vào bên trong kho chứa. Jesse nói có hai tiếng súng nổ.” Bell ngẩng nhìn, hét sang căn phòng bên cạnh: “Điều xe cấp cứu tới khu vực nhà Hallburton, đường Badger Hollow, gần đường 112.”
Steve Farr đáp to: “Xe đang đi rồi”.
Rhyme lại đặt đầu vào cái tựa đầu của xe lăn. Liếc nhìn Thom, anh chàng không nói gì cả.
Ai bắn? Ai bị bắn?
Ôi, Sachs…
Bell nói giọng giận dữ: “Này, tìm hiểu xem, Jesse! Có ai làm sao không? Cái quái quỷ gì đang diễn ra vậy?”.
“Amelia có làm sao không?”, Rhyme quát lên.
“Một phút nữa chúng ta sẽ biết”, Bell đáp.
Nhưng có cảm giác như hàng ngày trời.
Cuối cùng Bell lại cứng cả người khi Jesse Corn hay ai đó nói trên điện thoại. Anh ta gật đầu. “Lạy Chúa, anh ta đã làm gì?” Lắng nghe một lúc lâu hơn. Rồi nhìn gương mặt lo lắng của Rhyme. “Không sao cả. Không ai bị thương. Mason đá cánh cửa nhảy vào kho chứa và trông thấy bộ áo liền quần treo trên tường. Anh ta tưởng đấy là Garrett đang cầm súng. Anh ta bắn hai phát. Vậy thôi.”
“Amelia không sao chứ?”
“Bọn họ thậm chí không có đó. Bên trong chỉ có chiếc xe tải mà bọn họ đánh cắp. Garrett và Amelia ắt hẳn ở bên trong ngôi nhà, nhưng bọn họ có lẽ đã nghe thấy tiếng súng nổ và chuồn ra rừng. Bọn họ chưa thể đi quá xa được. Tôi biết cái cơ ngơi ấy – xung quanh toàn là các bãi lầy.”
Rhyme tức tối nói: “Tôi muốn Mason đứng bên ngoài vụ này. Đấy không phải là sự nhầm lẫn – anh ta đã cố ý bắn. Tôi đã bảoanh rằng anh ta quá bốc đồng.”
Bell hiển nhiên đồng ý với Rhyme. Anh ta nói vào điện thoại: “Jesse, đưa máy cho Mason…”. Anh ta im lặng một lát. “Mason, toàn bộ chuyện này là cái quái quỷ gì vậy?... Tại sao anh cứ nổ súng?... Ờ, nếu là Pete Hallburton đang đứng đó thì sao? Hoặc là vợ anh ta hoặc một đứa trong số lũ trẻ?... Tôi không quan tâm. Anh hãy quay lại đây ngay bây giờ. Đấy là mệnh lệnh… Chà, để họ khám xét ngôi nhà. Hãy vào xe của anh và quay lại… Tôi không nói với anh lần nữa đâu. Tôi…”
“Mẹ kiếp”, Bell cúp máy. Một lát sau, chuông điện thoại lại vang lên. “Lucy, chuyện gì vậy?...” Viên cảnh sát trưởng lắng nghe, cau mày, mắt cắm xuống sàn. Anh ta đi tới đi lui. “Ôi, lạy Chúa… Cô chắc chắn không?” Anh ta gật đầu rồi bảo: “Được, ở đó nhé. Tôi sẽ gọi lại cho cô”. Anh ta cúp máy.
“Đã xảy ra chuyện gì vậy?”
Bell lắc đầu. “Tôi không tin. Chúng tôi đã bị bịp. Cô ta đã gạt chúng tôi một cách quá thể, cô bạn anh ấy.”
“Cái gì?”
Bell nói: Pete Hallburton ở đó. Anh ta có nhà – có mặt tại ngôi nhà của anh ta. Lucy và Jesse vừa nói chuyện với anh ta. Vợ anh ta làm ca từ ba giờ chiều tới mười một giờ đêm trong công ty Davett và cô ta để quên suất ăn tối ở nhà, thế nên cách đây nửa tiếng đồng hồ anh ta đã mang suất ăn đến cho vợ rồi lái xe trở về”.
“Anh ta lái xe trở về? Amelia và Garrett nấp trong cốp xe à?”
Bell thở dài chán chường. “Anh ta đi chiếc xe tải cỡ nhỏ. Không có chỗ nào mà nấp cả. Dù sao thì cũng không có chỗ nào cho bọn họ. Nhưng có vô khối chỗ cho điện thoại di động của cô ta. Đằng sau cái thùng làm lạnh được đặt ở đuôi xe ấy.”
Rhyme lúc này cũng phải bật tiếng cười hoài nghi. “Cô ấy đã gọi tới công ty cho thuê xe, vẫn để kết nối và giấu điện thoại trên chiếc xe tải.”
“Anh suy luận đúng đấy”, Bell lầm bầm.
Thom nói: “Anh nhớ lại đi, sáng nay cô ấy đã gọi tới cái chỗ cho thuê xe ấy. Cô ấy điên tiết vì phải chớ máy lâu quá.”
“Cô ta biết là chúng tôi sẽ sử dụng thiết bị định vị đối với chiếc điện thoại. Bọn họ đã chờ cho Lucy và các xe tuần tra rời khỏi Kênh Đào, rồi tiếp tục cái hành trình chết tiệt đầy hoan hỉ của bọn họ.” Bell nhìn tấm bản đồ. “Bọn họ khiến chúng tôi tiêu tốn bốn mươi lăm phút. Bây giờ thì bọn họ đã có thể tới bất cứ chỗ nào rồi.”
16.06.2015
PHẦN 3: CUỘC ĐẤU TAY ĐÔI
CHƯƠNG 27
Dịch giả: Đinh Minh Hương
Nguồn: NXB Văn học
Nội dung thu gọn
Sau khi các anh cảnh sát rời khỏi khu vực rào chắn và mất hút về phía tây xuôi theo đường 112, Garrett và Sachs chạy đến cuối đường Kênh Đào, băng ngang qua quốc lộ. Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Họ đi men xung quanh hai hiện trường vụ án ở Bến tàu kênh Nước đen, sau đó rẽ trái, vội vã đi xuyên các bụi rậm và một cánh rừng sồi, bám theo sông Paquenoke.
Đi sâu vào rừng nửa dặm, họ gặp phụ lưu sông Paquo. Không thể đi vòng qua được, mà Sachs thì không thích thú gì việc bơi dưới dòng nước tối thẫm, điểm những con côn trùng và rác rến.
Nhưng Garrett đã có sự thu xếp khác. Gã giơ đôi bàn tay bị còng chỉ một chỗ trên bờ. “Con thuyền.”
“Thuyền à? Đâu?”
“Kia, kia.” Garrett lại chỉ.
Sachs nheo mắt nhìn, cố gắng lắm mới thấy hình dáng một con thuyền nhỏ. Nó được ngụy trang bằng các bụi rậm và lá cây. Gã bước tới, xoay sở hết mức với đôi bàn tay bị còng, bắt đầu gỡ các thứ che giấu con thuyền ra. Sachs giúp đỡ gã.
“Lớp ngụy trang”, Garrett tự hào nói. “Tôi học từ lũ sâu bọ. Có một giống châu chấu nhỏ ở Pháp – gọi là truxalis. Giống này cực kỳ hay – mỗi mùa hè chúng thay đổi màu ba lần cho phù hợp với các màu xanh của cỏ. Bọn săn mồi hầu như không trông thấy chúng được.”
Chà, Sachs cũng sử dụng đến thứ kiến thức bí truyền về côn trùng của gã trai. Khi Garrett nhận xét về những con bướm đêm – về khả năng cảm nhận các tín hiệu điện tử và radio của chúng – cô nhận ra rằng Rhyme tất nhiên đã sử dụng thiết bị định vị đối với chiếc điện thoại di động của cô. Cô nhớ lại lúc sáng gọi tới công ty cho thuê xe Piedmont – Carolia cô phải chờ máy rất lâu. Thế nên cô liền lẻn vào bãi đỗ xe của Công ty Davett, gọi tới cái công ty cho thuê xe kia và luồn chiếc điện thoại, đang đổ đoạn nhạc lê thê của Muzak, vào phía sau chiếc xe tải cỡ nhỏ không người lái, vẫn để nổ máy, đỗ đằng trước lối vào dành cho nhân viên.
Mánh khoé đó rõ ràng đã có tác dụng. Tốp cảnh sát xuất phát đuổi theo chiếc xe tải khi nó rời khỏi khu vực nhà máy.
Trong lúc gỡ lớp ngụy trang, Sachs hỏi: “Chất amomnia? Và cái hố bỏ tổ ong bắp cày? Cậu cũng học từ lũ côn trùng hả?”.
“Vâng”, Garrett nói.
“Cậu không định làm hại ai cả, phải không?”
“Không, không, cái hố bắt chước loài kiến sư tử chỉ để doạ các người thôi, để các người đi chậm lại. Vì thế tôi đã bỏ một chiếc tổ không vào. Chai ammonia là để cảnh báo sớm đối với chúng.” Cặp mắt đỏ quạch, ướt nhoèn của Garrett lấp lánh ánh ngưỡng mộ lạ lùng. “Thật thú vị, việc cô đã làm ấy, tìm thấy tôi tại cối xay. Tôi, nói chung, không bao giờ nghĩ cô lại đến đó nhanh vậy.”
“Và cậu bố trí những chứng cứ giả trong cối xay – tấm bản đồ và chỗ cát – để chúng tôi bị lạc hướng.”
“Vâng, tôi đã bảo cô – côn trùng khôn khéo lắm. Chúng bắt buộc phải khôn khéo.”
Họ gỡ xong lớp ngụy trang của con thuyền trông xạc xài. Nó được sơn màu xám sẫm, dài chừng mười feet và có một động cơ nhỏ gắn bên ngoài thân. Trong lòng thuyền là chục chai nhựa dung tích một ga lông đựng nước suối và một hộp giữ lạnh. Sachs mở một chai nước, uống luôn mươi ngụm đầy. Cô đưa cái chai cho Garrett và gã cũng uống. Rồi gã mở hộp giữ lạnh. Bên trong là các gói bích quy và khoai tây chiên. Gã xem xét chúng kỹ lưỡng để chắc chắn rằng chúng vẫn còn đầy đủ và không bị hư hỏng. Gã gật đầu, rồi trèo vào trong thuyền.
Sachs trèo vào theo, ngồi quay lưng về phía mũi thuyền, đối diện Garrett. Gã nhoẻn nụ cười hiểu biết, y như thể nhận ra là cô chưa đủ tin tưởng để ngồi quay lưng lại với gã. Gã giật sợi dây khởi động máy. Máy thuyền khục khặc chạy. Gả đẩy con thuyền rời khỏi bờ và, giống như những cậu Huck Finn<35> hiện đại, họ bắt đầu xuôi theo sông.
Sachs ngẫm nghĩ: Đây là cuộc đấu tay đôi.
Một câu mà cha cô trước đây hay dùng. Người đàn ông gọn ghẽ, tóc bắt đầu thưa, phần lớn đời mình làm một cảnh sát tuần tra khu vực ở Brooklyn và Mahattan, từng có buổi trò chuyện nghiêm túc với cô con gái khi cô bảo ông là cô muốn bỏ nghề người mẫu để tham gia vào lực lượng cảnh sát. Ông hết sức ủng hộ quyết định đó nhưng đã nói về nghề cảnh sát như thế này: “Amie, con phải hiểu rằng: đôi khi con cần xông lên, đôi khi con cần tạo ra ảnh hưởng, đôi khi con sẽ có cảm giác tẻ nhạt. Và đôi khi, không quá thường xuyên đâu, ơn Chúa, nó là cuộc đấu tay đôi. Nắm đấm đọ nắm đấm. Con hoàn toàn đơn độc, chẳng có ai giúp đỡ con. Và ý cha là không chỉ chiến đấu với các đối tượng. Đôi khi con sẽ phải chiến đấu với các sếp của con. Đôi khi lại với sếp của họ. Con có thể chiến đấu với cả bạn bè nữa. Con định trở thành một cảnh sát, con hãy sẵn sàng đơn thương độc mã. Không được né tránh.”
“Con có thể đương đầu mà cha”.
“Đúng là con gái tôi. Cha con mình lái xe đi đâu nhé, con gái.”
Ngồi trên thuyền ọp ẹp này, được điều khiển bởi một thằng bé mới lớn nguy hiểm, Sachs chưa bao giờ cảm thấy cô đơn đến thế trong cuộc đời.
Cuộc đấu tay đôi… nắm đấm đọ nắm đấm.
“Nhìn đằng kia”, Garrett nói nhanh. Gã chỉ một con côn trùng gì đó. “Nó là loài tôi ưa thích nhất đấy. Bọ gạo. Nó bay trong nước.” Khuôn mặt gã sáng lên ánh nhiệt tình không kiềm chế được. “Nó thực sự bay trong nước! Này, khá thú vị, phải không? Bay trong nước ấy. Tôi thích nước. Nước làm da tôi thấy dễ chịu.” Nụ cười tắt dần và gã chà xát cánh tay. “Cái giống sồi độc chết tiệt này… Tôi lúc nào cũng bị nó quệt vào. Đôi lúc ngứa kinh khủng.”
Họ bắt đầu luồn lách qua các vịnh nhỏ, vòng xung quanh các hòn đảo, các chùm rễ cây, các thân cây xám xịt ngập phân nửa, rồi luôn luôn quay lại với hành trình về phía tây, về phía mặt trời đang lặn.
Một ý nghĩ xuất hiện trong đầu óc Sachs, tiếng vọng của một ý nghĩ đã xuất hiện trong cô từ lúc trước, trong phòng giam gã trai ngay trước khi cô giải cứu gã: với việc giấu một chiếc thuyền chất đầy thực phẩm dự trữ, nạp nhiên liệu sẵn sàng, Garrett đã dự tính rằng bằng cách này hay cách khác gã sẽ vượt ngục. Và vai trò của cô trong chuyến đi này là một phần của kế hoạch tinh vi đã dự tính đó.
“Dù em nghĩ về Garrett như thế nào, cũng đừng tin tưởng hắn. Em nghĩ hắn vô tội. Nhưng cũng hãy chấp nhận là hắn có thể có tội. Em biết chúng ta vẫn tiếp cận các hiện trường vụ án như thế nào, Sachs.”
“Với một tư duy mở. Không định kiến. Tin tưởng rằng mọi cái đều có thể.”
Nhưng rồi Sachs lại nhìn gã trai. Cặp mắt gã sáng rỡ, hạnh phút lướt qua hết cảnh vật này tới cảnh vật khác trong lúc điều khiển thuyền đi xuyên các con kênh, trông không giống chút nào một kẻ phạm tội vượt ngục mà y như thể một thiếu niên phấn chấn tham gia chuyến cắm trại, sung sướng và hào hứng trước những gì mình sẽ có thể khám phá sau mỗi khúc quanh của sông.
“Chị ta giỏi đấy, Lincoln”, Ben nói, ám chỉ mánh khoé sử dụng chiếc điện thoại di động.
Cô ấy đúng là giỏi, lincoln nghĩ thầm. Rồi anh tự nói thêm với bản thân mình: cô ấy giỏi chẳng kém tôi. Tuy nhiên anh phải nghiêm khắc thừa nhận - cũng riêng với bản thân mình thôi - rằng lần này thì cô đã giỏi hơn anh.
Rhyme điên tiết với chính mình vì đã không dự tính trước điều ấy. Đây đâu phải một cuộc chơi, anh tự nhủ, đâu phải một bài tập - như cái cách anh đôi lúc vẫn thử thách Sachs khi cô đang tiến hành khám nghiệm hiện trường hay khi họ đang phân tích các chứng cứ trong la-bô của anh ở New York. Tính mạng cô đang gặp nguy hiểm. Thời gian trước khi Garrett cưỡng hiếp hoặc sát hại cô chỉ còn tính bằng tiếng đồng hồ. Anh không thể lại phạm sai lầm lần nữa.
Một cảnh sát xuất hiện trên ngưỡng cửa, xách chiếc túi giấy đựng hàng của chuỗi cửa hiệu Food Lion. Nó đựng quần áo của Garrett để ở khu tạm giam.
“Tốt”, Rhyme nói. “Lập bảng đi, một người nào đấy. Thom, Ben… lập bảng đi. “Tìm thấy tại hiện trường gián tiếp – cối xay.” Ben viết đi, viết đi!”
“Nhưng chúng ta lập rồi mà.” Ben chỉ tấm bảng.
“Không, không, không”, Rhyme quát. “Xoá hết đi. Các chứng cứ đó là giả. Garrett đã bố trí để đánh lạc hướng chúng ta. Giống hệt chỗ đá vôi trong chiếc giày hắn bỏ lại khi bắt cóc Lydia. Nếu chúng ta có thể tìm thấy chứng cứ trong quần áo của hắn - anh hất đầu chỉ cái túi – chúng ta sẽ biết Mary Beth thực sự đang ở đâu”.
“Nếu chúng ta may mắn”, Bell nói.
Không phải may mắn, Rhyme nghĩ thầm, mà là nếu chúng ta giỏi. Anh bảo Ben: “Cắt một đoạn của chiếc quần – đoạn gần gấu – và chạy qua máy tách hợp chất”.
Bell bước ra khỏi văn phòng, để nói với Steve Farr về việc xin tần số ưu tiên cho các máy bộ đàm mà không phải tiết lộ với cảnh sát bang những gì đang diễn ra, Rhyme đã khăng khăng đề nghị điều này.
Bây giờ thì nhà hình sự học và Ben cùng chờ đợi kết quả từ máy tách hợp chất. Trong lúc chờ đợi, Rhyme hỏi: “Chúng ta có gì nữa?”. Anh hất đầu chỉ đống quần áo.
“Các vết sơn màu nâu dây trên quần của Garrett.” Ben vừa xem xét vừa báo cáo. “Màu nâu sẫm. Trông còn mới.”
“Màu mâu”, Rhyme nhắc lại và kiểm tra chúng. “Nhà của cha mẹ Garrett sơn màu gì?”
“Tôi không biết”, Ben đáp.
“Tôi đâu có nghĩ cậu là cái kho chứa thông tin vớ vẩn của Tanner’s Corner”, Rhyme lẩm bẩm. “Tôi muốn nói: Hãy gọi điện hỏi họ.” Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
“Ồ”. Ben tìm thấy số máy trong hồ sơ vụ án. Anh ta nói chuyện với người nào đó một lát. “Đấy là cái đồ con hoang chẳng muốn hợp tác gì hết… Cha nuôi của Garrett. Dù sao thì nhà họ cũng sơn màu trắng và không có chi tiết nào sơn màu nâu sẫm.”
“Vậy, có thể nơi đang giam giữ cô gái sơn màu này.”
Anh chàng to béo hỏi: “Liệu có cơ sở dữ liệu nào về sơn mà chúng ta có thể đối chiếu không?”.
“Ý kiến hay đấy”, Rhyme đáp. “Nhưng câu trả lời là không. Ở New York thì tôi có, tuy nhiên nó chẳng giúp gì cho chúng ta ở đây. Còn cơ sở dữ liệu của FBI lại về xe hơi. Nhưng hãy cứ tiếp tục. Có gì trong túi quần, có gì không? Đi…”
Nhưng Ben đã đang đi găng tay cao su vào rồi. “Ông định bảo việc này phải không?”
“Phải”, Rhyme lẩm bẩm.
Thom nói: “Anh ấy vốn vẫn ghét bị đoán trước ý”.
“Thế thì tôi sẽ cố gắng đoán trước ý thường xuyên hơn”, Ben nói. “A, có cái gì này.”
“Cái gì?”
Ben hít hít. “Phó mát và bánh mì.”
“Lại thức ăn. Giống như chỗ bích quy và…”
Ben cười to.
Rhyme cau mày. “Cái gì mà buồn cười?”
“Đó là thức ăn - nhưng không phải cho Garrett.”
“Ý cậu là thế nào?”
“Chưa, tôi chưa đi câu bao giờ”, Rhyme lẩm bẩm. “Nếu muốn có cá, người ta mua, người ta nấu, người ta ăn. Câu cá thì có liên quan quái gì đến bánh sandwich nhân phó mát hả?”
Đây không phải từ bánh sandwich”, Ben giải thích. “Đây là những viên chua. Mồi để đi câu. Người ta trộn bánh mì và phó mát rồi cho chúng lên men. Bọn cá ăn sát đáy rất mê món này. Bọn cá da trơn chẳng hạn. Mùi càng chua càng tốt.”
Rhyme nhướn lông mày. “À, bây giờ thì chi tiết ấy hữu ích đấy.”
Ben kiểm tra phần gấu lơ-vê. Anh ta phủi một chút gì đó xuống tờ phiếu đặt mua dài hạn tạp chí People, rồi soi dưới kính hiển vi. “Không có gì đặc biệt lắm”, anh ta nói. “Ngoại trừ những đốm nhỏ. Màu trắng.”
“Để tôi xem.”
Nhà động vật học bê chiếc kính hiển vi lớn hiệu Bausch & Lomb đến cho Rhyme. Anh nhìn vào các thị kính. “Được rồi, tốt. Chúng là các sợi giấy.”
“Thế à?”, Ben hỏi.
“Đấy hiển nhiên là giấy. Còn có thể là gì nữa chứ? Cũng là loại hút nước. Tuy nhiên, chẳng có manh mối nào cho thấy nguồn gốc. Bây giờ thì chỗ đất cát đó rất đáng quan tâm. Cậu lấy thêm một ít được không? Từ phần gấu lơ-vê ấy?”
“Tơi sẽ cố gắng.”
Ben cắt đường khâu và mở gấu ra. Anh ta phủi thêm được một ít đất cát xuống tờ phiếu.
“Soi đi”, Rhyme yêu cầu.
Nhà hình sự học chuẩn bị một phiến kính và đặt nó lên bệ chiếc kính hiển vi kép mà anh ta lại bê rất chắc hắn cho Rhyme nhìn. “Có nhiều đất sét. Tôi muốn nói là nhiều. Đá feldspathic, có lẽ là granite. Và… cái gì thế kia? Ồ, rêu nước.”
Ben cảm thấy rất ấn tượng. “Làm sao ông biết được tất cả những cái này?”
“Đơn giản là tôi biết.” Rhyme không có thời gian để đi vào bàn luận việc một nhà hình sự học phải thông thạo về thế giới vật chất như anh thông thạo ra sao. Anh hỏi: “Trong gấu quần còn gì nữa? Cái gì kia?”. Anh hất đầu chỉ cái gì đó nằm trên tờ phiếu đặt mua tạp chí. “Cái gì bé tí màu xanh trăng trắng đấy?”
“Nó từ một loài thực vật”, Ben nói. “Nhưng không phải chuyên môn của tôi. Tôi đã học về thực vật dưới nước, nhưng tôi chẳng yêu thích môn này. Tôi yêu thích những dạng sống có cơ hội chuồn đi khi người ta định sưu tầm chúng. Như thể xem chừng thượng võ hơn.”
Rhyme ra lệnh: “Mô tả đi”.
Ben quan sát kỹ lưỡng bằng chiếc kính lúp. “Một cái cuống hơi đỏ có một giọt chất lỏng ở đầu dưới. Trông nhơn nhớt. Đầu trên có một bông hoa trắng hình chuông… Nếu tôi phải phỏng đoán thì…”
“Cậu phải làm việc đó”, Rhyme quát. “Và khẩn trương lên.”
“Tôi khá chắc chắn rằng nó là một nhánh gọng vó.”
“Là cái quái quỷ gì vậy? Nghe cứ như đi bắt tôm bắt cá ấy.”
Ben nói: “Gọng vó cũng giống cây bắt ruồi. Loài này ăn thịt côn trùng. Chúng rất tuyệt. Thuở nhỏ, tôi từng ngồi quan sát chúng hàng tiếng đồng hồ. Cái cách chúng bắt…”
“Rất tuyệt”, Rhyme châm biếm nhắc lại. “Tôi không quan tâm đến thói quen dùng bữa của chúng. Chúng hay được tìm thấy ở đâu? Điều đó sẽ rất tuyệt đối với tôi đấy.”
“Ồ, khắp vùng này.”
Rhyme cau có. “Vô tích sự. Mẹ kiếp. Được rồi, sau khi chạy xong mẫu vải quần hãy chạy chỗ đất cát kia qua máy tách hợp chất.” Rồi anh nhìn chiếc áo phông của Garrett đang trải rộng trên một cái bàn. “Những vết bẩn kia là gì?”
Có vài vết đo đỏ bám ở chiếc áo. Ben xem xét chúng kỹ lưỡng rồi nhún vai, lắc đầu.
Đôi môi mỏng của nhà hình sự học nở nụ cười giễu cợt. “Cậu thử nếm xem?”
Không do dự, Ben cầm áo lên, liếm lấy một chút vết bẩn.
Rhyme kêu to: “Cậu chàng khá”.
Ben nhướn một bên lông mày. “Tôi cho rằng đó là một bước đúng chuẩn.”
“Chẳng đời nào tôi thèm làm như vậy đâu”, Rhyme đáp lời.
“Tôi không tin ông lấy một phút”, Ben nói. Anh ta liếm lại. “Theo tôi phỏng đoán thì nước trái cây. Tuy nhiên không nói được là vị gì.”
“Rồi, bổ sung vào danh sách chứng cứ đi, Thom.” Rhyme hất đầu chỉ chiếc máy tách hợp chất. “Chúng ta hãy xem kết quả phân tích mảnh vải quần, tiếp theo chạy chỗ đất cát lấy từ phần gấu.”
Chiếc máy nhanh chóng cho họ biết các chất bám trên quần áo của Garrett là gì và những thứ có trong gấu quần gã: đường, lại camhene, chất cồn, dầu hoả, men nở. Lượng dầu hoả rất đáng kể. Thom bổ sung chúng vào danh sách chứng cứ và mấy người đàn ông cũng xem xét kỹ lưỡng.
TÌM THẤY TẠI HIỆN TRƯỜNG GIÁN TIẾP – CỐI XAY
Sơn nâu dây trên quần
Cây gọng vó
Đất sét
Rêu nước
Nước trái cây
Sợi giấy
Viên chua làm mồi câu
Camphene
Chất cồn
Dầu hoả
Men nở
Tất cả những cái này có ý nghĩa như thế nào? Rhyme băn khoăn tự hỏi. Quá nhiều manh mối. Anh không thể nhận ra các mối quan hệ giữa chúng. Liệu đường là từ nước trái cây hay từ một địa điểm riêng biệt mà gã trai từng đến? Liệu gã đã mua dầu hoả hay gã chỉ tình cờ trốn trong một trạm xăng hay trong một kho chứa nơi người chủ cất dầu hoả? Chất cồn thì được tìm thấy trong ba nghìn sản phẩm gia dụng và công nghiệp phổ biến - từ các loại dung môi tới nước thơm xoa mặt sau khi cạo râu. Men nở chắc chắn bị dây vào tại cối xay, đó là nơi ngũ cốc được xay thành bột.
Sau vài phút, ánh mắt Lincoln Rhyme lướt sang bảng chứng cứ khác.
* * *
TÌM THẤY TẠI HIỆN TRƯỜNG GIÁN TIẾP - PHÒNG RIÊNG CỦA GARRETT
Xạ chồn hôi
Lá thông bị cắt rời khỏi cành
Các bức vẽ côn trùng
Ảnh chụp gia đình
Ảnh chụp mary Beth
Các sách về côn trùng
Dây câu
Tiền
Chìa khoá chưa xác định
Dầu hoả
Ammonia
Nitrate
Camphene
Một chi tiết nào đấy Sachs đã đề cập tới khi cô đang khám xét phòng riêng của gã trai quay lại với Rhyme.
“Ben, cậu có thể mở cuốn vở kia được không, cuốn vở của Garrett ấy? Tôi muốn xem nó lần nữa.”
“Ông có muốn tôi đặt vào thiết bị lật trang không?”
“Không, cứ lật bằng tay thôi”, Rhyme bảo.
Các bức vẽ côn trùng cứng nhắc của gã trai được lật nhanh qua: bọ gạo, nhện nước, gọng vó.
Rhyme nhớ Sachs đã bảo anh rằng, ngoại trừ chiếc lọ đựng ong bắp cày – cái két an toàn của Garrett – tất cả các loài côn trùng trong bộ sưu tập của gã đều được nuôi trong những chiếc lọ đựng nước. “Tất cả bọn chúng đều là các loài thuỷ sinh.”
Ben gật đầu. “Có vẻ thế”.
“Hắn bị nước thu hút”, Rhyme trầm ngăm. Anh nhìn Ben. “Và loại đầu mối câu đó? Cậu nói nó dùng để câu bọn cá ăn sát đáy à?”
“Viên chua ạ? Phải rồi.”
“Nước mặn hay nước ngọt?”
“Chà, nước ngọt. Tất nhiên rồi.”
“Và dầu hỏa – thuyền cũng chạy bằng dầu hoả, đúng không nhỉ?”
“Nhiên liệu đốt đèn”, Ben trả lời. “Loại thuyền nhỏ gắn động cơ bên ngoài thân vốn vẫn sử dụng nó.”
Rhyme nói: “Nếu suy nghĩ tới điều này thì thế nào nhỉ? Phải chăng hắn đang đi về phía tây bằng thuyền trên sông Paquenoke?”.
Ben nói: “Có lý đấy, ông Lincoln. Và tôi cuộc rằng lượng dầu hoả nhiều vậy vì hắn đã nạp lại nhiên liệu nhiều lần – phải chạy qua chạy lại giữa Tanner’s Corner và nơi hắn giữ Mary beth. Chuẩn bị sẵn sàng các thứ cho cô ấy”.
“Tư duy tốt đấy. Gọi Jim Bell vào đây, được không?”
Vài phút sau, Bell quay lại và Rhyme trình bày giả thuyết cảu anh.
Bell nói: “Những con bọ dưới nước đem đến cho anh cái ý tưởng ấy đấy hả?”.
Rhyme gật đầu. “Nếu chúng ta biết về côn trùng, chúng ta sẽ biết về Garrett.”
“Nó chẳng điên rồ hơn những điều khác tôi đã nghe ngày hôm nay”, Jim Bell nói.
Rhyme hỏi: “Các anh có thuyền cảnh sát không?”
“Không. Nhưng dù sao thì nó cũng không hữu ích gì cho chúng ta đâu. Anh không biết sông Paquo. Trên bản đồ nó trông giống như bất cứ con sông nào – cũng có hai bờ, cũng có cái nọ cái kia, đủ cả. tuy nhiên nó còn có đến nghìn cái vịnh nhỏ và sông nhánh nối các đầm lầy. Nếu Garrett đi theo sông Paquo hắn sẽ không đi theo dòng chảy chính, tôi đảm bảo với anh điều này. Sẽ chẳng tài nào tìm thấy hắn được.”
Ánh mắt Rhyme đưa theo sông Paquenoke về phía tây. “Nếu hắn đã vận chuyển các đồ dự trữ tới địa điểm giữ Mary Beth thì nghĩa là chỗ đó có lẽ không quá xa con sông. Hắn sẽ phải đi về phía tây bao xa để tới khu vực ở được?”
“Phải xa đấy. Thấy khu vực trên kia không?” Bell đặt tay vào khu vực xung quanh ô G-7. “Đó là phía bắc sông Paquo, không ai sinh sống ở đó cả. Phía nam con sông thì khá đông dân cư. Hắn chắc chắn sẽ bị phát hiện.”
“Vậy ít nhất phải chừng mười dặm về phía tây?”
“Anh đúng đấy”, Bell nói.
“Cái cầu kia?” Rhyme hất đầu chỉ tấm bản đồ. Anh đang nhìn ô E-8.
“Cầu Hobeth ấy à?”
“Dốc lên cầu như thế nào? Chính là một đoạn quốc lộ?”
“Xung quanh toàn bãi rác. Nhưng cầu cao chừng bốn mươi feet nên dốc lên cầu dài. Ồ, hẵng khoan… Anh đang cho rằng Garrett sẽ phải quay lại dòng chảy chính để đi qua phía dưới cầu?”
“Đúng. Vì các kỹ sư hẳn đã lấp những nhánh sông nhỏ toả ra hai bên khi họ xây dựng dốc lên cầu.”
Bell gật đầu. “Ờ. Tôi hiểu rồi.”
“Cử Lucy và những người khác tới đó bây giờ đi. Tới chỗ cái cầu. Và, Ben này, hãy gọi cho nhân vật kia – Henry Davett. Bảo rằng chúng ta lấy làm tiếc lại cần đến sự giúp đỡ của ông ta”.
Chúa sẽ làm gì…
Một lần nữa nghĩ tới Davett, Rhyme thầm nhẩm một lời cầu nguyện – tuy nó không nhắm đến bất cứ vị thần nào. Nó nhắm đến Amelia Sachs: Ôi, Sachs, hãy cẩn thận. Chỉ còn là vấn đề thời gian, sớm muộn gì Garrett cũng sẽ có cớ xin em tháo còng cho hắn. Rồi dẫn em tới nơi nào đó hoang vắng. Rồi tìm cách cướp súng của em… Đừng để những tiếng đồng hồ đang trôi qua ru em vào sự tin tưởng hắn, Sachs ạ. Đừng mất cảnh giác. Hắn có độ kiên nhẫn của loài bọ ngựa đấy.
Chú Thích:
<35> Nhân vật chính trong tiểu thuyết Những cuộc phiêu lưu của Huckleberry Finn của Mark Twain.
16.06.2015
PHẦN 3: CUỘC ĐẤU TAY ĐÔI
CHƯƠNG 28
Dịch giả: Đinh Minh Hương
Nguồn: NXB Văn học
Nội dung thu gọn
Garrett thông thạo các luồng nước ở đây y như một tay hoa tiêu đường sông lão luyện, gã lái cho con thuyền đi vào những chỗ có vẻ là những nhánh sông cụt nhưng rốt cuộc luôn luôn tìm thấy những lạch nước, mảnh tựa tơ nhện, dẫn họ vững vàng tiến về phía tây xuyên qua cái mê cung này. Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Gã lưu ý Sachs những con rái cá sông, những con chuột xạ và hải ly – những cảnh tượng hẳn khiến các nhà tự nhiên học nghiệp dư phấn khích, nhưng không gây ấn tượng gì đối với cô. Đối với cô, đời sống hoang dã là những con chuột cống, những con bồ câu và sóc sống trong thành phố - và cũng chỉ ở khía cạnh là chúng hữu ích cho công việc giám định của cô và Rhyme.
“Nhìn kìa!”, Garrett kêu to.
“Cái gì?”
Gã chỉ một cái gì đó mà Sachs không trông thấy được. Gã nhìn chằm chằm vào một điểm gần bờ, lẫn giữa biết bao nhiêu vở kịch hết sức ngắn ngủi đang diễn ra dưới nước. Tất cả những gì Sachs có thể trông thấy là một con bọ gì đó nhảy trên mặt sông.
“Gọng vó”, Garrett bảo Sachs rồi ngồi ngả người lại khi họ bơi lướt qua. Bộ mặt gã trở nên nghiêm trang. “Côn trùng, nói chung, quan trọng hơn chúng ta nhiều. Ý tôi là đối với việc giữ cho hành tinh này tiếp tục tồn tại. hãy tưởng tượng – tôi đã đọc được điều này ở đâu đó – rằng nếu ngày mai tất cả mọi người trên trái đất biến mất, thế giới vẫn tiếp tục tồn tại bình thường. Nhưng nếu côn trùng biến mất thì đời sống sẽ kết thúc nhanh chóng – nói chung, trong vòng một thế hệ. Cây cối sẽ chết hết, rồi tới các con vật, và trái đất sẽ một lần nữa biến thành khối đá tảng khổng lồ.” Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Mặc dù chất giọng còn của tuổi mới lớn, Garrett nói với vẻ uy quyền của một vị giáo sư và sự nhiệt tình của một người điều hành các cuộc họp tôn giáo làm thức tỉnh lại đức tin. Gã tiếp tục: “Phải, một số loài côn trùng gây hại. nhưng chỉ một số thôi, một hay hai phần trăm gì đó”. Bộ mặt gã trở nên sinh động và gã tự hào nói: “Và những loài phá hoại mùa màng, chà, tôi có cái ý tưởng này. Nó khá thú vị đấy. Tôi muốn nuôi loài rệp mắt vàng đặc biệt ấy, để kiềm chế các loại gây hại, thay thế cho các hoá chất độc - như vậy các loài côn trùng hữu ích và các loài động vật khác không bị tiêu diệt. Rệp mắt vàng là lựa chọn tốt nhất. Chưa ai từng làm việc này.”
“Cậu nghĩ là cậu có thể làm à, Garrett?”
“Tôi chưa biết chính xác phải làm thế nào. Nhưng tôi sẽ học cách.”
Sachs nhớ lại một chi tiết cô đã đọc được trong cuốn sách của Garrett, thuật ngữ do E. O. Wilson đưa ra, biofilia – cái tình cảm gắn bó mà con người cảm thấy đối với các loài sinh vật khác trên trái đất. Và trong lúc lắng nghe gã nói những chuyện vặt vãnh này - tất cả đều là bằng chứng cho niềm say mê trước thiên nhiên và sự hiểu biết – cô có một ý nghĩ lấn át mọi ý nghĩ khác: bất cứ ai có thể bị các loài sinh vật cuốn hút và có thể yêu thương chúng, theo cái cách kỳ quặc như gã, thì không thể là một kẻ cưỡng dâm và sát nhân được.
Amelia Sachs bám chặt lấy ý nghĩ này và nó giúp cô không lung lay tinh thần trong lúc họ điều khiển con thuyền đi theo sông Paquenoke, chạy trốn khỏi Lucy Kerr và gã đàn ông bí ẩn mặc quần yếm màu nâu vàng, chạy trốn khỏi thị trấn Tanner’s Corner bình dị đang đầy nỗi lo sợ.
Chạy trốn khỏi Lincoln Rhyme nữa. Chạy trốn khỏi cuộc phẫu thuật sắp tới và những hệ quả kinh khủng nó có thể đem đến cho cả hai người.
Con thuyền hẹp êm ả lướt qua các phụ lưu, dòng nước chẳng còn màu đen thẫm mà bây giờ là màu vàng kim, như một kiểu đổi màu ngụy trang - phản chiếu ánh tà dương – y hệt cái giống châu chấu Pháp Garrett đã kể cho Sachs nghe. Cuối cùng, gã trai lái thuyền ra khỏi các sông nhánh và vào sông chính, men sát bờ, Sachs ngoái nhìn đằng sau, về phía đông, xem có thuyền cảnh sát nào truy đuổi không. Cô chẳng nhìn thấy gì ngoại trừ chiếc xà lan to tướng của Công ty Davett đang ngược dòng - chạy trái đi hướng vào một cái vịnh nhỏ. Qua cành lá một cây liễu buông loà xoà trên mặt sông, gã dõi ánh mắt về phía tây tới chiếc cầu bắc ngang sông Paquenoke.
“Chúng ta phải đi phía dưới cầu”, Garrett nói. “Chúng ta không thể đi vòng xung quanh được.” Gã cẩn thận quan sát gầm cầu. “Cô có trông thấy ai không?”
Sachs nhìn. Cô trông thấy vài chớp sáng. “Có lẽ. Tôi không thể nói chắc chắn. Chói quá.” Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
“Đó là nơi lũ khốn kiếp đang đợi chúng ta”, Garrett lo lắng nói. “Tôi luôn luôn e ngại chiếc cầu. Người ta tìm kiếm cô.”
Luôn luôn?
Garrett cho thuyền cập bờ và tắt máy. Gã trèo ra, tháo bù–loong gắn động cơ vào thuyền, rồi tháo động cơ giấu giữa những búi cỏ, cùng với bình xăng.
“Cậu đang làm gì vậy?”, Sachs hỏi.
“Không thể để xảy ra nguy cơ bị phát hiện được.”
Garrett đưa chiếc hộp giữ lạnh và các bình nước ra khỏi thuyền, rồi buộc hai mái chèo vào ghế ngồi bằng hai đoạn dây thừng đầy dầu mỡ. Gã dốc hết nước ra khỏi sáu bình, đậy nắp lại, bỏ chúng sang bên. Gã hất đầu chỉ các chai nước. “Tệ quá. Mary Beth thì không có một giọt nào. Cô ấy sẽ cần có ít nước. Nhưng tôi có thể lấy cho cô ấy từ cái ao gần ngôi nhà đó.” Rồi gã lội xuống sông, tay túm mạn thuyền. “Hãy giúp tôi nào”, gã nói. “Chúng ta phải lập úp nó.”
“Chúng ta sẽ đánh chìm nó à?”
“Không. Chỉ lật úp nó thôi. Chúng ta sẽ cho các cái bình rỗng xuống bên dưới. Nó sẽ nổi.”
Lật úp à?”
“Tất nhiên.”
Sachs nhận ra ý đồ của Garrett. Họ sẽ chui xuống bên dưới chiếc thuyền và trôi qua gầm cầu. Từ trên cầu, khó có thể phát hiện thân thuyền màu sẫm ngập sâu trong nước. Vượt được vị trí đó rồi, họ có thể lật lại thuyền và chèo nốt quãng đường đến chỗ Mary Beth.
Garrett mở chiếc hộp giữ lạnh, tìm thấy một cái túi nhựa. “Chúng ta có thể bỏ các thứ không muốn bị ướt vào đây.” Gã bỏ vào cuốn sách của gã, Thế giới thu nhỏ. Sachs bỏ ví và súng. Cô giắt áo phông vào trong quần bò, rồi thả cái túi vào phía trước áo.
Garrett nói: “Cô có thể tháo còng cho tôi được không?”. Gã giơ đôi bàn tay ra. Sachs lưỡng lự.
“Tôi không muốn chết chìm”, Garrett nói, ánh mắt cầu khẩn.
Tôi sợ. Bắt hắn ngừng bắn đi!
“Tôi sẽ không làm gì xấu đâu. “Tôi hứa.”
Sachs miễn cưỡng rút chìa khoá từ túi quần ra, mở còng.
Những người Anh điêng Weapemeoc, tức những người bản xứ của khu vực bây giờ là Bắc Carolina, xét về mặt ngôn ngữ, đã cấu thành nên dân tộc Algonquin và có họ hàng với các bộ tộc Powhatans, Chowans và Pamlico ở vùng Trung – Đại Tây Dương của nước Mỹ.
Họ là những người chủ trang trại xuất sắc và khiến các bộ tộc Anh điêng khác phải ghen tỵ vì tài câu cá. Họ yêu chuộng hoà bình một cách thái quá và hầu như không quan tâm đến chuyện trang bị vũ khí. Ba trăm năm trước, khoa học gia người Anh đã viết: “Vũ khí mà họ có chỉ là những chiếc cung làm bằng gỗ phỉ, những mũi tên làm bằng thân sậy. Họ cũng không có bất cứ thứ gì để bảo vệ mình, ngoại trừ tấm mộc làm bằng vỏ cây cùng với áo giáp được đan bởi que giẽ và các loại sợi.”
Phải nhờ tới những người thực dân Anh họ mới được biến thành chiến binh, và những người thực dân Anh đã thực hiện điều này khá hiệu quả bằng cách, cùng một lúc, vừa đe doạ họ rằng Chúa Trời sẽ phẫn nộ nếu họ không cải sang Cơ Đốc giáo, vừa tàn sát dân số của họ với việc đem đến bệnh cúm và đậu mùa, vừa đòi hỏi họ cung cấp lương thực, thực phẩm, nhà cửa – những thứ mà bản thân mình quá lười biếng không tự tạo ra, vừa giết chết một trong số các thủ lĩnh được yêu quý của bộ tộc, Wingina, người mà những người thực dân đã tin tưởng một cách sai lầm, như thực tế xảy ra cho thấy, đang âm mưu tấn công vào khu vực người Anh định cư.
Trước sự ngạc nhiên đầy tức tối của những người thực dân, thay cho việc đức Chúa Jesus bước vào trái tim mình, những người Anh điêng đã tuyên bố lòng trung thành đối với các vị thần của chính họ - các Maniou – và rồi tuyên bố cuộc chiến chống lại người Anh, mà hành động mở màn (theo lịch sử do cô gái trẻ Mary Beth McConnell viết) là cuộc tấn công vào Những Người Thực Dân Biến Mất trên đảo Roanoke.
Sau khi những người định cư tháo chạy, bộ tộc Weapemeoc – dự đoán rằng người Anh sẽ củng cố lực lượng – đã có cái nhìn mới mẻ về vũ khí và bắt đầu sử dụng đồng, vốn dĩ chỉ được sử dụng cho mục đích trang trí, vào việc sản xuất vũ khí. Đầu mũi tên làm bằng kim loại sắc hơn đầu mũi tên làm bằng đá lửa, và dễ dàng chế tạo hơn. Tuy nhiên, khác với trong phim ảnh, một mũi tên bắn đi từ cây cung không có rãnh kéo dây thông thường không cắm sâu vào da thịt được và hầu như chẳng bao giờ gây tử thương. Để kết liễu kẻ thù bị thương rồi, những chiến binh Weapemeoc sẽ hạ cú đòn cuối cùng – một cú giáng vào đầu chiếc gậy được gọi chính xác là “cây chuỳ phi thường”, mà người bộ tộc này đã rất tài tình làm ra.
Một cây chuỳ phi thường chỉ là một hòn đá tròn lớn, được nhét vào đầu chẻ ra của một chiếc gậy, rồi được buộc cố định bằng dây da. Nó là một thứ vũ khí hết sức hiệu quả, và cây chùy Mary Beth McConnell đang làm lúc này, dựa trên kiến thức khảo cổ về người Anh điêng, chắc chắn cũng gây chết người chẳng kém những cây chùy - theo giả thuyết do cô xây dựng - từng đập vỡ sọ và đánh gãy răng rắc xương sống những người Anh đến định cư ở Roanoke khi họ quyết chiến trong trận cuối cùng trên hai bờ sông Paquenoke tại đại điểm bây giờ được gọi là Bến tàu kênh Nước đen.
Cô làm cây chùy của mình từ hai thanh đỡ uốn cong của chiếc bàn ăn cũ kỹ. Còn hòn đá thì chính là hòn đá mà Tom, gã đồng đảng của nhà truyền giá, đã ném vào cô. Cô đặt nó giữa hai thanh đỡ và buộc bằng những dải vải xé ra từ thân áo sơ mi bò. Món vũ khí khá nặng – khoảng sáu, bảy pound – tuy nhiên nó không quá nặng đối với Mary Beth, người thường xuyên nhấc các tảng đá nặng ba mươi, bốn mươi pound trong lúc đào bới khảo cổ.
Cô đứng lên khỏi đi văng và vung cây chùy vài lần, hài lòng với sức mạnh mà món vũ khí đem đến cho cô. Cô nghe thấy một âm thanh khó chịu - lũ bọ trong chiếc lọ. Nó khiến cô nghĩ tới thói quen búng móng tay đáng kinh tởm của Garrett. Cô rùng mình tức tối và giơ cây chùy lên để giáng xuống chiếc lọ ở gần nhất.
Nhưng rồi Mary Beth dừng tay. Phải , cô căm ghét lũ bọ, nhưng nỗi tức giận của cô không hẳn nhằm vào chúng, mà là nhằm vào Garrett cơ. Cô bỏ mặc những chiếc lọ, bước tới trước cánh cửa, giáng mấy phát. Chà, cô cũng không chờ đợi điều đó. Nhưng quan trọng là cô đã buộc hòn đá vào đầu chuỳ rất chắc chắn. Nó không bị tuột ra.
Tất nhiên, nếu nhà truyền giáo và gã Tom kia quay lại với một khẩu súng, cây chùy sẽ không có tác dụng chống đỡ mấy. Nhưng Mary Beth quyết định rằng trong trường hợp bọn chúng vào được cô sẽ giấu cây chùy đằng sau lưng và đứa đầu tiên động đến cô sẽ vỡ sọ. Đứa kia có thể sẽ giết chết cô, dù sao thì cô cũng đưa được một đứa đi theo mình. (Cô hình dung đây chính là cách Virginia Dare đã hy sinh.)
Mary Beth ngồi xuống, nhìn ra bên ngoài cửa sổ, nhìn vầng tà dương đang xuống đến hàng cây nơi cô phát hiện thấy nhà truyền giáo lần thứ nhất.
Cái cảm giác đang lan khắp người cô là gì? Cô nghĩ nó là sự sợ hãi.
Nhưng rồi cô đi tới kết luận rằng nó hoàn toàn chẳng phải sự sợ hãi. Mà nó là nỗi sốt ruột. Cô mong muốn kẻ thù của mình quay lại.
Mary Beth nhấc cây chùy đặt lên đùi.
Hãy sẵn sàng đi, gã Tom kia đã bảo cô thế.
Chà, cô sẵn sàng rồi đây.
“Một chiếc thuyền kìa.”
Lucy vươn người về phía trước qua đám lá có mùi cay cay của một cây nguyệt quế mọc bên bờ sông, gần cầu Hobeth. Bàn tay cô đặt trên khẩu súng.
“Đâu?”, Lucy hỏi Jesse Corn.
“Kia kìa.” Anh ta chỉ về phía mạn trên sông.
Lucy mơ hồ trông thấy được một mảng hơi thẫm màu nổi trên mặt nước, cách đấy nửa dặm. Nó đang trôi theo dòng.
“Ý anh là gì, thuyền ấy à?”, Lucy hỏi. “Tôi không trông thấy…
“Không, nhìn kìa. Nó bị lật úp.”
“Tôi không thấy rõ”, Lucy nói. “Mắt anh tinh thật.”
“Bọn họ chăng?”, Trey hỏi.
“Có chuyện gì vậy? Nó bị lật úp à?”
Nhưng Jesse Corn nói: “Không, bọn họ ở phía dưới”.
Lucy nheo mắt nhìn. “Làm sao anh biết.”
“Chỉ là cảm giác thế thôi”, Jesse trả lời.
“Phía dưới ấy có đủ không khí à”, Trey hỏi.
Jesse nói: “Chắc chắn. Lòng thuyền đủ cao. Hồi nhỏ chúng tôi từng làm như vậy với những chiếc xuồng ở hồ Bambert. Chúng tôi chơi trò tàu ngầm”.
Lucy nói: “Chúng ta làm gì đây? Chúng ta cần có một chiếc thuyền hoặc một phương tiện nào đấy để ra chỗ bọn họ”. Cô nhìn xung quanh.
Ned tháo chiếc thắt lưng quân dụng, đưa cho Jesse. “Rõ khỉ, tôi chỉ việc bơi ra và đẩy chiếc thuyền vào bờ.”
“Anh có thể bơi như thế à?”, Lucy nói.
“Bọn họ đang lặn dưới nước”, Jesse nói. “Tôi không lo lắng lắm chuyện bọn họ có thể nổ súng bắn ai.”
Trey lưu ý: “Bôi một chút dầu lên đạn là ngâm nước được hàng tuần”.
“Amelia sẽ không bắn đâu”, Jesse Corn, người bảo vệ kẻ phản bội, nói.
“Nhưng chúng ta sẽ không liều lĩnh”, Lucy đáp lời. Rồi cô quay sang Ned. “Đừng lật nó lại. Hãy chỉ bơi ra và lái cho nó trôi theo hướng này. Trey, anh đến đằng kia, bên cạnh cây liễu ấy, mang theo khẩu súng săn. Jesse và tôi sẽ ở chỗ bờ sông kia. Bọn họ sẽ nằm trong tầm ngắm của chúng ta nếu có xảy ra chuyện gì.”
Ned, chân trần và không mặc áo, rón rén bước từ cái gờ cao đẩy đá tảng xuống bãi bùn. Anh ta thận trọng nhìn xung quanh – đề phòng rắn, Lucy đồ là vậy - rồi nhoài người vào làn nước. Anh ta bơi sải về phía chiếc thuyền, rất nhanh, giữ đầu cao hơn mặt nước. Lucy rút khẩu Smith & Wesson khỏi bao, hơi kéo cò. Cô liếc nhìn Jesse Corn, anh chàng đang lo lắng nhìn món vũ khí trong tay cô. Trey đứng bên cạnh một cái cây, cầm khẩu súng săn, họng súng hất lên. Anh ta để ý thấy cô đã kéo cò, liền nhét một viên đạn vào ổ khẩu Remington.
Chiếc thuyền còn cách họ chừng ba mươi feet, gần như giữa dòng.
Ned là tay bơi cừ và anh ta đang thu hẹp khoảng cách nhanh chóng. Anh ta sẽ đến nơi sau…
Tiếng súng nổ to và gần. Lucy giật nảy người khi đám bọt nước bắn lên không trung, cách Ned chừng vài feet.
“Ôi, không!”, Lucy kêu to, giơ vũ khí ra, tìm kiếm kẻ nổ súng.
“Đâu, đâu?” Trey gọi, khom mình và nắm lại khẩu súng săn.
Ned lặn xuống dưới nước.
Một tiếng nổ nữa. nước vọt lên không trung. Trey hạ thấp khẩu súng săn và bắt đầu bắn về phía chiếc thuyền. Những phát đạn hốt hoảng. Khẩu súng cỡ nòng 12 nạp được bảy viên đạn. Người cảnh sát bắn hết chỉ trong vòng vài giây, mỗi viên đều găm thẳng vào chiếc thuyền, làm những mảnh gỗ và nước văng tung toé.
“Đừng!”, Jesse kêu lên. “Có người ở phía dưới đấy!”
“Đạn bắn từ đâu vậy?”, Lucy hỏi to. “Từ phía dưới thuyền à? Hay từ phía bên kia thuyền? Tôi không biết được. Bọn họ đâu hả?”
“Ned đâu?”, Trey hỏi. “Anh ấy trúng đạn à? Ned đâu?”
“Tôi không biết”, Lucy hét lên, giọng khàn đi vì hoảng sợ. “Tôi chẳng tài nào trông thấy anh ấy.”
Trey nạp lại đạn và một lần nữa nhắm vào chiếc thuyền.
“Đừng!”, Lucy ra lệnh. “Đừng bắn. Yểm trợ cho tôi!”
Lucy chạy xuống theo bờ sông, lội xuống nước. Bỗng nhiên, khi gần đến mép nước, cô nghe thấy tiếng hổn hển tắc nghẹn và Ned bập bềnh nổi lên. “Giúp tôi!” Anh ta khiếp sợ, vừa ngoảnh nhìn đằng sau vừa quờ quạng mò vào bờ.
Jesse và Trey nhắm súng sang phía bờ bên kia và từ từ bước xuống sát mép nước. Cặp mắt thất thần của Jesse không rời khỏi chiếc thuyền thủng lỗ chỗ - những cái lỗ kinh khủng, vỡ toác trên thân thuyền.
Lội xuống nước, Lucy cất súng vào bao và túm cánh tay Ned, lôi anh ta lên bờ. Anh ta đã lặn cho tới lúc không dám ở dưới nước nữa, nhợt nhạt và yếu ớt thiếu oxy.
“Bọn họ đâu?”, Ned cố hết sức hỏi, gần như tắc thở.
“Không biết nữa”, Lucy nói, lôi anh ta vào một bụi cây. Anh ta ngã nghiêng người xuống, vừa khạc nhổ vừa ho. Cô quan sát anh ta kỹ lưỡng. Anh ta không bị trúng đạn.
Trey và Jesse đến chỗ họ, cả hai đều khom mình, mắt nhìn chằm chằm sang bên kia sông, tìm kiếm kẻ tấn công.
Ned vẫn đang tắc thở. “Cái nước này tởm thật. Như nước cứt.”
Chiếc thuyền từ từ trôi về phía họ, bây giờ ngập phân nửa.
“Bọn họ chết rồi”, Jesse Corn thì thào, đăm đăm nhìn chiếc thuyền. “Bọn họ chắc đã chết rồi.”
Chiếc thuyền trôi lại gần hơn. Jesse tháo thắt lưng quân dụng ra và bắt đầu bước về phía trước.
“Đừng”, Lucy nói, ánh mắt dõi sang bờ bên kia. “Để nó vào tới chỗ chúng ta.”
16.06.2015
PHẦN 3: CUỘC ĐẤU TAY ĐÔI
CHƯƠNG 29
Dịch giả: Đinh Minh Hương
Nguồn: NXB Văn học
Nội dung thu gọn
Chiếc thuyền bị lật úp trôi vào một cây tuyết tùng bật gốc đổ xuống mặt sông, rồi mắc lại ở đó.
Mấy người cảnh sát đợi ít phút. Không có chuyển động nào ngoài sự dập dềnh của chiếc thuyền đã vỡ toác. Mặt nước hoe đỏ, nhưng Lucy không thể nói đấy là do máu loang ra hay đấy là do ánh tà dương rực rỡ như lửa.
Jesse Corn, lo lắng và nhợt nhạt, liếc nhìn Lucy. Cô gật đầu. Cả ba người còn lại đều lăm lăm chĩa súng vào chiếc thuyền trong lúc Jesse lội ra bật ngửa nó.
Vài mảnh bình nước bị xé rách tướp nổi bập bềnh và lờ lững trôi theo dòng. Không có ai ở phía dưới cả.
“ Chuyện gì đã xảy ra vậy?”. Jesse hỏi. “Tôi không hiểu”.
“Rõ khỉ”, Ned bực bội lầm bầm. “Bọn họ đã bài binh bố trận gạt chúng ta. Một trò mai phục chết tiệt.”
Trước đó Lucy không tin rằng nỗi tức giận còn có thể chi phối cô được hơn nữa. Nhưng bây giờ thì nó đang chiếm lĩnh cô tựa dòng điện bỏng rát. Ned nói đúng. Amelia đã sử dụng chiếc thuyền giống như những con chim mồi của Nathan Groomer và mai phục họ từ bờ bên kia.
“Không”, Jesse phản đối, “Cô ta không làm việc ấy đâu. Nếu cô ta có bắn cũng chỉ để dọa chúng ta thôi. Amelia là tay thiện xạ. Cô ta đã có thể bắn trúng Ned nếu muốn”.
“Chết tiệt, Jesse, hãy mở mắt ra, được không?” , Lucy quát. “Bắn từ chỗ ẩn nấp um tùm như thế kia ư? Dù giỏi mấy cô ta vẫ có thể bắn trượt. Còn chuyện bắn xuống nước? Biết đâu đạn chẳng nẩy lên. Hoặc Ned có thể hoảng hốt mà bơi vào đúng chỗ một viên đạn.”
Jesse Corn không đáp lời. Anh ta lấy hai lòng bàn tay chà mặt và đăm đăm nhìn sang bờ bên kia.
“Được, bây giờ chúng ta sẽ làm như thế này”, Lucy hạ giọng nói. “Trời đang tối rồi. Chúng ta sẽ đi cho tới lúc nào tắt hẳn ánh sáng. Sau đó chúng ta sẽ đề nghị Jim đem đến các vật dụng cần thiết để nghỉ qua đêm. Chúng ta sẽ dựng lều ngoài trời. Chúng ta sẽ giả định rằng bọn họ đang nhắm bắn vào chúng ta và chúng ta sẽ theo đó mà hành động. Bây giờ, hãy vượt qua cầu, tìm kiếm dấu vết bọn họ. Tất cả đã nạp đạn và khóa chốt an toàn chưa?”.
Ned và Trey trả lời rồi. Jesse Corn đăm đăm nhìn chiếc thuyền vỡ toác một lát, xong rồi mới chậm chạp gật đầu.
“Thế thì đi thôi”.
Bốn người cảnh sát bắt đầu vượt qua cây cầu dài chừng năm mươi thước không có gì che chắn – nhưng họ không đi cụm lại với nhau. Họ đi thành hàng dài để nếu Amelia Sachs tiếp tục bắn cô ta cùng lắm sẽ chỉ bắn trúng một người, và những người kia có thể chạy tới ẩn nấp đâu đó, bắn trả. Đây là ý tưởng của Trey, anh ta học được từ một bộ phim về Chiến tranh thế giới thứ hai, và vì đây là ý tưởng của anh ta, anh ta cho rằng mình sẽ giữ vị trí đi đầu. Nhưng Lucy Kerr khăng khăng giành vị trí này.
***
“Mày suýt nữa thì bắn trúng nó.”
Harris Tomel nói : “Đời nào.”
Nhưng Culbeau vẫn một mực: “Tao đã bảo, chỉ dọa chúng nó thôi. Mày mà bắn trúng thằng Ned, mày biết bọn ta sẽ gặp rắc rối ra sao không?”.
“Tao biết tao đang làm gì, Rich. Tin tưởng tao một chút đi, được không?”
Đồ học trò chết giẫm, Culbeau tự nhủ thầm.
Ba gã đàn ông đang ở bờ bắc sông Paquo, lê bước dọc một lối mòn chạy song song con sông.
Thực ra, Culbeau mặc dù bực bội vì Tomel suýt bắn trúng tay cảnh sát bơi ra chỗ chiếc thuyền, gã cũng chắc chắn rằng những phát bắn tỉa đó đã có tác dụng. Lucy và lũ kia bây giờ gọi là run như dẽ và sẽ biết điều di chuyển chậm chạp.
Vụ nổ súng cũng còn đem đến một lợi ích khác nữa – nó khiến Sean O’Sarian kinh hoàng và thôi mở miệng.
Ba gã đi được hai mươi phút thì Tomel hỏi Culbeau: “Mày biết cái thằng nhãi đang đi theo hướng này chứ?”
“Biết.”
“Nhưng mày hoàn toàn không biết hắn sẽ đi đến đâu.”
“Tất nhiên không”, Culbeau nói. “Nếu tao biết thì bọn ta đã có thể đi thẳng đến đó rồi, đúng không?”
Nào, đồ học trò. Hãy sử dụng cái đầu chết giẫm của mày đi.
“Nhưng…”
“Yên tâm. Bọn ta sẽ tìm thấy hắn”.
“Tao xin ít nước được không?”, O’Sarian rốt cuộc hỏi.
“Nước à? Mày muốn nước à?”.
O’Sarian nói vẻ tự mãn: “Phải, đó là thứ tao đang muốn.”
Culbeau ngờ vực liếc nhìn gã và đưa cho gã một cái chai. Culbeau chưa từng biết gã thanh niên gầy nhẳng này thực tế đã uống những gì khác ngoài bia, whisky và rượu lậu. Gã uống cạn, chùi cái mồm xung quanh đầy tàn nhang và lẳng cái cái chai sang bên đường.
Culbeau thở dài. Gã nói với vẻ châm biếm: “Này, Sean, mày chắc chắn muốn để lại dấu vân tay trên vật gì đó dọc đường đi à?”.
“Ồ, phải rồi.” Gã thanh niên gầy giơ xương vội vã chạy vào bụi rậm nhặt cái chai. “Xin lỗi”.
Xin lỗi? Sean O’Sarian xin lỗi à? Culbeau hoài nghi nhìn chằm chằm hồi lâu, rồi hất đầu ra hiệu bảo cả lũ tiếp tục tiến bước. Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Ba gã đến một khúc quanh của con sông và đứng trên nền đất cao, ba gã có thể quan sát được hàng dặm mạn dưới dòng.
Tomel nói: “Này, nhìn đằng kia kìa. Có một ngôi nhà. Tao cuộc rằng thằng nhãi và cô ả tóc đỏ đã đi theo lối đó”.
Culbeau quan sát qua kính ngắm của khẩu súng trường săn hươu. Cách đấy chừng hai dặm, dưới thung lũng, là một ngôi nhà nghỉ kiến trúc theo kiểu chữ A, gần như ở ngay bên bờ sông. Một nơi ẩn náu hợp lý cho thằng nhãi và cô ả cớm. Gã gật đầu. “Chắc chắn chúng nó ở đấy. Đi thôi.”
Từ cầu Hobeth xuôi theo dòng, sông Paquenoke đột ngột ngoặt về phía Bắc.
Đến đây nước nông, đã gần bờ, và bãi cát ngầm lầy lội đầy củi rều, cây cối, rác rưởi… chất thành đống cao.
Giống như hai chiếc xuồng trôi dạt, hai hình người bồng bềnh trong nước bỏ lỡ mất khúc quanh và được dòng nước đánh vào cái đống rác rưởi ấy.
Amelia Sachs vứt bỏ bình nước bằng nhựa – chiếc phao tự chế của cô – và vươn bàn tay nhăn nheo ra túm lấy một cành cây. Rồi cô nhận ra đây là hành động không khôn ngoan, vì các túi quần của cô nhét đầy đá làm đồ dằn và cô cảm thấy như bị giật mạnh xuống làn nước tối thẫm. Nhưng cô duỗi thẳng chân và tìm thấy đáy sông chỉ ở độ sâu chừng bốn feet. Cô đứng chới với rồi ì ạch lội về phía trước. Lát sau, Garrett xuất hiện bên cạnh cô, giúp đỡ cô leo lên cái bãi lầy lội. Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Họ bò lên theo bờ dốc thoai thoải, qua đám cây bụi nhằng nhịt, và đổ vật xuống một bãi cỏ, nằm yên đó mấy phút, thở hổn hển. Sachs rút chiếc túi nhựa ra khỏi áo. Nước hơi rò vào nhưng không gây hậu quả gì nghiêm trọng. Cô trả cho Garrett cuốn sách về côn trùng và mở ổ đạn khẩu súng của mình, phơi bên trên khóm cỏ khô giòn, vàng úa.
Sachs đã đoán sai về kế hoạch của Garrett. Họ quả có nhét các vỏ bình nước vào phía dưới chiếc thuyền được lật úp để giữ nó nổi, nhưng rồi gã đã đẩy nó ra giữa dòng mà không chui vào phía dưới. Gã bảo cô bỏ đá đầy túi quần. Gã cũng làm giống như vậy. Sau đấy, họ vội vã chạy xuôi theo dòng, vượt qua chiếc thuyền chừng năm mươi feet, rồi nhoài xuống nước, mỗi người ôm một bình nước còn phân nửa làm phao. Garrett bảo cô cách ngả đầu về phía sau. Với các hòn đá làm đồ dằn, chỉ có mặt họ nổi bên trên mặt nước. Họ trôi xuôi theo dòng trước chiếc thuyền.
“Loài nhện nước vốn vẫn làm như thế này”, Garrett bảo Sachs. “Tương tự thợ lặn sử dụng bình khí nén. Mang không khí theo mình.” Gã đã làm như thế này vài lần để “chạy trốn”, tuy – y hệt lúc trước – gã không nói tỉ mỉ lý do tại sao gã phải chạy trốn và chạy trốn ai. Gã giải thích rằng nếu cảnh sát không có mặt tại cầu, họ sẽ bơi tới chỗ chiếc thuyền, đưa nó vào bờ, dốc hết nước ra, và tiếp tục chèo đi. Còn nếu cảnh sát có mặt tại cầu, cảnh sát sẽ tập trung sự chú ý vào chiếc thuyền chứ không chú ý đến Garrett và Amelia trôi ở phía trước nó. Vượt qua cầu rồi, họ sẽ lội vào bờ và tiếp tục cuộc hành trình bằng cách đi bộ.
Chà, Garrett đã tính toán đúng, họ vượt qua cầu mà không bị phát hiện. Nhưng Sachs vẫn bàng hoàng vì chuyện xảy ra tiếp theo – các cảnh sát đã vô cớ bắn chíu chít vào chiếc thuyền lật úp.
Những phát súng cũng khiến Garrett run bần bật. “Bọn nó nghĩ chúng ta ở phía dưới đó”, gã thì thào. “Lũ khốn kiếp cố giết chết chúng ta.”
Sachs im lặng.
Garrett nói thêm: “Tôi từng làm những việc tồi tệ… nhưng tôi không phải loài phymata”.
“Là cái gì?”.
“Một loài bọ chuyên phục kích. Nằm yên chờ đợi và giết chết con mồi. Đó là điều bọn nó sẽ làm đối với chúng ta. Đơn giản như bắn chúng ta chẳng hạn. Chẳng cho chúng ta bất cứ cơ hội nào.”
Ôi, Lincoln, Sachs tự nhủ thầm, chuyện này mới rối ren làm sao chứ. Tại sao em lại hành động như thế? Bây giờ em nên đầu hàng ngay thôi. Ở đây chờ đợi cảnh sát tới, từ bỏ mọi nỗ lực. Quay lại Tanner’s Corner và cố gắng đền bù cho hành động của mình.
Nhưng Sachs nhìn sang Garrett đang vòng hai tay ôm lấy người, run rẩy vì sợ hãi. Và cô biết rằng cô không thể quay lại. Cô phải tiếp tục, chơi cái trò điên rồ này đến cùng.
Cuộc đấu tay đôi…
“Chúng ta đi đâu bây giờ?”
“Cô trông thấy ngôi nhà đằng kia không?”
Một ngôi nhà kiến trúc theo kiểu chữ A màu nâu.
“Mary Beth ở đó à?”.
“Không, nhưng họ có chiếc thuyền câu nhỏ, chúng ta có thể mượn tạm. Và chúng ta có thể hong khô quần áo, kiếm ít thức ăn.”
Ờ, tội đột nhập thì có đáng kể gì so với các tội hình sự mà cô đã phạm phải ngày hôm nay?
Garrett bất thình lình cầm khẩu súng ngắn của Sachs lên. Cô sững người, nhìn khẩu súng màu đen ánh xanh trong đôi bàn tay gã. Vẻ hiểu biết, gã nhìn vào ổ đạn và thấy nó đã được nạp đầy sáu viên. Gã xoay ổ đạn và cầm khẩu súng trong tay với sự thành thạo khiến cô mất hết nhuệ khí.
Dù em nghĩ về Garrett như thế nào, cũng đừng tin tưởng hắn…
Gã liếc nhìn Sachs và nhe răng cười. Rồi gã chĩa báng súng ra cho cô. “Chúng ta hãy đi lối này”. Gã hất đầu chỉ một lối mòn. Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Sachs cất lại khẩu súng vào bao, cảm thấy trái tim loạn nhịp vì sợ.
“Bây giờ không có ai ở đó.” Garrett dừng bước và ngoảnh nhìn đằng sau. Một lát, gã lẩm bẩm: “Bọn nó đang tức tối đấy, đám cảnh sát ấy mà. Và bọn nó sẽ đuổi theo chúng ta. Với tất cả súng ống và các phương tiện bọn nó có. Mẹ kiếp.” Gã quay lại và dẫn Sachs đi dọc theo lối mòn về phía ngôi nhà kia. Gã im lặng vài phút. “Cô muốn biết điều này không, Amelia?”.
“Điều gì?”.
“Tôi đang nghĩ về một loài bướm đêm – loài bướm ma lớn ấy”.
“Thì sao?”, Sachs lơ đãng hỏi, trong tâm thức vẫn còn nghe thấy những tiếng súng nổ, nhằm vào cô và gã trai này. Lucy Kerr đã cố giết chết cô, Trong đầu óc cô, âm thanh vang vọng của những tiếng súng lấn át mọi cái khác.
“Màu sắc trên cánh nó ấy”, Garrett bảo Sachs. “Nói chung, khi chúng mở ra, chúng trông giống hệt cặp mắt một con vật. Ý tôi là, nó khá thú vị - thậm chí có cả một chấm trắng ở khóe y như điểm phản chiếu ánh sáng trong đồng tử. Chim chóc trông thấy, cho rằng đó là một con cáo hay một con mèo và sợ hãi bay mất”.
“Thế chim chóc không đánh hơi được đó là một con bướm đêm chứ chẳng phải một con vật nào khác à?”.
Garrett nhìn Sachs một lát xem liệu có phải cô đang đùa không. Gã nói: “Chim chóc không biết ngửi”. Y như thể cô vừa hỏi có đúng trái đất bẹt không. Gã ngoảnh nhìn đằng sau, ngược lên bên trên sông lần nữa. “Chúng ta sẽ phải làm chậm bước bọn nó. Cô nghĩ bọn nó tới gần chừng nào rồi?”.
“Rất gần rồi”, Sachs nói.
Với tất cả súng ống và phương tiện bọn họ có.
“Chúng nó đấy.”
Rich Culbeau nhìn những dấu chân in trong bùn trên bờ sông. “Những dấu chân này mới mươi, mười lăm phút trước thôi”.
“Và chúng nó đang nhằm hướng ngôi nhà”, Tomel nói.
Ba gã thận trọng di chuyển theo một lối mòn.
O’Sarian vẫn không có hành động gì khác thường. Thực tế, đối với gã, chính điều này lại là khác thường. Và đáng sợ. Gã chưa uống lén ngụm rượu lậu nào, chưa bày trò gì nghịch ngợm, thậm chí chưa mở mồm – mà Sean vốn vẫn có cái mồm nói như máy khâu xếp hàng thứ nhất ở Tanner’s Corner. Vụ nổ súng bên sông khiến gã thực sự bàng hoàng. Bây giờ, khi ba gã đi bộ qua khu rừng, gã vung ngay họng khẩu súng trường màu đen lên trước mỗi tiếng động phát ra từ các bụi rậm. “Chúng mày trông thấy thằng nhọ đó bắn rồi chứ?”, gã rốt cuộc bảo. “Trong chưa đầy một phút, nó nã phải tới mười viên to tổ chảng vào chiếc thuyền”.
“Đạn chì thôi”, Harris Tomel đính chính.
Thay cho việc nghi ngờ sự khẳng định của Tomel và cố gắng gây ấn tượng với đồng bọn bằng những kiến thức gã có được về súng ống (và hành động kiểu một tay biết tuốt đáng khó chịu như gã vốn vẫn thế) O’Serian chỉ nói: “Ồ, đạn chì cỡ lớn. Phải. Tao đáng lẽ đã nên nghĩ tới cái loại đạn ấy”. Và gã gật đầu y như đứa học trò nhỏ vừa tiếp thu được điều gì đó mới mẻ, thú vị.
Ba gã đã đến gần ngôi nhà. Trong có vẻ là một chốn ấm cúng, Culbeau tự nhủ thầm. Một ngôi nhà nghỉ, có lẽ - của một tay luật sư hay bác sĩ nào đấy ở Raleigh hoặc Winston – Salem. Một ngôi nhà nghỉ để đi săn, có quầy bar đầy ắp rượu, các phòng ngủ tươm tất, một tủ đá trữ thịt hươu.
“Này, Harris”, O’Serian gọi.
Culbeau chưa từng biết gã dùng đến tên riêng của ai bao giờ.
“Cái gì?”.
“Thứ này bắn cao hay thấp?”, O’Sarian giơ khẩu Colt.
Tomel liếc nhìn Culbeau, có lẽ cũng đang cố gắng xác định xem cái con người khác thường trong O’Sarian đã biến đằng nào rồi.
“Phát đầu tiên thì chính xác vào mục tiêu nhưng những phát sau hay bị giật lên cao hơn. Vì thế khi bắn những phát sau hãy hạ họng súng xuống.”
“Vì báng súng bằng nhựa nên nó nhẹ hơn loại bằng gỗ à?”, O’Sarian hỏi.
“Phải rồi”.
Gã lại gật đầu, bộ mặt thậm chí có vẻ nghiêm trọng hơn cả lúc nãy. “Cảm ơn”.
Cảm ơn?
Đã đi qua khu rừng và ba gã có thể trông thấy một bãi đất lớn quang quẻ xung quanh ngôi nhà – thừa sức tới gần năm mươi thước mỗi chiều mà thậm chí không có lấy cái cây con nào. Thật khó khăn để đến gần ngôi nhà.
“Mày nghĩ chúng nó ở bên trong à?”, Tomel hỏi, vuốt ve khẩu súng săn đẹp đẽ.
“Tao không… Khoan, cúi xuống!”
Ba gã vội vàng khom mình.
“Tao trông thấy cái gì đó dưới gác. Qua ô cửa sổ bên trái kia”, Culbeau quan sát qua kính ngắm của khẩu súng trường săn hươu. “Ai đó đang đi lại. Dưới tầng trệt. Tao trông không rõ lắm, vướng tấm mành. Nhưng dứt khoát có người”. Gã quan sát kỹ lưỡng các ô cửa sổ khác. “Mẹ kiếp!”. Gã thốt tiếng thì thào kinh hoàng, ngồi phịch xuống đất.
“Gì thế?”, O’Sarian hỏi, hoảng hốt, nắm chặt khẩu súng và xoay người một vòng.
“Chúi xuống! Một đứa trong chúng nó có sứng trường lắp kính ngắm. Chúng nó đang nhắm thẳng vào ta. Cửa sổ trên gác ấy. Chết tiệt.”
“Hẳn là cái cô ả kia”, Tomel nói. “Chứ thằng nhãi õng ẹo quá, làm sao biết đạn ra theo đầu nào.”
“Đ.mẹ đồ chó cái”, Culbeau lầm bầm. O’Sarian nép đằng sau một cái cây, áp khẩu súng gợi nhớ tới cuộc chiến tranh Việt Nam sát má.
“Con ranh kia bao quát được toàn bộ bãi đất từ vị trí của nó”, Culbeau nói.
“Chúng ta đợi trời tối à?”, Tomel hỏi.
“Ồ, với cái cô em bé nhỏ bị cắt mất vú tiến đến đằng sau chúng ta? Tao không nghĩ như thế thì có tác dụng gì đâu, công nhận chứ hả, Harris?”
“Thế, mày có bắn trúng được cô ả kia từ đây không?” Tomel hất đầu về phía ô cửa sổ.
“Có lẽ”, Culbeau vừa nói vừa thở dài. Gã đang định chọc ngoáy Tomel mấy câu thì O’Sarian đã nói với giọng bình thường một cách đáng sợ: “Nhưng nếu Rich bắn, cô em Lucy và đám cảnh sát sẽ nghe thấy. Tao cho rằng chúng ta phải kẹp lấy hai đứa. Đi vòng qua hông ngôi nhà và cố gắng lọt vào bên trong. Tiếng súng nổ ở bên trong nghe sẽ bé hơn”.
Chính là Culbeau đang định nói điều ấy.
“Như thế sẽ mất nửa tiếng đồng hồ”, Tomel quát, có lẽ bực bội vì không suy nghĩ được bằng O’Sarian.
Gã này vẫn giữ trạng thái tỉnh táo cao độ. Gã tháo chốt an toàn khẩu súng của gã và nheo mắt nhìn về phía ngôi nhà. “Chà, theo tao thì chúng ta sẽ mất không đến nửa tiếng đồng hồ đâu. Mày nghĩ thế nào, hả Rich?”.
16.06.2015
PHẦN 3: CUỘC ĐẤU TAY ĐÔI
CHƯƠNG 30
Dịch giả: Đinh Minh Hương
Nguồn: NXB Văn học
Nội dung thu gọn
Steve Farr lại đưa Henry Davett vào la-bô. Nhà doanh nghiệp cảm ơn Farr và gật đầu chào Rhyme. Farr đi ra.
“Henry”, Rhyme nói. “Cảm ơn ông đã tới.”
Cũng giống như lúc trước, nhà doanh nghiệp không chú ý gì đến tình trạng của Rhyme. Tuy nhiên, lần này, thái độ của ông ta không đem đến cho anh nguồn an ủi. Nỗi lo lắng về Sachs đang xâm chiếm anh. Đầu óc anh cứ văng vẳng giọng Jim Bell.
Thông thường anh có hai mươi tư tiếng đồng hồ để tìm thấy nạn nhân, sau khoảng thời gian đó nạn nhân trở nên mất tính người dưới con mắt kẻ bắt cóc và hắn sẽ giết họ chẳng cần suy nghĩ gì.
Quy tắc này, lúc trước được áp dụng cho Lydia và Mary Beth, bây giờ thì nó có ảnh hưởng đến cả số phận của Amelia Sachs. Sự khác biệt, như Rhyme tin tưởng, chính là Sachs có lẽ sẽ có ít hơn hai mươi tư tiếng đồng hồ nhiều. Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
“Tôi tưởng anh đã bắt được thằng nhãi. Tôi nghe nói vậy mà.”
Ben đáp lời: “Hắn đã trốn thoát”.
“Không!”. Davett cau mày.
“Chắc chắn hắn đã trốn thoát”, Ben nói. “Một cuộc vượt ngục xưa như diễm.”
Rhyme: “Tôi có thêm một số chứng cứ, nhưng tôi không biết phải hiểu chúng như thế nào. Tôi hy vọng lại được ông giúp đỡ”.
Nhà doanh nghiệp ngồi xuống. “Tôi sẽ làm những gì có thể.”
Một cái liếc mắt qua cây ghim cài cà vạt khắc các chữ cái WWJD.
Rhyme hất đầu về phía bảng chứng cứ, nói: “Ông làm ơn đọc qua danh sách kia được không?Danh sách ở bên tay phải ấy”.
“Cối xay – hắn đã ở đó à? Cái cối xay cũ kỹ nằm về phía đông bắc thị trấn?”
“Đúng vậy”.
“Tôi biết chỗ ấy.” Davett tức tối nhăn mặt. “Tôi đáng lẽ đã phải nghĩ tới nó.”
Các nhà hình sự học không thể để cụm từ “đáng lẽ đã phải” len lỏi vào vốn từ vựng của họ. Rhyme nói: “ Trong công việc này, không thể nào mà nghĩ tới tất cả mọi điều được. Nhưng xin hãy đọc bảng chứng cứ. Có gì xem ra là quen thuộc đối với ông không?”.
Davett thận trọng đọc.
TÌM THẤY TẠI HIỆN TRƯỜNG GIÁN TIẾP – CỐI XAY
Sơn nâu dây trên quần
Cây gọng vó
Đất sét
Rêu nước
Nước trái cây
Sợi giấy
Viên chua làm mồi câu
Đường
Camphene
Chất cồn
Dầu hỏa
Men nở
Vừa đăm đăm nhìn bảng chứng cứ, Davett vừa nói với giọng hết sức bối rối: “Giống như một câu đố vậy”.
“Đó là bản chất công việc của tôi”, Rhyme nói.
“Tôi có thể suy đoán tới mức nào?”, nhà doanh nghiệp hỏi.
“Tới mức nào là tùy ý ông”, Rhyme trả lời.
“Được rồi”, Davett nói. Ông ta nghĩ ngợi một lát. “Một cái vũng nguyệt quế Carolina.”
Rhyme hỏi: “Là thế nào? Nước mưa à?”.
Davett liếc nhìn Rhyme xem liệu anh có đang đùa không, rồi đáp: “Không, đó là một đặc điểm địa chất mà người ta vốn vẫn thấy dọc bờ biển miền Đông. Tuy nhiên, phần lớn chúng xuất hiện ở khu vực Carolina, Bắc và Nam. Về cơ bản, chúng có dạng những cái áo hình bầu dục, sâu chừng ba, bốn feet, chứa nước ngọt. Chúng có thể rộng từ nửa mẫu Anh cho tới vài trăm mẫu<36>. Đáy những cái ao này chủ yếu là đất sét và rêu nước. Hoàn toàn đúng với chứng cứ trên bảng kia.”
“Nhưng đất sét và rêu nước – chúng cũng khá phổ biến xung quanh đây”, Ben nói.
“Phải”, Davett đồng tình. “Và nếu các anh chỉ tìm thấy hai thứ đó, tôi sẽ không có manh mối nào lần ra nguồn gốc của chúng đâu. Nhưng các anh còn tìm thấy một số thứ khác. Xem đây này, một trong những đặc điểm thú vị nhất về vũng nguyệt quế Carolina chính là các loài cây ăn thịt côn trùng mọc xung quanh nó. Có hàng trăm loài cây bắt ruồi, cây gọng vó, cây nắp ấm – có thể vì môi trường ao nước khiến côn trùng sinh sôi nhiều. Nếu các anh tìm thấy cây gọng vó cùng với đất sét và rêu nước thì chẳng còn nghi ngờ gì, thằng nhãi ấy từng quanh quẩn đâu đấy xung quanh một cái vũng nguyệt quế Carolina”.
“Tốt”, Rhyme nói. Rồi, đăm đăm nhìn tấm bản đồ, anh hỏi: “Vũng nguyệt quế có nghĩa thế nào?”.
“Nó ám chỉ những cây nguyệt quế mọc xung quanh các ao nước này. Có đủ thứ chuyện hoang đường liên quan đến chúng. Những người tới định cư thuở xa xưa từng nghĩ chúng đã được những con quái vật biển khoét đất tạo thành hay do những mụ phù thủy niệm thần chú. Giả thuyết về dấu vết của thiên thạch rơi xuống trái đất tồn tại một số năm. Nhưng chúng thực sự chỉ là những chỗ lõm tự nhiên, kết quả của gió và các dòng chảy.” Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
“Chúng có phải đặc điểm riêng biệt của khu vực cụ thể nào xung quanh đây không?”, Rhyme hỏi, hy vọng các ao nước này sẽ giúp thu hẹp phạm vi tìm kiếm lại.
“Ở một mức độ nào đấy.” Davett đứng lên và bước tới trước tấm bản đồ. Ông ta dùng ngón tay khoanh tròn một khu vực rộng nằm về phía tây Tanner’s Corner. Từ ô B-2 đến ô E-2 và từ ô F-13 đến ô B-12. “Anh sẽ tìm thấy chúng phần lớn là ở đây, khu vực này, ngay trước khi anh tới chỗ các quả đồi”.
Rhyme cảm thấy nản. Khu vực Davett khoanh tròn phải rộng tới bảy mươi háy tám mươi dặm vuông.
Davett nhận ra phản ứng ở Rhyme. Ông ta nói: “Giá như tôi có thể giúp đỡ được nhiều hơn”.
“Không, không, tôi rất biết ơn ông. Ý kiến của ông sẽ hữu ích. Chúng ta chỉ cần thu hẹp thêm phạm vi các manh mối”.
Nhà doanh nghiệp đọc: “Đường, nước trái cây, dầu hỏa…”. Ông ta lắc đầu, mặt mày nghiêm trang. “Anh phải làm một công việc khó khăn đấy, Rhyme.”
“Đây là những vụ án phức tạp”, Rhyme giải thích. “Khi người ta không có manh mối nào, người ta được suy đoán thoải mái. Khi người ta có rất nhiều manh mối, thông thường người ta khá nhanh chóng đi đến được câu trả lời. Nhưng có một vài manh mối, như thế này… “Giọng Rhyme nhỏ dần.
“Chúng ta bị trói vào những thực tế đó”, Ben lẩm bẩm.
Rhyme quay sang anh ta. “Chính xác đấy, Ben ạ. Chính xác”.
“Tôi phải về nhà”, Davett nói. “Gia đình đang đợi tôi”. Ông ta ghi một số điện thoại lên tấm danh thiếp. “Anh có thể gọi cho tôi bất cứ lúc nào.”
Rhyme cảm ơn Davett lần nữa, rồi lại quay sang đăm đăm nhìn bảng chứng cứ.
Bị trói vào những thực tế đó…
Rich Culbeau mút máu khỏi vết gai mâm xôi cào sâu trên cánh tay. Gã nhổ vào một thân cây to.
Ba gã mất hai mươi phút vất vả luồn lách qua các bụi rậm mới tới được hàng hiên bên hông ngôi nhà nghỉ kiến trúc theo kiểu chữ A mà không bị đồ chó cái với khẩu súng bắn tỉa phát hiện. Đến cả Harris Tomel, bình thường trông cứ như vừa bước ra từ hàng hiên một câu lạc bộ thể thao ngoại ô, cũng lem luốc, đầy máu me.
Gã Sean O’Serian mới mẻ, lặng lẽ và trầm tư và, chà, tỉnh táo nữa, đang đứng đợi ngoài lối mòn, nằm trên mặt đất với khẩu súng đen sì y như một tên lính bộ binh đang nằm càu nhàu tại khe Sahn, sẵn sàng cản bước Lucy và những tay Việt Cộng khác bằng vài phát đạn xả vào đầu bọn họ, phòng trường hợp bọn họ đặt chân lên lối mòn dẫn về phía ngôi nhà.
“Mày sẵn sàng chưa?”, Culbeau hỏi Tomel, gã này gật đầu.
Culbeau khe khẽ xoay quả đấm cửa tiền sảnh và đẩy cho cánh cửa mở vào, gã giương súng, sẵn sàng nhả đạn. Tomel theo sau gã. Hai gã bước rón rén như mèo, biết rằng cô ả cớm tóc đỏ với khẩu súng trường săn hươu mà cô ả chắc chắn thông thạo cách sử dụng có thể đang chờ đợi hai gã ở bất cứ ngóc ngách nào bên trong ngôi nhà.
“Mày có thấy gì không?”, Culbeau thì thầm.
“Chỉ nghe thấy tiếng nhạc.” Đó là thể loại soft rock – thể loại mà Culbeau vẫn nghe vì gã ghét thứ nhạc đồng quê miền Tây.
Hai gã đàn ông di chuyển từ từ dọc theo dãy hành lang lờ mờ tối, súng giương lên, đã kéo cò. Hai gã bước chậm lại. Phía trước hai gã là căn bếp, nơi Culbeau lúc trước, khi nhìn qua kính ngắm của khẩu súng trường, đã trông thấy ai đó – có lẽ là thằng nhãi kia – đi đi lại lại. Gã hất đầu về phía căn bếp.
“Tao nghĩ bọn nó không nghe thấy ta đến đâu”, Tomel nói. Tiếng nhạc được vặn lên khá to.
“Ta cùng vào. Nhằm cẳng chân hoặc đầu gối bọn nó mà bắn. Đừng làm hắn ngoẻo đấy – ta vẫn còn cần hắn khai xem Mary Beth đang ở đâu.”
“Cả cô ả kia nữa à?”
Culbeau nghĩ một lát. “Ừ, sao không? Bọn ta có lẽ sẽ muốn giữ cho cô ả sống thêm tí chút. Mày biết để làm gì rồi”.
Tomel gật đầu.
“Một, hai… ba”.
Hai gã ập vào căn bếp và nhận ra mình suýt nữa nã cho tay dự báo thời tiết trên chiếc tivi màn hình rộng mấy phát đạn. Hai gã khom người xoay một vòng, tìm kiếm thằng nhãi và cô ả cớm. Không trông thấy đâu. Rồi Culbeau nhìn chiếc tivi, nhận ra nó vốn chẳng được kê trong căn bếp này. Ai đó đã vần nó từ phòng khách sang và kê nó phía trước lò nướng, màn hình hướng về phía cửa sổ.
Culbeau ngó qua tấm mành. “Mẹ kiếp. Hai đứa nó kê chiếc tivi ở đây để bọn ta từ bên kia bãi đất, từ chỗ lối mòn ấy, trông thấy. Và nghĩ có người trong nhà.” Gã dứt những ngôi sao đính trên tấm mành ra, hai cái một.
“Khoan”, Tomel kêu to. “Ả đang ở trên gác, có súng.”
Nhưng tất nhiên tóc đỏ hoàn toàn chẳng ở trên gác. Culbeau đạp cửa xô vào cái phòng ngủ mà lúc trước gã trông thấy nòng khẩu súng trường và chiếc kính ngắm chĩa về phía mình. Bây giờ thì gã phát hiện ra những thứ gần đúng như dự đoán của gã: một đoạn ống hẹp trên đỉnh được gắn với một đít vỏ chai bia Corona bằng băng dính.
Gã nói trong cơn phẫn nộ: “Đấy là khẩu súng và chiếc kính ngắm ấy đấy. Lạy Chúa. Hai đứa nó đã bố trí để bịp bọn ta. Khiến bọn ta mất đứt nửa tiếng đồng hồ. Và đám cảnh sát chết tiệt có lẽ chỉ còn cách đấy năm phút. Bọn ta phải rời khỏi chỗ này thôi.”
Culbeau chạy ào qua Tomel. Gã này vừa bắt đầu mở miệng: “Khôn ngoan như ả…”. Nhưng, nhìn thấy ánh mắt tức giận của Culbeau, gã quyết định không nói nốt câu.
Hết ắc quy, cái động cơ điện bé tí im bặt.
Chiếc xuồng hẹp họ đánh cắp từ ngôi nhà nghỉ trôi theo dòng Paquenoke, xuyên qua màn sương đặc quánh như dầu bao trùm trên sông. Trời đã chạng vạng. Mặt nước không còn màu ánh vàng nữa mà chuyển sang màu xám ảm đạm.
Garrett Hanlon cầm một mái chèo từ dưới đáy xuồng lên, chèo vào bờ. “Chúng ta phải cập bờ ở chỗ nào đó”, gã nói. “Trước khi trời, nói chung, tối hẳn.”
Amelia Sachs nhận ra quang cảnh đã thay đổi. Cây cối đã thưa thớt đi và những vũng lầy lớn gặp gỡ dòng sông. Gã trai nói đúng, một chỗ ngoặt sai lầm sẽ có thể đưa họ vào một ngóc ngách của bãi lầy nào đấy mà không thể thoát ra được.
“Này cô, sao vậy?”, Garrett hỏi, trông thấy vẻ lo lắng trên gương mặt Sachs.
“Tôi đang cách quá xa Brooklyn.”
“Chỗ đó ở New York à?.”
“Phải”, Sachs nói
Garrett búng móng tay. “Và vì đang không ở đấy mà cô không yên lòng?”
“Chắc chắn là thế.”
Vừa lái xuồng vào bờ, Garrett vừa nói: “Đó là điều bọn côn trùng sợ hãi nhất”.
“Điều gì?”.
“Nói chung, thật kì lạ. Bọn chúng không ngại lao động, cũng không ngại chiến đấu. Tuy nhiên bọn chúng đều hoảng hốt hết cả khi rơi vào một môi trường xa lạ. Thậm chí nếu đấy là một môi trường an toàn. Bọn chúng ghét điều đó, không biết phải làm gì.”
Được, Sachs nghĩ, tôi cho rằng tôi là một con côn trùng mang thẻ cảnh sát. Cô thích cách diễn đạt của Lincoln hơn: cá trên cạn.
“Người ta luôn luôn nhận ra được khi nào thì một con côn trùng thực sự lo lắng. Nó cọ đi cọ lại râu… Râu của côn trùng bộc lộ tâm trạng của chúng. Giống như bộ mặt chúng ta vậy. Chỉ có điều…”, Garrett nói thêm đầy ẩn ý, “chúng không mang những bộ mặt giả vờ. Giống như chúng ta”. Gã cất tiếng cười kì cục - Sachs chưa nghe thấy tiếng cười kiểu ấy bao giờ.
Garrett nhẹ nhàng đu qua mạn xuồng bước xuống nước và kéo chiếc xuồng lên bờ. Sachs trèo ra. Gã dẫn cô đi xuyên rừng và dường như biết chính xác sẽ phải đi đến đâu bất chấp bóng tối chạng vạng và không có lối mòn nào mà cô trông thấy được cả.
“Làm sao cậu biết phải đi đến đâu?”, Sachs hỏi.
Garrett nói: “Tôi cho rằng tôi là loài Vương Điệp. Tôi có khả năng xác định phương hướng khá tốt”.
“Vương Điệp?”.
“Cô biết đấy, một loài bướm ấy mà. Chúng di cư xa cả nghìn dặm và biết chính xác phải bay đến đâu. Thực sự rất hay nhé – chúng xác định phương hướng theo mặt trời và tự động đổi đường bay phụ thuộc vào đường chân trời. Ồ, và khi trời u ám hoặc đêm tối, chúng sử dụng một giác quan khác – chúng cảm nhận được từ trường của trái đất”.
Khi một con dơi phóng ra một chùm âm thanh để tìm kiếm chúng, những con bướm đêm liền gấp cánh lại và thả mình rơi xuống đất, ẩn trốn.
Sachs đang mỉm cười trước bài giảng đầy nhiệt tình của Garrett thì cô đột ngột ngưng lại, khom mình xuống. “Nhìn kìa”, cô thì thầm. “Kia kìa! Có ánh sáng”.
Vùng ánh sáng yếu ớt phản chiếu trên mặt một cái ao âm u. Thứ ánh sáng màu vàng đáng sợ trông giống như ánh đèn lồng sắp tắt. Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Nhưng Garrett cười to.
Sachs nhìn gã dò hỏi.
Gã nói: “Chỉ là một hồn ma thôi”.
“Cái gì?”, Sachs hỏi.
“Đó là Thủy nữ Đầm lầy. Nói chung, cái cô gái Anh điêng này đã chết vào đêm trước lễ cưới. Hồn ma cô ta vẫn lội khắp đầm lầy Sầu Thảm tìm kiếm người con trai mà cô ta đáng lẽ sẽ lấy làm chồng. Chúng ta đang không ở khu vực đầm lầy Sầu Thảm, nhưng nó cũng gần đây”. Garrett hất đầu về phía ánh sáng mờ đục. “Thực ra thì đó chỉ là hiện tượng phát quang sinh học – một loài nấm khổng lồ phát sáng”.
Sachs không thích thứ ánh sáng kia. Nó gợi cho cô nhớ tới cái cảm giác bứt rứt trong lòng khi họ lái xe đi vào Tanner’s Corner sáng nay, trông thấy cỗ quan tài nhỏ giữa đám tang ấy.
“Tôi không thích khu vực đầm lầy này, dù có hay không có ma”, Sachs nói.
“Thế á?”, Garrett hỏi lại “Có thể rồi cô sẽ thấy thích. Một ngày nào đó”.
Gã dẫn Sachs đi dọc một con đường, và mười phút sau thì gã rẽ xuống một lối ngắn cho xe chạy vào nhà, um tùm cỏ mọc. Một cái nhà lưu động đỗ trên bãi đất trống. Trong bóng tối lờ mờ, cô không trông thấy được rõ ràng, nhưng dường như nó là một cái nhà lưu động đổ nát, nghiêng sáng một bên, gỉ sét, các lốp bẹp gí, phủ đầy dây thường xuân và rêu.
“Của cậu à?”
“Chà, đã nhiều năm không ai sống ở đây cả, nên tôi cho rằng nó là của tôi. Tôi có chìa khóa nhưng chìa khóa lại để đằng nhà. Tôi không kịp lấy.” Garrett đi vòng sang bên hông và cạy được một ô cửa sổ, đu lên chui vào qua đó. Lát sau, cửa ra vào mở ra.
Sachs bước vào. Garrett đang lục lọi cái tủ kê trong căn bếp bé tí. Gã tìm thấy diêm và châm chiếc đèn lồng đốt bằng khí Propane. Nó tỏa ra thứ ánh sáng màu vàng ấm áp. Gã mở một cái tủ khác, nhòm vào bên trong. “Tôi có ít khoai tây chiên Doritos, nhưng lũ chuột xơi mất rồi”. Garrett lôi ra một cái hộp nhựa, xem xét. “Nhai nát hết cả. Mẹ kiếp. Nhưng tôi có mì ống hiệu Farmer John. Ngon đấy. Tôi ăn suốt. Và cả ít đậu nữa.” Gã bắt đầu mở các hộp thực phẩm trong lúc Sachs nhìn xung quanh. Vài cái ghế, một cái bàn. Cô trông thấy trong phòng ngủ một cái nệm dơ dáy. Trên sàn phòng khách là chiếc gối và tấm thảm dày. Bản thân ngôi nhà lưu động đã toát ra vẻ nghèo khổ: đồ đạc và các cánh cửa nứt gãy, cửa sổ vỡ kính, những vết đạn xuyên trên tường, thảm ố bẩn đến mức chẳng tài nào giặt sạch được. Hồi cô còn làm cảnh sát tuần tra ở Sở Cảnh Sát New York, cô từng nhìn nhiều chốn đáng buồn như thế này – nhưng bao giờ cũng chỉ nhìn từ bên ngoài. Bây giờ thì đây chính là chốn dung thân tạm thời của cô.
Sachs nghĩ về lời Lucy nói ban sáng.
Luật lệ bình thường không áp dụng đối với bất kì ai ở phía Bắc sông Paquo. Cả chúng tôi lẫn bọn họ. Anh có thể thấy chính anh nhả đạn trước khi anh đọc cho người ta biết về các quyền của người ta và điều đó hoàn toàn không vấn đề gì cả.
Nhớ tới những phát súng săn quá đỗi bất ngờ, nhằm vào cô và Garrett.
Gã trai mắc mấy mảnh vải nhờn nhụa lên cửa sổ để tránh cho người ta trông thấy ánh sáng bên trong ngôi nhà. Gã bước ra ngoài một lát rồi quay vào, mang theo cái cốc han gỉ, đựng đầy nước mưa, có lẽ thế. Gã chìa cái cốc cho Sachs. Cô lắc đầu. “Cảm giác như tôi phải uống phân nửa nước sông Paquenoke.”
“Nước này hơn nước sông.”
“Tôi chắc chắn vậy. Dù sao tôi cũng không uống đâu.”
Garrett uống cạn cốc nước, rồi khuấy thức ăn đang đun trên chiếc bếp lò sử dụng khí propane. Bằng giọng êm ái, gã ngân nga mãi một giai điệu kì quặc: Farmer John, Farmer John. Hãy thưởng thức những thức ăn tươi ngon của Farmer John… Đó chỉ là một giai điệu quảng cáo, tuy nhiên cái giai điệu này gây tâm trạng bối rối không yên và Sachs thấy mừng khi gã thôi hát.
Sachs không định ăn, nhưng cô bất chợt nhận ra rằng mình đang đói muốn chết. Garrett đổ thức ăn vào hai cái bát và đưa cho cô chiếc thìa. Cô nhổ nước bọt vào chiếc thìa, lấy áo sơ mi lau. Họ im lặng ăn vài phút.
Sachs để ý thấy một âm thanh cất lên bên ngoài, một âm thanh cao, nghe chói tai. “Gì thế?”, cô hỏi. “Ve sầu à?”.
“Phải”, Garrett trả lời. “Chỉ những con đực mới kêu như thế thôi. Chỉ những con đực. Chúng tạo ra tất cả những âm thanh đó chỉ nhờ những tấm màng nhỏ trên thân”. Gã nheo mắt, ngẫm nghĩ một lát. “Cuộc đời của chúng hết sức kì lạ… Ấu trùng đào đất chui xuống và ở dưới ấy, nói chung, hai mươi năm, trước khi nở. Rồi chúng chui lên và leo lên cây. Vỏ của chúng nứt theo đường dọc, con ve sầu trưởng thành bò ra. Tất cả ngần ấy năm trong lòng đất, ẩn trốn, trước khi bò ra làm con ve sầu trưởng thành.”
“Tại sao cậu thích côn trùng đến vậy, Garrett?”, Sachs hỏi.
Gã ngập ngừng. “Tôi không biết. Tôi cứ thích thế thôi.”
“Cậu chưa bao giờ tự thắc mắc điều ấy à?”
Garrett ngừng ăn. Gã gãi một vết lằn đỏ vì lá sồi độc. “ Tôi nghĩ tôi bắt đầu quan tâm đến côn trùng từ sau khi bố mẹ tôi mất. Khi việc đó xảy ra tôi rất buồn bã. Tôi cảm thấy đầu óc mình không bình thường. Tôi bối rối và, tôi không biết, chỉ biết rằng không bình thường. Các giáo viên tham vấn tâm lý ở trường cứ bảo nguyên nhân là do cái chết của bố mẹ và đứa em gái tôi, và họ, nói chung, bảo tôi nên chịu khó làm việc hơn để vượt qua. Nhưng tôi không thể. Tôi cứ cảm thấy như tôi không phải một người thực sự. Tôi không quan tâm đến bất cứ thứ gì. Tôi chỉ nằm bẹp trên giường hoặc đi vào đầm lầy, vào rừng, đọc sách. Trong vòng một năm, tôi chỉ làm chừng ấy việc. Nói chung, tôi hầu như không giáp mặt ai. Cứ chuyển từ nhà cha mẹ nuôi này sáng nhà cha mẹ nuôi khác… Nhưng rồi tôi đã đọc được những chi tiết thú vị trong cuốn sách kia.”
Lật cuốn Thế giới thu nhỏ, Garrett tìm đến một trang. Gã đưa nó cho Sachs xem. Gã đã khoanh tròn đoạn có đầu đề là “Đặc điểm của những sinh vật lành mạnh”. Sachs lướt qua vài điểm trong số tám hay chín đểm được liệt kê.
- Một sinh vật lành mạnh luôn luôn nỗ lực để lớn lên và phát triển.
- Một sinh vật lành mạnh luôn luôn nỗ lực để sống sót.
- Một sinh vật lành mạnh luôn luôn nỗ lực để thích nghi với môi trường xung quanh.
Garrett nói: “Tôi đọc những điều ấy và, chà chà, xem chừng tôi có thể như thế được. Tôi có thể trở lại lành mạnh và bình thường. Tôi hết sức cố gắng làm theo các quy tắc kia. Và tôi cảm thấy khá hơn. Bởi vậy tôi cho rằng tôi trở nên gần gũi với chúng – ý tôi là đám côn trùng.”
Một con muỗi đậu xuống cánh tay Sachs. Cô cười to. “Nhưng chúng cũng uống máu người ta nữa.” Cô đập cho nó một phát. “Hết đời cu cậu.”
“Cô ả chứ”, Garrett đính chính. “Chỉ muỗi cái mới hút máu thôi. Muỗi đực hút mật hoa.”
“Thật à?”
Garrett gật đầu rồi im lặng một lát. Gã nhìn cái chấm máu trên cánh tay Sachs. “Côn trùng không bao giờ biến mất.”
“Ý cậu là gì?”
Garrett tìm đến một đoạn khác trong cuốn sách, đọc to. “Nếu có những sinh vật nào được gọi là bất tử thì đó chính là côn trùng, những sinh vật đã tồn tại trên trái đất hàng triệu năm trước khi các loài thú xuất hiện và sẽ vẫn còn tồn tại dài lâu sau khi đời sống văn minh chấm dứt”. Garrett đặt cuốn sách xuống, ngẩng nhìn Sachs. “Cô thấy đấy, vấn đề là, nếu cô giết chết một con sẽ vẫn còn nhiều con khác. Nếu bố mẹ và đứa em gái tôi là côn trùng thì khi họ qua đời sẽ có những người khác giống như họ và tôi sẽ không phải đơn độc.”
“Cậu không có bạn bè à?”
Garrett nhún vai. “Mary Beth. Cô ấy gần như là bạn duy nhất.”
“Cậu thực sự thích cô ấy, phải không?”
“Thực sự. Cô ấy đã cứu tôi khỏi cái thằng nhãi đang định giở trò đê tiện ra với tôi. Và, ý tôi là, cô ấy đã trò chuyện với tôi…” Garrett nghĩ ngợi một lát. “Tôi cho rằng vì thế mà tôi thích cô ấy. Trò chuyện. Tôi nghĩ, nói chung, có thể vài năm nữa, khi tôi nhiều tuổi hơn, cô ấy biết đâu sẽ muốn hẹn hò với tôi. Chúng tôi có thể làm những việc mà những người khác vốn vẫn làm. Cô biết đấy, đi xem phim. Hay đi dã ngoại. Tôi đã quan sát cô ấy trong một chuyến đi dã ngoại. Cô ấy đi cùng mẹ và mấy người bạn. Họ vui vẻ lắm. Tôi đã quan sát, nói chung, hàng tiếng đồng hồ. Tôi cứ ngồi dưới một bụi nhựa ruồi, với ít nước và khoai tây chiên Doritos, giả vờ như mình đang tham gia cùng họ. Cô đã bao giờ đi dã ngoại chưa?”
“Rồi, tất nhiên.”
“Tôi từng thường xuyên đi cùng gia đình. Ý tôi là gia đình thực sự của tôi ấy. Tôi đã rất thích. Mẹ và Kaye bày biện bàn và nướng các thứ trên cái bếp Kmart nhỏ. Bố và tôi tháo giày, tất ra, đứng xuống nước câu cá. Tôi vẫn nhớ cái cảm giác khi chân sục vào bùn với nước lạnh.”
Sachs tự hỏi phải chăng đây là lý do khiến Garrett thích nước và côn trùng dưới nước đến vậy. “Và cậu cho rằng cậu sẽ đi dã ngoại cùng Mary Beth?”
“Tôi không biết. Có thể.” Rồi Garrett lắc đầu, mỉm cười buồn bã. “Tôi cho rằng không đâu. Mary Beth xinh xắn, thông minh, hơn tôi nhiều tuổi thế. Rốt cuộc thì cô ấy sẽ hẹn hò với một người nào đó đẹp trai, thông minh. Nhưng chúng tôi có thể làm bạn, cô ấy và tôi. Thậm chí nếu không được vậy, tất cả những gì tôi thực sự quan tâm là cô ấy được an toàn. Cô ấy sẽ ở với tôi đến chừng nào hết nguy hiểm. Hoặc cô và bạn cô, cái ông ngồi xe lăn mà mọi người đều nói tới ấy, ông ta và cô có thể giúp đỡ cô ấy đi đến nơi nào an toàn.” Gã nhìn ra ngoài cửa sổ, không nói gì nữa.
“Thoát khỏi gã đàn ông mặc quần yếm à?”, Sachs hỏi.
Garrett chưa trả lời ngay, rồi gật đầu. “Phải, đúng thế.”
“Tôi đi lấy ít nước”, Sachs nói
“Khoan.” Garrett dứt mấy chiếc lá khô từ cái cành nhỏ nằm trên kệ bếp, bảo cô chà lên hai cánh tay trần, lên cổ và má. Mùi thảo dược sực nức. “Đấy là sả”, gã giải thích. “Để đuổi lũ muỗi đi. Cô sẽ không phải đập chúng nữa.”
Sachs cầm cái cốc lên. Cô đi ra ngoài, nhìn thùng nước mưa. Nó được đậy bằng một tấm lưới mắt mau. Cô nhấc tấm lưới ra, múc nước đầy cốc, uống cạn. Nước dường như có vị ngọt. Cô lắng nghe tiếng rúc và tiếng bay vun vút của đám côn trùng.
Hoặc cô và bạn cô, cái ông ngồi xe lăn mà mọi người đều nói tới ấy, ông ta và cô có thể giúp đỡ cô ấy đi đến nơi an toàn.
Mấy lời kia cứ vang vọng trong đầu óc Sachs: Cái ông ngồi xe lăn, cái ông ngồi xe lăn.
Cô quay vào, đặt cái cốc xuống, nhìn xung quanh phòng khách bé tí. “Garrett, cậu làm hộ tôi một việc được không?”
“Tôi nghĩ là được”.
“Cậu tin tưởng tôi chứ?”
“Tôi nghĩ thế.”
“Hãy ngồi xuống ở đằng kia.”
Garrett nhìn Sachs một lát rồi đứng lên, bước tới trước chiếc ghế bành cũ kĩ mà cô đang hất đầu chỉ. Sachs bước ngang qua căn phòng bé tí, nhấc một trong số những chiếc ghế dựa mây đặt trong góc phòng lên. Cô mang nó đến chỗ gã trai ngồi và đặt quay vào gã.
“Garrett, cậu nhớ việc Tiến sĩ Penny bảo cậu làm lúc ở nhà giam không? Với chiếc ghế trống ấy?”
“Nói chuyện với chiếc ghế à?”, Garrett hỏi, ngập ngừng nhìn chiếc ghế. Gã gật đầu. “Trò chơi đó hả?”
“Phải. Tôi muốn cậu làm lại. Được không?”
Garrett lưỡng lự, chùi hai bàn tay vào ống quần, nhìn chằm chằm chiếc ghế một hồi. Cuối cùng, gã nói: “Tôi nghĩ là được”.
Chú Thích:
<36> Một mẫu Anh bằng gần 4047m2