PHẦN 3: CUỘC ĐẤU TAY ĐÔI
CHƯƠNG 31
Dịch giả: Đinh Minh Hương
Nguồn: NXB Văn học
Nội dung thu gọn
Amelia Sachs hình dung lại phòng thẩm vấn và phần làm việc của nhà tâm lý học.
Từ vị trí quan sát thuận lợi của mình, Sachs đã quan sát kĩ lưỡng gã trai qua tấm gương một chiều. Cô nhớ ông bác sĩ đã cố gắng như thế nào để ép gã tưởng tượng rằng Mary Beth đang ngồi trên chiếc ghế đó nhưng, mặc dù Garrett không muốn nói gì với cô gái, gã rõ ràng muốn nói chuyện với một người nào đấy. Cô đã nhìn thấy vẻ mặt gã, vẻ mặt chờ đợi, thất vọng – và giận dữ nữa, cô đinh ninh như vậy – khi ông bác sĩ kéo gã ra khỏi cái chỗ gã muốn đi tới.
Ôi, Rhyme, em hiểu rằng anh vốn vẫn ưa những chứng cứ cứng rắn, lạnh lùng. Rằng chúng ta không thể phụ thuộc vào những thứ “mềm yếu” ấy được – những lời lẽ, những vẻ mặt, những giọt nước mắt, và ánh nhìn của một người khi ta ngồi đối diện họ, lắng nghe những câu chuyện họ kể… Nhưng điều ấy không có nghĩa là những câu chuyện họ kể luôn luôn giả dối. Em tin tưởng rằng chứng cứ chưa nói hết với chúng ta về Garrett Hanlon đâu.
“Hãy nhìn chiếc ghế”, Sachs bảo. “Cậu muốn tưởng tượng ai đang ngồi kia?”
Garrett lắc đầu. “Tôi không biết.”
Sachs đẩy chiếc ghế lại gần hơn. Cô mỉm cười khuyến khích gã. “Hãy nói cho tôi nghe nào. Có vấn đề gì đâu. Một cô gái à? Hay một người nào đấy ở trường học?”
Garrett lại lắc đầu.
“Hãy nói cho tôi nghe nào.”
“Chà, tôi không biết. Có lẽ…” Garrett ngừng một chút, rồi buột thốt ra: “Có lẽ là bố tôi”.
Sachs khó chịu nhớ tới ánh mắt lạnh lẽo và cách cư xử thô lỗ của Hal Babbage. Cô cho rằng Garrett sẽ có nhiều điều để nói với ông ta.
“Chỉ bố cậu thôi à? Hay cả ông ấy và bà Babbage?”
“Không, không, không phải ông ta. Ý tôi là bố đẻ của tôi cơ.”
“Bố đẻ của cậu?”.
Garrett gật đầu. Gã bối rối, căng thẳng, Liên tục búng móng tay.
Râu của côn trùng bộc lộ tâm trạng chúng…
Nhìn bộ mặt lo lắng của Garrett, Sachs băn khoăn nhận ra rằng cô không biết gì về việc mình đang làm. Chắc chắn có vô số cách mà các nhà tâm lý học thực hiện để khuyến khích bệnh nhân nói, để hướng dẫn họ, để bảo vệ họ, khi họ áp dụng bất cứ liệu pháp nào. Liệu có nguy cơ cô sẽ khiến Garrett rơi vào tình trạng tồi tệ hơn không? Đẩy cho gã vượt quá một ranh giới nào đấy và vì thế sẽ thực sự có hành vi bạo lực, làm hại bản thân hoặc người khác? Dù sao, cô cũng vẫn thử. Biệt hiệu của Sachs ở Sở Cảnh sát New York là “con gái cớm tuần tra”, con gái một cảnh sát tuần tra khu vực, và cô rõ ràng mang những đặc điểm giống cha mình: niềm say mê ô tô, tình yêu đối với nghề nghiệp, sự thiếu kiên nhẫn trước những thứ vớ vẩn, và đặc biệt là năng khiếu tâm lý học đường phố. Lincoln Rhyme hay gièm pha cô là một “cảnh sát nhân dân” và cảnh báo rằng điều đó sẽ đem đến cho cô kết cục thảm hại. Anh ca tụng cô là nhà hình sự học tài ba và, tuy cô đúng là nhà khoa học khám nghiệm có tài, về mặt tâm hồn, cô giống hệt cha. Đối với Amelia Sachs, những chứng cứ hữu ích nhất là những chứng cứ tìm thấy trong trái tim con người.
Ánh mắt Garrett lang thang về phía cửa sổ, nơi những con bọ cứ va vào khung lưới han gỉ ý như muốn tự sát.
“Bố cậu tên gì?”, Sachs hỏi.
“Stuart. Stu.”
“Cậu đã gọi ông ấy như thế nào?”
“Thường thì là bố, đôi khi là cha”. Garrett mỉm cười buồn bã. “Trong trường hợp tôi trót làm sai điều gì và nghĩ rằng mình nên, nói chung, cư xử cho tốt”.
“Cậu và bố cậu hòa thuận với nhau chứ?”
“Hòa thuận hơn phần lớn bạn bè tôi và bố chúng. Thi thoảng chúng lại bị ăn đòn và bố chúng lúc nào cũng quát tháo chúng. Cô biết đấy, đại loại như: “Tại sao mày không đạt được mục tiêu đó?”, “Tại sao phòng mày lộn xộn thế?” , “Tại sao mày quên làm bài tập?.” Nhưng bố tôi thì luôn luôn nhẹ nhàng với tôi. Cho tới khi…” Giọng Garrett nhỏ đi.
“Tiếp tục nào.”
“Tôi không biết.” Lại một cái nhún vai nữa.
Sachs kiên trì. “Cho tới khi làm sao, Garrett?”
Im lặng.
“Hãy nói ra nào.”
“Tôi không muốn nói với cô. Thật là một việc ngớ ngẩn.”
“Chà, không phải nói với tôi. Nói với ông ấy cơ, bố cậu”. Sachs hất đầu chỉ chiếc ghế. “Bố cậu đang ở kia, trước mặt cậu. Hãy tưởng tượng như thế.” Gã trai dịch người về phía trước, nhìn chằm chằm chiếc ghế, gần như là ghê sợ.” Stu Hanlon đang ngồi kia. Hãy nói với ông ấy”.
Trong một khoảnh khắc, ánh mắt gã trai xuất hiện vẻ chờ đợi khiến Sachs muốn phát khóc. Cô biết họ đã đến gần điều gì đó quan trọng và cô lo sợ gã sẽ chùn lại. “Hãy kể cho tôi nghe về ông ấy.” Cô nói, hơi thay đổi chiến thuật. “Hãy kể cho tôi nghe xem ông ấy trông như thế nào. Ông ấy hay mặc quần áo ra sao”.
Sau một chút im lặng, gã trai nói: “Bố tôi cao và hơi gầy. Tóc ông thẫm màu và ngay sau khi cắt thì chúng cứ dựng đứng hết lên. Trong vòng vài ngày sau đó ông phải bôi một thứ keo có mùi thơm thơm để tóc ẹp xuống. Ông bao giờ cũng ăn mặc khá tươm tất. Ông thậm chí không mặc quần bò, tôi nghĩ là ông không mặc. Ông bao giờ cũng mặc sơ mi, cô biết đấy, có cổ cồn. Và quần có gấu lơ-vê”. Sachs nhớ lại rằng khi khám xét phòng gã cô đã chú ý tới việc gã không có quần bò mà chỉ có quần vải gấu lơ-vê. Một nụ cười yếu ớt hiện trên gương mặt Garrett.” Ông hay thả cho một đồng hai mươi nhăm xu rơi dọc theo ống quần và cố gắng dùng gấu lơ-vê bắt lấy nó, nếu được thì ông sẽ cho em gái tôi và tôi. Nói chung, đó là trò mà chúng tôi hay chơi. Vào dịp Giáng sinh, ông mang về nhà những đồng đô la bạc và cứ thả chúng trượt dọc theo ống quần cho tới lúc anh em tôi bắt được.”
Những đồng đô la bạc trong cái lọ đựng ông bắp cày, Sachs nhớ lại.
“Ông ấy có sở thích gì không? Chơi thể thao chẳng hạn?”
“Bố tôi thích đọc. Ông hay đưa chúng tôi tới hiệu sách và đọc cho chúng tôi nghe. Rất nhiều sách về lịch sử và du lịch. Và sách về thiên nhiên. Ồ, ông còn hay đi câu cá. Gần như cuối tuần nào cũng đi.”
“Chà, hãy tưởng tượng rằng ông ấy đang ngồi trên chiếc ghế trống kia, mặc chiếc quần đẹp cùng với chiếc sơ mi có cổ cồn. Và ông ấy đang đọc một cuốn sách. Được không?”.
“Tôi nghĩ là được.”
“Ông ấy đặt cuốn sách xuống…”
“Không, đầu tiên thì ông, nói chung, sẽ đánh dấu đoạn đang đọc. Ông có vô số các cái đánh dấu sách. Ông gần như sưu tầm chúng. Em gái tôi và tôi đã tặng ông một cái vào dịp Giáng sinh trước khi xảy ra tai nạn.”
“Được rồi. Ông ấy đánh dấu đoạn đang đọc và đặt cuốn sách xuống. Ông ấy nhìn cậu. Bây giờ, cậu có cơ hội để nói một điều gì đó với ông ấy. Cậu sẽ nói gì?”.
Garrett nhún vai, lắc đầu. Nhìn xung quanh căn nhà lưu động tối lờ mờ, vẻ căng thẳng.
Nhưng Sachs sẽ không mặc kệ.
Cuộc đấu tay đôi…
Cô nói: “Hãy nghĩ về một điều cụ thể mà cậu muốn nói với ông ấy. Một tai nạn chẳng hạn. Chuyện gì đó khiến cậu buồn bã. Có chuyện gì như thế không?”.
Nhưng bố tôi luôn luôn nhẹ nhàng với tôi. Cho tới khi…
Gã trai nắm chặt hai bàn tay vào nhau, tay nọ xát vào tay kia, móng tay búng tanh tách.
“Hãy nói với ông ấy đi, Garrett.”
“Được rồi. Tôi nghĩ là có một chuyện.”
“Chuyện gì?”
“Ờ, buổi tối đó… buổi tối bố mẹ và đứa em gái tôi qua đời.”
Sachs thoáng rùng mình. Cô biết rằng với chuyện này họ có lẽ sẽ trải qua những khoảnh khắc đầy khó khăn. Trong giây lát, cô nghĩ tới việc rút lui. Nhưng rút lui vốn không phải bản chất của Amelia Sachs và bây giờ cô cũng không muốn hành động như vậy. “Buổi tối ấy làm sao? Cậu muốn nói với bố cậu về việc gì đó đã xảy ra à?”
Garrett gật đầu. “Đấy, bố mẹ và đứa em gái tôi chuẩn bị lái xe đi ăn tối. Đó là một ngày thứ Tư. Thứ Tư hàng tuần chúng tôi lại tới quán Bennigan. Tôi thích món gà tẩm bột rán. Tôi luôn luôn gọi món gà tẩm bột rán kèm khoai tây chiên và một lon Coke. Còn Kaye, em gái tôi thì gọi hành thái khoanh tẩm bột rán, rồi anh em tôi chia nhau chỗ hành và khoai tây. Đôi khi, chúng tôi bóp chai xốt cà chua ra vẽ lên một cái đĩa đã hết thức ăn.” Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Bỗng mặt Garrett tái nhợt và phiền muộn. Biết bao nhiêu đau khổ hiển hiện trong ánh mắt gã, Sachs nghĩ. Cô đấu tranh dằn những tình cảm riêng xuống. “Cậu nhớ gì về buổi tối ấy?”.
“Lúc đó là ở bên ngoài trời. Trên lối vào nhà. Họ đã ở trong xe, bố, mẹ và em gái. Họ chuẩn bị đi ăn. Và”, Garrett nuốt nước bọt, “vấn đề là họ chuẩn bị đi mà không có tôi”.
“Thế ư?”
Gã gật đầu. “Tôi về nhà muộn. Trước đó, tôi vào rừng ở Bến tàu kênh Nước đen. Tôi hầu như quên khuấy mất thời gian. Tôi đã phải chạy, nói chung, mất nửa dặm, hoặc đại loại vậy. Nhưng bố tôi không cho tôi lên. Ông hẳn rất tức giận vì tôi về nhà muộn. Tôi muốn lên xe biết bao. Trời rất lạnh. Tôi nhớ là tất cả chúng tôi đều run cầm cập. Tôi nhớ là có sương giá bám trên các cửa sổ xe. Nhưng ba người dứt khoát không cho tôi lên”.
“Biết đâu bố cậu không trông thấy cậu. Vì cửa sổ xe bị sương giá bám.”
“Không, ông trông thấy tôi mà. Tôi ở ngay phía ông ngồi. Tôi đập ầm ầm vào kính cửa sổ và ông trông thấy tôi nhưng không mở cửa. Ông chỉ cau màu và quát tôi mãi. Trong khi tôi cứ bám riết lấy ý nghĩ: Bố điên tiết với mình, còn mình thì lạnh và mình sẽ chẳng được ăn món gà tẩm bột rán kèm khoai tây chiên. Mình sẽ chẳng được ăn tối cùng gia đình”. Nước mắt chảy dài trên má Garrett.
Sachs muốn quàng tay ôm lấy vai gã trai, tuy nhiên cô vẫn ngồi nguyên tại chỗ. “Tiếp tục nào”. Cô hất đầu chỉ chiếc ghế. “Hãy trò chuyện với bố cậu. Cậu muốn nói gì với ông ấy?” Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Garrett nhìn Sachs, nhưng cô chỉ chiếc ghế. Cuối cùng, Garrett cũng quay về phía nó. “Trời lạnh lắm”, gã hổn hển. “Trời lạnh và tôi muốn lên xe. Tại sao bố tôi chẳng cho tôi lên xe chứ?”.
“Không, hãy nói với ông ấy. Hãy tưởng tượng rằng ông ấy đang ở kia.”
Sachs nghĩ: Đây chính là cái cách Rhyme vốn vẫn thúc ép cô tưởng tượng rằng mình là đối tượng tại hiện trường vụ án. Thực hiện điều ấy thật khổ sở vô cùng và bây giờ cô cảm nhận được hết sức rõ ràng nỗi hãi sợ của gã trai. Tuy nhiên, cô không ngừng lại. “Hãy nói với ông ấy – hãy nói với bố cậu”.
Garrett lo lắng nhìn chiếc ghế dựa cũ kỹ. Gã vươn người ra phía trước. “Con…”
Sachs thì thầm: “Nói đi, Garrett. Không sao đâu. Tôi sẽ không để bất cứ chuyện gì xảy ra với cậu đâu. Hãy nói với ông ấy đi nào.”
“Con chỉ muốn đến quán Bennigan cùng bố mẹ và Kaye!” Garrett nức nở nói “Có thế thôi. Nói chung, chỉ để ăn tối, cả nhà mình. Con chỉ muốn đi cùng bố mẹ và Kaye. Tại sao bố không cho con lên xe? Bố trông thấy con chạy tới và bố khóa cửa xe lại. Con có về muộn đến thế đâu!” Rồi Garrett trở nên giận dữ. “Bố khóa con bên ngoài! Bố điên tiết với con và như thế là không công bằng. Việc con đã làm, về nhà muộn… nó không tồi tệ tới mức ấy. Con hẳn đã làm việc gì đó khác khiến bố điên tiết. Việc gì? Tại sao bố không muốn con đi cùng? Hãy nói xem con đã làm việc gì?”. Gã nghẹn giọng. “Hãy trở lại và nói cho con biết đi. Hãy trở lại! Con muốn biết! Con đã làm gì? Hãy nói cho con biết, nói cho con biết, nói cho con biết!”
Nức nở, Garrett nhảy lên đá mạnh vào chiếc ghế trống. Nó văng ngang qua căn phòng và đổ nghiêng. Gã túm lấy chiếc ghế, vừa thét lên trong cơn cuồng nộ vừa quật nó xuống sàn. Sachs lùi lại, chớp mắt bàng hoàng trước nỗi tức tối mà cô vừa giải phóng ra. Gã quật chiếc ghế cả chục lần cho tới lúc nó vỡ tan tành thành từng mảnh. Rốt cuộc, Garrett đổ sụp xuống sàn, vòng hai tay ôm lấy mình. Sachs đứng lên và ôm lấy gã trong khi gã vừa nức nở vừa lắc đầu.
Năm phút sau, gã thôi khóc, đứng lên, lấy ống tay áo lau mặt.
“Garrett”, Sachs thì thầm.
Nhưng gã lắc đầu. “Tôi ra ngoài đây”, gã nói, rồi đứng lên đẩy cánh cửa.
Sachs ngồi một lát, băn khoăn không biết phải làm gì. Cô hoàn toàn kiệt sức, tuy nhiên cô không nằm xuống tấm nệm mà Garrett để cho cô, không cố gắng ngủ. Cô thổi tắt ngọn đèn lồng và kéo mấy mảnh vải khỏi cửa sổ, rồi buông mình vào chiếc ghế bành mốc meo. Cô vươn người về phía trước, ngửi mùi hăng hăng của cây sả, và quan sát cái bóng ngồi lom khom của gã trai bên ngoài trời, bên một gốc sồi, chăm chú nhìn những bầy đom đóm bay lập lòe khắp khu rừng vây xung quanh gã.
16.06.2015
PHẦN 3: CUỘC ĐẤU TAY ĐÔI
CHƯƠNG 32
Dịch giả: Đinh Minh Hương
Nguồn: NXB Văn học
Nội dung thu gọn
Linconln Rhyme lẩm bẩm: “Tôi không tin”.
Anh vừa nói chuyện với Lucy Kerr đang đầy giận dữ và biết rằng Sachs đã bắn mấy phát vào một cảnh sát dưới gầm cầu Hobeth.
“Tôi không tin”, Rhyme thì thầm nhắc lại với Thom.
Anh chàng phụ tá là bậc thầy trong việc đương đầu với những cơ thể không còn lành lặn và những tâm hồn không còn lành lặnxuất phát từ những cơ thể bệnh tật. Nhưng đây là một vấn đề khác, khó khăn hơn, và anh ta chẳng thể làm được gì hơn ngoài việc đưa ra ý kiến: “Đây là một sự nhầm lẫn. Đây ắt phải là một sự nhầm lẫn. Amelia không bao giờ hành động như thế”.
“Cô ấy không bao giờ”, Rhyme lẩm bẩm. Lần này, sự phủ nhận được đưa ra với Ben. “Không đời nào. Ngay cả là để dọa họ.” Anh tự nhủ rằng Sachs không bao giờ đi bắn vào một đồng nghiệp, ngay cả chỉ để dọa họ. Tuy nhiên, anh cũng nghĩ tới những gì mà người ta khi tuyệt vọng có thể làm. Những sự liều lĩnh điên rồ mà người ta sẵn sàng chấp nhận. (Ôi, Sachs, tại sao em lại hấp tấp và bướng bỉnh đến thế? Tại sao em lại phải giống anh đến thế?)
Bell đang ở trong văn phòng phía bên kia hành lang. Anh có thể nghe thấy những lời âu yếm anh ta nói vào điện thoại. Anh đồ là vợ và gia đình viên cảnh sát trưởng vốn không quen với chuyện anh ta về muộn buổi tối, việc thực thi pháp luật tại một thị trấn như Tanner’s Corner có lẽ chẳng đòi hỏi nhiều thời gian như vụ Garrett Hanlon này.
Ben Kerr ngồi bên cạnh một chiếc kính hiển vi, hai cánh tay hộ pháp khoanh trước ngực. Anh ta nhìn chằm chằm tấm bản đồ. Khác với viên cảnh sát trưởng, anh ta chẳng hề gọi điện về nhà, và Rhyme băn khoăn tự hỏi liệu anh ta có vợ hay bạn gái không, hay phải chăng toàn bộ cuộc đời của anh chàng bẽn lẽn này chỉ dành cho khoa học và các bí ẩn dưới đáy đại dương.
Viên cảnh sát trưởng cúp máy. Anh ta quay vào la-bô. “Anh có thêm ý kiến gì không, Lincoln?”
Rhyme hất đầu chỉ bảng chứng cứ.
TÌM THẤY TẠI HIỆN TRƯỜNG GIÁN TIẾP – CỐI XAY
Sơn nâu dây trên quần
Cây gọng vó
Đất sét
Rêu nước
Nước trái cây
Sợi giấy
Viên chua làm mồi câu
Đường
Camphene
Chất cồn
Dầu hỏa
Men nở
Rhyme lặp lại những gì họ đã biết về ngôi nhà nơi đang giam giữ Mary Beth. “Có một cái vũng Carolina trên đường đến chỗ đó hoặc gần chỗ đó. Phân nửa các đoạn đánh dấu ở mấy cuốn sách về côn trùng của hắn liên quan tới sự ngụy trang và màu sơn nâu dây trên quần hắn là màu vỏ cây, bởi vậy chỗ đó có lẽ là trong rừng hoặc bên cạnh rừng. Những cái đèn đốt bằng camphene xuất hiện từ thế kỉ XIX, nên chỗ đó phải được xây dựng lâu rồi, có lẽ là vào thời Victoria. Nhưng những dấu vết khác không hữu ích mấy. Men nở là từ cối xay. Sợi giấy thì từ bất cứ chỗ nào cũng được. Còn nước trái cây và đường? Từ đồ ăn và đồ uống Garrett sử dụng. Tôi hoàn toàn chẳng thể nào…”
Điện thoại reo.
Ngón đeo nhẫn bên trái của Rhyme động trên bộ phận điều khiển điện tử và anh nhận cuộc gọi.
“A lô”, anh nói vào loa ngoài.
“Lincoln à”.
Anh nhận ra cái giọng nhẹ nhàng, mệt mỏi của Mel Cooper.
“Anh có thông tin gì, Mel? Tôi cần chút tin tức tốt lành.”
“Tôi hy vọng là tin tức tốt. Chiếc chìa khóa các anh tìm thấy ấy. Chúng tôi đã tra cứu các tài liệu gốc và cơ sở dữ liệu suốt đêm. Cuối cùng cũng lần ra được xuất xứ của nó.”
“Là thế nào?”
“Là chìa khóa một cái nhà lưu động do công ty nhà lưu động McPherson Deluxe đóng. Loại nhà này được đóng từ năm 1946 đến đầu thập niên 1970. Công ty đó đã ngừng hoạt động, nhưng theo tài liệu hướng dẫn thì số seri trên chiếc chìa khóa các anh tìm thấy phù hợp với một cái nhà được đóng năm 1969.”
“Có mô tả gì không?”
“Tài liệu hướng dẫn không thấy in ảnh”.
“Khỉ gió. Hãy nói tôi nghe xem, liệu người ta có sống trong một cái nhà lưu động đỗ tại bãi đỗ không? Hay người ta lái nó đi lung tung, giống như lái những chiếc Winnebago?”.
“Tôi cho rằng người ta sống trong đó. Chúng có kích thước tám nhân hai mươi. Không phải loại lái đi chỗ này chỗ khác được. Dù sao thì chúng cũng không có động cơ. Khi di chuyển, người ta phải kéo chúng.” Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
“Cảm ơn, Mel. Ngủ một chút đi.”
Rhyme cúp máy. “Anh nghĩ thế nào, Jim? Có bãi đỗ nhà lưu động nào xung quanh đây không?”
Viên cảnh sát trưởng xem chừng ngờ vực. “Có mấy bãi đỗ dọc theo đường 17 và đường 158. Nhưng chúng thậm chí không ở gần địa điểm mà Garrett và Amelia đang nhắm đến. Lại đông đúc nữa. Khó lòng ẩn trốn được ở một chỗ như thế. Tôi nên cử ai đó đi kiểm tra chăng?”.
“Cách đây bao xa?”
“Bảy, tám mươi dặm”.
“Không, Garrett có lẽ đã phát hiện được một cái nhà lưu động bị bỏ hoang ở chỗ nào đấy trong rừng và chiếm lấy nó”. Rhyme liếc nhìn tấm bản đồ. Anh nghĩ: Và nó đỗ ở chỗ nào đấy giữa một trăm dặm vuông hoang vu.
Anh cũng băn khoăn tự hỏi: Gã trai đã tháo tay khỏi còng chưa? Hắn có lấy được khẩu súng của Sachs chưa? Ngay lúc này đây liệu cô có đang ngủ, không cảnh giác đề phòng, liệu Garrett có đang đợi tới lúc cô thiếp đi chẳng còn biết gì. Gã ngồi dậy, bò đến gần cô với một tảng đá hoặc một tổ ong bắp cày…
Nỗi sốt ruột chạy dọc cơ thể Rhyme. Anh ngả đầu ra phía sau, nghe thấy một khớp xương kêu đánh cắc. Anh cứng người, lo sợ tình trạng co rút nhức nhối thi thoảng cứ tra tấn các bắp thịt vẫn còn liên hệ với những tế bào thần kinh chưa chết. Có vẻ hoàn toàn bất công khi chính cái chấn thương khiến cho phần lớn cơ thể người ta tê liệt đồng thời lại khiến các vùng vẫn còn cảm giác phải chịu đau đớn kinh khủng.
Lần này sự đau đớn không xuất hiện, nhưng Thom để ý thấy vẻ hốt hoảng trên gương mặt sếp mình.
Anh chàng phụ tá nói: “Lincoln, cẩn thận đấy … Tôi sẽ đo huyết áp cho anh và anh sẽ đi nằm. Không tranh luận gì cả”.
“Được rồi, Thom, được rồi. Chỉ có điều chúng ta phải gọi một cú điện thoại trước đã.”
“Hãy nhìn xem mấy giờ rồi… Bây giờ thì ai còn thức nữa?”
“Vấn đề không phải là ai còn thức”, Rhyme mệt mỏi nói. “Vấn đề là ai sẽ thức dậy.”
Nửa đêm. Trong đầm lầy.
Tiếng côn trùng. Những bóng dơi chao liệng. Một, hai con cú. Ánh trăng bàng bạc như băng.
Lucy và mấy đồng nghiệp đi bộ bốn dặm đến đường 30, nơi chiếc xe cắm trại đợi họ. Bell đã tác động và “trưng dụng” được chiếc xe từ Công ty Fred Fisher Winnebagos. Steve Farr lái nó tới đây đợi đội tìm kiếm, để họ có chỗ nghĩ qua đêm.
Họ bước vào lòng xe chật chội. Jesse, Trey và Ned ăn ngấu nghiến bánh sandwich kẹp thịt bò nướng do Farr mang tới. Lucy uống một chai nước, không ăn. Farr và Bell – quý hóa làm sao – cũng đã chuẩn bị những bộ đồng phục sạch sẽ cho mấy người.
Cô gọi và bảo Bell rằng đội tìm kếm đã lần theo dấu vết hai kẻ kia tới một ngôi nhà nghỉ kiến trúc theo kiểu chữA trước đó đã bị đột nhập. “Xem chừng bọn họ đã ngồi xem tivi, anh có thể tin như thế.”
Nhưng trời tối quá rồi không lần theo dấu vết được nữa và đội tìm kiếm quyết định đợi đến bình minh sẽ tiếp tục.
Lucy cầm lên bộ quần áo sạch, bước vào buồng tắm. Trong cái buồng tắm đứng bé tí, cô vặn nhỏ dòng nước cho chảy dọc xuống thân mình. Hai bàn tay cô vò tóc, rồi xoa mặt, cổ, và lần nào cũng vậy, xoa bộ ngực phẳng một cách ngập ngừng, cảm nhận những đường gờ lên của cái sẹo, rồi hai bàn tay trở nên dứt khoát hơn khi di chuyển xuống bụng và đùi.
Lucy băn khoăn không biết tại sao cô có sự ác cảm như thế đối với việc sử dụng silicon hay phẫu thuật tái tạo, mà theo lời bác sĩ giải thích thì là lấy mỡ ở đùi hoặc mông để làm lại ngực. Thậm chí có thể làm lại được cả núm vú – hay xăm hình.
Vì, cô tự nhủ, đó là của giả. Vì đó chẳng phải của thật.
Và, thế thì, tại sao lại phải mất công chứ?
Nhưng rồi, Lucy nghĩ, hãy nhìn cái người tên là Lincoln Rhyme đó. Anh ta chỉ là một kẻ tàn tật. Chân tay anh ta là của giả - là một chiếc xe lăn và một anh chàng phụ tá. Tuy nhiên, nghĩ đến anh ta cô lại nghĩ đến Amelia Sachs và nỗi tức giận lại thiêu đốt cô. Cô gạt những ý nghĩ ấy sang bên, lau khô người và mặc chiếc áo phông vào, lơ đãng nghĩ tới ngăn kéo đựng áo lót ở cái tủ gương trang điểm trong phòng dành cho khách trong ngôi nhà của cô – nhớ ra rằng cô định vứt chúng đi suốt hai năm qua. Nhưng, vì lý do nào đấy, cô chưa làm. Tiếp theo, cô mặc bộ đồng phục. Cô bước ra khỏi buồng tắm. Jesse đang gác điện thoại.
“Có thông tin gì không?”.
“Không”, anh ta nói. “Họ vẫn đang nghiên cứu các chứng cứ, Jim và ông Rhyme.”
Lucy lắc đầu từ chối suất ăn Jesse đưa cho cô, rồi ngồi xuống bên bàn, rút khẩu súng lục công vụ ra khỏi bao. “Steve?”, cô gọi.
Anh chàng trẻ tuổi tóc cắt cua ngẩng lên khỏi tờ báo đang đọc, nhướn một bên lông mày.
“Cậu có mang theo thứ tôi yêu cầu không?”
“Ồ, có.” Farr lục khoang đựng đồ dưới bảng đồng hồ và đưa cho Lucy hộp đạn Remington sơn hai màu vàng – xanh. Cô tháo những viên đạn đầu tròn ra khỏi khẩu súng lục và ổ nạp nhanh, thay thế những viên đạn mới – loại đầu lõm, có sức sát thương mạnh hơn, gây tổn hại lớn hơn nhiều đối với các mô mềm khi xuyên vào cơ thể.
Jesse Corn chăm chú quan sát cô, tuy nhiên một lát sau mới nói, và cô biết rằng anh ta sẽ nói “Amelia không nguy hiểm đâu”. Anh ta nói thấp giọng, chỉ để cho cô nghe.
Lucy đặt khẩu súng xuống, nhìn vào mắt Jesse. “Jesse, tất cả mọi người đều bảo Mary Beth đang ở ngoài biển nhưng hóa ra cô ấy lại ở hướng ngược lại. Tất cả mọi người đều bảo Garrett chỉ là một thằng nhãi ngốc nghếch nhưng hắn lại khôn ngoan như cáo và gạt được chúng ta dăm bảy lần rồi. Chúng ta chẳng biết bất cứ điều gì khác nữa. Có thể Garrett đang có cả kho vũ khí ở chỗ nào đó và có kế hoạch này nọ để tiêu diệt chúng ta khi chúng ta sa vào bẫy của hắn.”
“Nhưng Amelia đi cùng hắn. Cô ấy sẽ ngăn chặn việc như thế xảy ra.”
“Amelia là kẻ phản bội đáng chết và chúng ta không thể tin tưởng cô ta một chút nào. Nghe này, Jesse, tôi đã trông thấy vẻ mặt anh khi anh nhận ra cô ta không ở phía chiếc thuyền. Anh đã nhẹ cả người. Tôi biết anh nghĩ rằng mình thích cô ta và hy vọng được cô ta đáp lại… Không, không, để tôi nói nốt. Nhưng cô ta đã cứu một tên giết người ra khỏi nhà giam. Và nếu anh đã ở ngoài sông chứ không phải Ned, Amelia cũng sẽ bắn anh ngay như thế thôi.”
Jesse định phản đối, tuy nhiên ánh mắt lạnh lẽo của Lucy khiến anh ta im lặng.
“Thật dễ dàng si mê một người như thế.” Lucy tiếp tục. “Cô ta xinh đẹp và từ một nơi khác đến, một nơi sôi động đầy sức hấp dẫn… Nhưng cô ta không hiểu cuộc sống ở đây. Và cô ta không hiểu Garrett. Anh biết hắn – đó là một thằng nhãi bệnh hoạn và nếu ngay lúc này hắn chưa chơi trò giết người thì chỉ là chuyện may rủi thôi.”
“Tôi biết rằng Garrett nguy hiểm. Tôi không tranh luận việc ấy. Tôi đang nghĩ tới Amelia”.
“Chà, tôi thì tôi nghĩ tới chúng ta và tất cả những người khác ở Bến tàu kênh Nước đen mà thằng nhãi có thể đang lên kế hoạch giết hại vào ngày mai hoặc tuần sau hoặc năm sau nếu hắn thoát khỏi tay chúng ta. Đó là việc hắn hoàn toàn có thể làm. Nhờ cô ta đấy. Bây giờ, tôi cần biết tôi có tin tưởng được anh không. Nếu không, anh có thể trở về nhà và chúng tôi sẽ bảo Jim cử người khác tới thay thế anh.”
Jesse liếc nhìn hộp đạn, rồi lại nhìn Lucy. “Chị có thể, Lucy. Chị có thể tin tưởng tôi.”
“Tốt. Anh nên nghiêm túc về điều này. Vì ngay khi trời sáng tôi sẽ tiếp tục lần theo dấu vết bọn họ và đưa cả hai quay về. Tôi hy vọng trong tình trạng còn sống nhưng, tôi nói để anh biết, cho tới lúc này thì cũng không nhất thiết phải vậy”.
Mary Beth McConnell ngồi một mình trong ngôi nhà gỗ, kiệt sức nhưng chẳng dám ngủ.
Cô nghe thấy tiếng động ở khắp nơi.
Cô đã rời khỏi chiếc đi văng. Cô sợ nếu cô cứ ngồi đấy thì cô sẽ nằm dài ra mà ngủ thiếp đi mất, rồi thức dậy thấy nhà truyền giáo và gã Tom đang chằm chằm nhìn cô qua cửa sổ, chuẩn bị đột nhập vào. Vì thế cô ngồi trên một chiếc ghế trong phòng ăn, mặt ghế cứng như đá.
Những tiếng động…
Mary Beth không biết mấy giờ rồi. Cô thậm chí chẳng dám ấn cái nút bật sáng mặt đồng hồ đeo tay – vì nỗi sợ hãi điên rồ rằng ánh sáng lóe lên sẽ như ra hiệu cho hai kẻ tấn công cô.
Kiệt sức. Quá mệt mỏi thậm chí không buồn băn khoăn tự hỏi thêm lần nữa tại sao chuyện này lại xảy ra với cô, liệu cô có thể đã làm được gì để ngăn chặn nó.
Làm ơn mắc oán…
Mary Beth đăm đăm nhìn ra bãi cỏ phía trước ngôi nhà gỗ, bây giờ hoàn toàn là một màu đen. Ô cửa sổ tựa như cái khung đóng lấy số phận cô: nó sẽ cho thấy ai đang tiến đến gần qua bãi cỏ? Những kẻ sát hại cô hay những người giải cứu cô?
Cô lắng nghe.
Âm thanh đó là gì: một cái cành cây nứt vỏ? Hay tiếng quẹt diêm?
Cái đốm sáng trong rừng kia là gì: một con đom đóm, hay một ánh lửa trại?
Cái bóng di động kia: một con hươu bỏ chạy vì ngửi thấy mùi linh miêu hay nhà truyền giáo và gã đồng đảng đang ngồi bên đống lửa uống bia, đánh chén, rồi mò mẫm xuyên rừng đến chỗ cô, tiếp tục thỏa mãn nhu cầu cơ thể chúng?
Mary Beth McConnell không tài nào nói chắc được. Đêm hôm nay, mới nhiều làm sao, cô toàn cảm thấy các cái mơ hồ.
Mày phát hiện được di tích của những người tới định cư đã chết từ ngày xửa ngày xưa nhưng mày lại băn khoăn không biết liệu giả thuyết mày đưa ra có hoàn toàn sai lầm không.
Cha mày qua đời vì chứng ung thư – một cái chết kéo dài, uổng phí, mà bác sĩ nói là chẳng tránh khỏi, nhưng mày lại nghĩ: Biết đâu có thể tránh khỏi.
Hai gã đàn ông đang ở ngoài kia, trong rừng, lên kế hoạch cưỡng đoạt và sát hại mày.
Nhưng có thể chẳng phải vậy.
Có thể bọn chúng đã từ bỏ ý định. Có thể bọn chúng đã bất tỉnh vì rượu lậu. Hay bọn chúng đã sợ hãi trước ý nghĩ về những hậu quả, đi đến kết luận rằng các mụ vợ mập mạp hoặc đôi bàn tay chai sạn thì an toàn hơn, hoặc dễ dàng hơn, việc bọn chúng định làm với Mary Beth.
Dang tay dang chân ra ở chỗ này…
Một tiếng nổ đanh vang khắp đêm tối. Mary Beth bật dậy. Một tiếng súng. Có vẻ như nó vang lên từ chỗ lúc trước cô đã trông thấy ánh lửa. Lát sau, tiếng súng thứ hai. Gần hơn.
Sợ hãi hít thở nặng nhọc, nắm chặt cây chùy. Không thể nhìn qua ô cửa sổ đen ngòm, cũng không thể không nhìn ra. Khiếp sợ sẽ trông thấy bộ mặt xanh xao của gã Tom từ từ xuất hiện trong khung cửa, nhăn nhở cười. Bọn tao sẽ quay lại.
Gió nổi lên, thổi rạp cây cối, bụi rậm, cỏ.
Mary Beth cho rằng cô nghe thấy tiếng cười của một người đàn ông, tiếng cười nhanh chóng tan biến trong gió hun hút như tiếng gọi của một trong những linh hồn Manitou thuộc bộ lạc Weapeneoc.
Cô cho rằng cô nghe thấy tiếng một gã đàn ông gào lên: “Mày hãy sẵn sàng đi, sẵn sàng đi…”
Nhưng có thể chẳng phải.
“Mày nghe thấy tiếng súng chứ?”, Rich Culbeau hỏi Harris Tomel.
Ba gã ngồi xung quanh đống lửa đang lụi dần. Ba gã mang tâm trạng lo lắng và chưa say như trong một chuyến săn bình thường, chưa say như chính ba gã đang mong muốn. Đơn giản là món rượu lậu không có tác dụng.
“Súng lục”, Tomel nhận xét. “Đạn cỡ lớn. Mười milimet hoặc súng cỡ .44, .45 tự động”.
“Vớ vẩn”, Culbeau nói. “Mày không thể bảo đấy là súng tự động hay không tự động được”.
“Có thể chứ”, Tomel giảng giải. “Súng ổ quay thì tiếng nổ to hơn – vì khoảng cách giữa ổ đạn và nòng súng. Tất nhiên.”
“Vớ vẩn”, Culbeau nhắc lại. “Cách đây bao xa?”
“Không khí nhiều hơi ẩm. Ban đêm… Tao cho rằng cách đây bốn, năm dặm”, Tomel thở dài. “Tao muốn chuyện này kết thúc. Tao chán ngấy rồi.”
“Tao hiểu”, Culbeau nói. “Ở Tanner’s Corner thì dễ dàng hơn. Bây giờ tình hình đang trở nên phức tạp.”
“Đám côn trùng chết tiệt”, Tomel đập một con muỗi.
“Mày nghĩ ai bắn gì vào cái giờ khuya khoắt này? Phải gần một giờ rồi”.
“Gấu trúc lục thùng rác, gấu đen mò vào lều, hay một thằng nào đấy mần vợ người.”
Culbeau gật đầu. “Nhìn kìa – Sean đã ngủ. Thằng đó ngủ được mọi lúc, mọi nơi”. Gã đá những cục than hồng cho nguội bớt.
“Nó đang dùng thứ thuốc chết tiệt.”
“Thế à? Tao không biết.”
“Đó là lý do tại sao nó ngủ mọi lúc, mọi nơi. Nó đang cư xử một cách kỳ cục, mày có nghĩ vậy không?”, Tomel hỏi, liếc nhìn gã thanh niên gầy nhẳng y như gã là một con rắn biết “kéo gỗ”.
“Khi chẳng hiểu nổi nó thì thấy nó dễ ưa hơn. Bây giờ nó đứng đắn quá, nó làm tao sợ phát khiếp. Cứ giương khẩu súng đó lên như giương cái con b. nó không bằng.”
“Về việc ấy mày nói đúng”, Tomel lẩm bẩm, rồi nhìn chằm chằm vào cánh rừng âm u mất mấy phút. Gã thở dài, bảo: “Tao sẽ bị ăn tươi nuốt sống ở đây mất. Và đưa tao chai rượu bên cạnh mày kia”.
Amelia Sachs mở mắt khi nghe thấy tiếng súng nổ.
Cô nhìn vào phòng ngủ của ngôi nhà lưu động, nơi Garrett đang nằm ngủ trên tấm nệm. Gã không nghe thấy gì.
Một tiếng súng nổ nữa.
Tại sao lại có ai bắn gì vào cái giờ khuya khoắt này? Sachs băn khoăn tự hỏi.
Tiếng súng nổ khiến Sachs nhớ tới sự việc xảy ra trên sông – Lucy và mấy người cảnh sát kia nã đạn vào chiếc thuyền mà họ nghĩ có cô và Garrett phía dưới. Cô hình dung lại từng cột nước vọt lên không trung sau mỗi tiếng súng nổ kinh hoàng.
Cô thận trọng lắng nghe nhưng không nghe thấy thêm tiếng súng nổ nào nữa. Không có gì ngoài tiếng gió thổi. Và tiếng ve sầu, tất nhiên.
Cuộc đời của chúng hết sức kỳ lạ… Ấu trùng đào đất chui xuống và ở dưới ấy, nói chung, hai mưoi năm, trước khi nở…
Tất cả ngần ấy năm trong lòng đất, ẩn trốn, trước khi bò ra làm con ve sầu trưởng thành.
Nhưng chẳng mấy chốc tâm trí Sachs lại bị xâm chiếm bởi những ý nghĩ xuất hiện trước khi có tiếng súng nổ.
Amelia Sachs trước đó đang nghĩ ngợi về chiếc ghế trống.
Không phải kỹ thuật trị liệu của Tiến sĩ Penny. Hay những gì Garrett đã nói với cô về cha gã và cái buổi tối kinh khủng cách đây năm năm. Không, cô đang nghĩ ngợi về một chiếc ghế khác – chiếc xe lăn Storm Arrow màu đỏ của Lincoln Rhyme.
Suy cho cùng thì đó là việc họ sẽ làm dưới Bắc California này. Rhyme đang đánh liều mọi thứ, tính mạng, phần sức khỏe còn lại, cuộc sống của anh với Sachs, cốt để anh có thể tiến gần hơn đến chỗ rời khỏi được chiếc ghế đó. Bỏ nó lại sau lưng anh, trống không.
Và, nằm đây, trong ngôi nhà lưu động bẩn thỉu này, làm một kẻ đã phạm tội, đơn độc trong cuộc đấu tay đôi do chính cô tạo ra, rút cục Amelia Sachs cũng tự thừa nhận cái điều gây cho cô xiết bao lo lắng trước việc Rhyme kiên quyết bước lên bàn mổ. Tất nhiên, cô lo lắng rằng anh có thể chẳng qua nổi cuộc phẫu thuật. Hoặc nó sẽ khiến tình trạng anh tồi tệ hơn. Hoặc nó sẽ hoàn toàn vô ích và anh sẽ rơi vào nỗi tuyệt vọng.
Nhưng những điều ấy không phải sự sợ hãi chủ yếu của Sachs. Chúng không phải lý do khiến cô đã làm mọi việc có thể để ngăn cản cuộc phẫu thuật . Không, không – điều khiến cô sợ hãi nhất chính là khả năng cuộc phẫu thuật sẽ thành công.
Ôi, Rhyme, anh không hiểu sao? Em đâu muốn anh thay đổi. Em yêu anh như anh bây giờ. Nếu anh cũng giống bao người khác, chuyện gì sẽ xảy ra với chúng ta.
Anh nói: “Sẽ luôn luôn là anh và em, Sachs ạ”. Nhưng cái anh và em đó dựa trên con người chúng ta bây giờ. Em với những móng tay dây máu và niềm ham thích được xê dịch, xê dịch, xê dịch… Anh với đầu óc mẫn tiệp bao giờ cũng phóng đi nhanh hơn và xa hơn em có thể trong chiếc Camaro đã được sơn đi sơn lại của em.
Cái đầu óc ấy của anh giữ em chặt hơn bất cứ người tình nồng nhiệt nhất nào.
Và nếu anh lại trở nên bình thường? Khi anh lại sử dụng được tay chân của chính mình, Rhyme, thì hà cớ gì anh còn mong muốn có em nữa? Hà cớ gì anh còn cần em? Em sẽ chỉ là một cảnh sát tuần tra, một cảnh sát khu vực với chút tài khám nghiệm hiện trường. Anh sẽ gặp một người khác trong số những người phụ nữ bội bạc từng làm cuộc đời anh trật bánh – một người vợ ích kỷ khác, một người tình có hôn thú khác – và anh sẽ dần rời xa em theo cái cách chồng Lucy Kerr đã rời xa cô ấy sau khi cô ấy tiến hành phẫu thuật. Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Em mong muốn anh hãy cứ như bây giờ…
Thực tế, Sachs phải rùng mình trước sự ích kỉ khủng khiếp của suy nghĩ này. Tuy nhiên cô chẳng thể phủ nhận nó.
Hãy cứ ở lại chiếc ghế của anh, Rhyme! Em không muốn nó bị bỏ trống… Em muốn có một cuộc sống với anh, một cuộc sống như nó vẫn luôn luôn thế từ trước tới giờ. Em muốn có những đứa con với anh, những đứa con sẽ lớn lên để biết về anh đúng như anh bây giờ. Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Amelia Sachs thấy mình đang đăm đăm nhìn lên cái trần nhà màu đen. Cô nhắm mắt lại. Nhưng mãi một tiếng đồng hồ sau, tiếng gió thổi cùng với tiếng ve sầu kêu – những cái màng ở ngực chúng phát ra âm thanh giống tiếng vĩ cầm đơn điệu – cuối cùng mới ru cô ngủ thiếp đi được.
16.06.2015
PHẦN 3: CUỘC ĐẤU TAY ĐÔI
CHƯƠNG 33
Dịch giả: Đinh Minh Hương
Nguồn: NXB Văn học
Nội dung thu gọn
Sachs tỉnh giấc ngay sau khi mặt trời vừa mọc vì cái tiếng kêu ri ri – trong lúc mơ màng cô nghe như tiếng dế kêu yên bình, nhưng hóa ra đó là tiếng chuông báo thức của chiếc đồng hồ đeo tay hiệu Casio. Cô nhấn nút tắt chuông đi. Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Người cô đau nhức nhối – phản ứng của chứng viêm khớp trước việc phải ngủ trên tấm nệm mỏng trảu trên sàn kim loại bắt đinh tán.
Nhưng Sachs cảm thấy vui vẻ một cách lạ lùng. Ánh nắng mặt trời mới mọc chiếu qua các ô cửa sổ và cô coi đây là điềm lành. Hôm nay họ sẽ tìm thấy Mary Beth và đưa cô gái quay lại Tanner’s Corner. Cô sẽ khẳng định câu chuyện Garrett đã kể và Jim Bell cùng Lucy Kerr có thể bắt đầu cuộc tìm kiếm kẻ sát nhân thực sự - gã đàn ông mặc quần yếm.
Sachs quan sát Garrett thức giấc trong phòng ngủ, lăn người ngồi dậy trên tấm nệm lún dúm dó. Gã lấy những ngón tay dài cào mớ tóc rối bù xù. Cô tự nhủ rằng gã trông giống hệt bất cứ cậu thiếu niên nào vào buổi sáng. Ngái ngủ, vụng về và dễ thương. Chuẩn bị mặc quần áo, chuẩn bị đón xe buýt đến trường, gặp gỡ bạn bè, vào lớp, tán tỉnh các cô bé, ném những quả bóng bầu dục. Quan sát gã chuếnh choáng nhìn xung quanh tìm sơ mi, cô để ý thấy cái thân hình gầy giơ xương của gã và lo lắng đến việc sửa soạn cho gã một ít thức ăn ngon lành – ngũ cốc, sữa, trái cây – và giặt quần áo cho gã, đảm bảo rằng gã có tắm. Như thế này, cô nghĩ, sẽ giống như có những đứa con của chính mình vậy. Không phải là mượn những đứa con của bạn bè được mấy tiếng đồng hồ - con gái đỡ đầu của cô (con gái của Amy) chẳng hạn. Mà là ở đó mỗi ngày, khi chúng thức dậy, với những căn phòng bừa bãi của chúng, với những thái độ khó bảo của tuổi mới lớn, sửa soạn các bữa ăn cho chúng, sắm quần áo cho chúng, tranh luận với chúng, trông nom chăm sóc chúng. Làm trung tâm cuộc sống của chúng.
“Xin chào.” Sachs mỉm cười.
Garrett cũng mỉm cười lại. “Chúng ta phải đi thôi”. Gã nói. “Phải tới chỗ Mary Beth. Tôi đã để cô ấy một mình lâu quá rồi. Cô ấy hẳn đang sợ hãi và khát nước lắm.”
Sachs loạng choạng đứng dậy.
Garrett liếc nhìn ngực mình, nhìn những mảng đỏ vì lá sồi độc và dường như ngượng ngùng. Gã vội vã mặc sơ mi vào. “Tôi đi ra ngoài. Cô biết đấy, tôi có việc phải làm. Tôi sẽ để vài cái tổ ong bắp cày rỗng ở xung quanh đây. Chúng chắc sẽ làm chậm bước bọn họ - nếu bọn họ đi đường này.” Garrett bước ra ngoài nhưng chỉ lát sau đã quay lại. Gã đặt một cốc nước lên chiếc bàn bên cạnh Sachs, bẽn lẽn nói: “Cho cô”. Gã lại bước ra.
Sachs uống cạn cốc nước. Ước ao được đánh răng và có thời gian tắm. Có thể khi họ tới chỗ…
“Hắn kìa!” Một giọng đàn ông thì thào.
Sachs sững người, nhìn ra bên ngoài cửa sổ. Cô không trông thấy gì. Nhưng từ trong một bụi cây cao gần ngôi nhà lưu động, cái giọng thì thào cố nén kia lại tiếp tục: “Hắn lọt vào kính ngắm rồi. Phen này chắc trúng”.
Cái giọng nghe quen quen và Sachs đi đến kết luận rằng nó nghe giống giọng Sean O’Sarian, chiến hữu của Culbeau. Gã gầy giơ xương. Ba gã nhà quê đã tìm thấy họ - ba gã sẽ khử gã trai hoặc tra tấn gã phải khai ra chỗ Mary Beth, hòng giành giải thưởng.
Garrett không nghe thấy giọng nói. Sachs có thể trông thấy gã – gã ở cách đấy khoảng ba mươi feet, đặt một cái tổ ong bắp cày rỗng trên lối mòn. Cô nghe thấy tiếng bước chân trong bụi cây tiến về phía trước, về phía khoảng đất trống có gã trai.
Cô chộp lấy khẩu Smith & Wesson, khẽ khàng bước ra ngoài. Cô khom mình, ra hiệu cho Garrett một cách tuyệt vọng. Gã không trông thấy cô.
Tiếng bước chân trong bụi cây tiến đến gần hơn.
“Garrett”, Sachs thì thào.
Gã quay lại, trông thấy Sachs đang ra hiệu cho gã đến chỗ cô. Gã chau mày, nhận ra trong ánh mắt cô vẻ cấp bách. Rồi gã liếc nhìn sang bên trái, nhìn vào bụi cây và cô trông thấy nỗi kinh hoàng hiện trên bộ mặt gã. Gã kêu lên: “Đừng bắn tôi, đừng bắn tôi, đừng bắn tôi!”. Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Sachs khom mình, ngón tay móc vào cò súng, lên đạn và nhằm vào bụi cây.
Sự việc xảy ra quá nhanh...
Garrett hãi hùng nằm sấp xuống, gào: “Đừng, đừng!”.
Amelia nâng khẩu súng lên, trong tư thế giữ bằng cả hai tay, kéo cò, chờ đợi một mục tiêu xuất hiện…
Người đàn ông nhảy từ bụi cây ra khoảng đất trống, súng gương lên nhằm vào Garrett… Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Đúng lúc ấy Ned Spoto vòng qua góc ngôi nhà lưu động ngay bên cạnh Sachs, chớp mắt ngạc nhiên và nhảy bổ về phía cô, hai cánh tay vươn ra. Giật mình, Sachs loạng choạng lùi lại. Khẩu súng nhả đạn, giật mạnh trong bàn tay cô.
Và cách đấy khoảng ba mươi feet, phía bên kia làn khói mỏng manh tỏa ra từ họng súng – cô trông thấy viên đạn găm trúng trán người đàn ông vừa nãy nấp trong bụi cây – hoàn toàn chẳng phải Sean O’Sarian mà là Jesse Corn. Một chấm đen xuất hiện phía bên trên mắt chàng cảnh sát trẻ và khi đầu anh ta ngật ra đằng sau thì một đám mây bụi màu hồng khủng khiếp cũng tung lên đằng sau anh ta. Không kêu tiếng nào, anh ta ngã vật xuống đất.
Sachs há hốc miệng, nhìn chằm chằm cái thân thể chỉ giật lên một lần rồi nằm hoàn toàn bất động. Cô tắc thở, khuỵu gối, khẩu súng rơi khỏi tay.
“Ôi, lạy Chúa”. Ned lẩm bẩm, cũng bàng hoàng nhìn chằm chằm cái thân thể kia. Trước khi viên cảnh sát kịp trấn tĩnh lại và rút súng, Garrett đã lao vào anh ta. Gã nhặt khẩu súng của Sachs rơi dưới đất, chĩa vào đầu Ned, rồi tước vũ khí của anh ta, quăng vào bụi rậm.
“Nằm xuống!”, Garrett giận dữ quát. “Nằm sấp xuống!”
“Cô đã giết cậu ấy, cô đã giết cậu ấy”, Ned lẩm bẩm.
“Không!”
Ned làm theo mệnh lệnh của Garrett, nước mắt chảy dài trên hai gò má rám nắng.
“Jesse!” Giọng Lucy Kerr cất lên gần đó. “Anh ở chỗ nào vậy? Ai bắn đấy?”
“Không, không, không…”, Sachs rên rỉ. Nhìn lượng máu nhiều kinh hoàng tuôn ra từ cái sọ vỡ toác của viên cảnh sát đã chết.
Garrett Hanlon liếc nhìn xác Jesse. Rồi gã đi qua nó – về phía tiếng những bước chân đang đến gần. Gã vòng tay ôm lấy Sachs. ‘‘Chúng ta phải đi thôi.’’
Khi cô không trả lời, khi cô, hoàn toàn tê liệt, chỉ nhìn chằm chằm vào cảnh tượng trước mắt – cái kết thúc của cuộc đời viên cảnh sát, cũng là cái kết thúc của chính cuộc đời cô – Garrett đã giúp cô đứng lên, rồi nắm bàn tay cô và kéo cô chạy theo mình. Hai người mất hút vào trong rừng.
16.06.2015
PHẦN 4: TỔ ONG BẮP CÀY
CHƯƠNG 34
Dịch giả: Đinh Minh Hương
Nguồn: NXB Văn học
Nội dung thu gọn
Chuyện gì đang xảy ra ? Lincoln Rhyme lo lắng phát điên lên tự hỏi.
Cách đấy một tiếng đồng hồ, vào lúc năm rưỡi sáng, anh rốt cuộc đã nhận được cuộc điện thoại từ người đàn ông giọng tỏ ra rất khó chịu làm việc tại bộ phận Nhà đất của cơ quan thuế Bắc Carolina. Ông ta bị đánh thức lúc một rưỡi và bị giao nhiệm vụ lần lại những trường hợp không nộp thuế đối với bất cứ khu đất nào đăng ký cho một ngôi nhà lưu động do Công ty McPherson đóng. Trước đó, Rhyme đã kiểm tra xem cha mẹ Garrett có từng sở hữu ngôi nhà lưu động nào không và – khi anh biết rằng họ không sở hữu ngôi nhà lưu động nào – đi đến lập luận là nếu gã trai sử dụng địa điểm này làm nơi ẩn trốn, nó phải bị bỏ hoang. Và nếu nó bị bỏ hoang, chủ của nó ắt đã chẳng còn nộp thuế.
Người trợ lý giám đốc nói với anh rằng trong bang có hai trường hợp như vậy. Một, ở gần cầu Xanh, nằm về phía tây, khu đất và ngôi nhà lưu động đã bị tịch thu thuế nợ và bán cho một đôi vợ chồng hiện nay đang sinh sống tại đấy. Trường hợp thứ hai ở quận Paquenoke, không đáng tốn thời gian và tiền bạc xử lý. Ông ta nói với Rhyme địa chỉ, theo một tuyến đường chuyển phát của bưu điện thì cách sông Paquenoke chừng nửa dặm. Ô C-6 trên tấm bản đồ. Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Rhyme gọi điện cho Lucy và mấy người cảnh sát kia, bảo họ đến đó. Họ dự định đến đó ngay khi trời sáng và, nếu Garrett và Amelia ở bên trong, sẽ bao vây hai người và yêu cầu hai người đầu hàng.
Thông tin cuối cùng mà Rhyme nhận được là họ đã phát hiện ra ngôi nhà lưu động và đang từ từ tiến đến. Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Phiền muộn vì sếp mình hầu như thức trắng đêm, Thom bảo Ben rời khỏi phòng và thực hiện các nghi thức buổi sáng một cách kỹ lưỡng. Các nghi thức này bao gồm : tiểu tiện, đại tiện, đánh răng và đo huyết áp.
“Cao đấy, Lincoln.” Thom lẩm bẩm, cất cái máy đo huyết áp đi. Huyết áp cao quá ở một người liệt tứ chi có thể dẫn đến tình trạng tăng phản xạ tự phát, từ đó có thể dẫn đến đột quỵ. Nhưng Rhyme không chú ý gì. Anh đang sử dụng hết sức lực. Anh muốn tìm thấy Amelia đến tuyệt vọng. Anh muốn...
Rhyme ngẩng nhìn. Jim Bell, vẻ mặt hốt hoảng, bước qua cửa. Ben Kerr, cũng bối rối chẳng kém, theo vào.
“Chuyện gì đã xảy ra vậy?”, Rhyme hỏi. “Cô ấy không sao chứ? Amelia... “
“Cô ấy giết chết Jesse rồi”, Bell thì thào nói. “Bắn trúng đầu cậu ta. “
Thom sững người, liếc nhìn Rhyme. Viên cảnh sát trưởng tiếp tục: “Cậu ta đang chuẩn bị bắt Garrett. Cô ta bắn. Rồi bọn họ bỏ chạy”.
“Không, không thể nào”, Rhyme thì thào. “Có sự nhầm lẫn. Một kẻ khác đã bắn.”
Nhưng Bell lắc đầu. “Không. Ned Spoto ở đó. Cậu ta chứng kiến toàn bộ sự việc…Tôi không định bảo rằng cô ta chủ ý bắn. Ned chạy tới chỗ cô ta và khẩu súng bị cướp cò – dù sao cũng vẫn là tội giết người.”
Ôi, lạy Chúa…
Amelia… thế hệ cảnh sát thứ hai, Con Gái Cớm Tuần Tra. Và bây giờ thì cô đã giết chết đồng nghiệp của chính mình. Tội nghiêm trọng nhất mà một sĩ quan cảnh sát có thể phạm phải.
“Chúng tôi không tự xử lý việc này được nữa rồi, Lincoln. Tôi phải báo cáo lên cảnh sát bang.”
“Hẵng khoan, Jim”, Rhyme nói vẻ cấp bách. “Làm ơn…Bây giờ, cô ấy đang tuyệt vọng, cô ấy đang sợ hãi. Garrett cũng vậy. Anh gọi thêm cảnh sát, sẽ có thêm thương vong. Họ sẽ tấn công cả hai người.”
“Chà, rõ ràng là họ phải tấn công hai người ấy rồi ”, Bell giận dữ đáp trả. “Và xem chừng họ đáng lẽ đã phải làm như thế ngay từ đầu.”
“Tôi sẽ tìm thấy hai người cho anh. Tôi sắp sửa tìm thấy rồi.” Rhyme hất đầu về phía bảng chứng cứ và tấm bản đồ.
“Tôi đã cho anh một cơ hội và hãy nhìn xem chuyện gì xảy ra.”
“Tôi sẽ tìm thấy họ và tôi có thể bảo được cô ấy đầu hàng. Tôi biết tôi có thể. Tôi sẽ…”
Bell đột ngột bị xô sang bên và một người đàn ông ào vào phòng. Đó là Mason Germain, “Đồ con hoang nhà mày!” Anh ta gào lên và xông thẳng tới Rhyme. Thom bước ra chặn đường nhưng viên cảnh sát xô anh chàng mảnh khảnh sang bên. Anh chàng ngã lăn xuống sàn. Mason túm lấy áo sơ mi của Rhyme. “Đồ chết giẫm ! Mày mò xuống dưới này và chơi cái trò... “
“Mason!” Bell tiến lên nhưng lại bị viên cảnh sát đẩy sang bên.
“Chơi cái trò chứng cứ vớ vẩn, cái trò giải đố vớ vẩn của mày. Và bây giờ thì một người tử tế đã chết vì mày!” Lúc viên cảnh sát kéo Rhyme về phía mình, anh ngửi thấy sực nức mùi nước thơm xoa mặt sau khi cạo râu. Nhà hình sự học co người lại và quay mặt đi.
“Tao sẽ giết mày. Tao sẽ…” Nhưng giọng Mason tắc nghẹn khi một cánh tay hộ pháp quàng qua ngực anh ta và anh ta bị nhấc bổng khỏi sàn.
Ben Kerr đưa viên cảnh sát ra xa Rhyme.
“Kerr, mẹ kiếp, buông tao ra!”, Mason hổn hển. “Đồ ngu! Mày sẽ bị bắt!”
“Bình tĩnh nào, ông cảnh sát!”, anh chàng to béo chậm rãi nói.
Mason đang định rút súng nhưng bằng bàn tay kia Ben tóm chặt cổ tay anh ta. Ben nhìn Bell. Viên cảnh sát trưởng đợi một lát rồi gật đầu. Ben thả Mason ra. Anh ta đứng xuống, cơn giận dữ điên cuồng hiện lên trong ánh mắt. Anh ta bảo Bell: “Tôi sẽ đi và sẽ tìm thấy con ranh kia và tôi…”
“Anh sẽ không đi đâu hết, Mason”, Bell nói. “Anh muốn giữ công việc tại cái sở này thì hãy làm những gì tôi yêu cầu. Chúng ta sẽ giải quyết tình hình theo cách của tôi. Anh sẽ ở nguyên văn phòng đây. Anh hiểu chứ?”
“Đồ con hoang, Jim. Cô ta…”
“Anh có hiểu tôi nói không ?
“Có chứ, tôi quá hiểu anh”, Mason lao ra khỏi la-bô.
Bell hỏi Rhyme “Anh ổn chứ?”
Rhyme gật đầu.
“Còn anh?” Bell liếc nhìn Thom.
“Tôi không sao.” Anh chàng phụ tá xốc lại sơ mi cho Rhyme. Và mặc dù nhà hình sự học phản đối, anh ta vẫn đo lại huyết áp. “Vẫn thế. Quá cao, nhưng chưa tới mức nguy kịch.”
Viên cảnh sát trưởng lắc đầu. “Tôi phải gọi điện cho cha mẹ Jesse. Lạy Chúa, tôi không muốn làm việc đó.” Anh ta bước tới chỗ cửa sổ và đăm đăm nhìn ra ngoài. “Đầu tiên là Ed, bây giờ thì là Jesse. Toàn bộ chuyện này mới ác mộng làm sao chứ.”
Rhyme nói: “Làm ơn, Jim. Hãy để tôi tìm thấy họ và cho tôi một cơ hội để trao đổi với cô ấy. Nếu anh không đồng ý, tình hình sẽ tồi tệ hơn. Anh biết như thế mà. Rốt cuộc chúng ta sẽ có thêm người chết”.
Bell thở dài. Anh ta liếc nhìn tấm bản đồ. “Bọn họ đã đi trước chúng ta hai mươi phút. Anh cho rằng anh có thể tìm thấy bọn họ?”
“Phải”, Rhyme trả lời. “Tôi có thể tìm thấy họ.” Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
“Hướng đó”, Sean O’Sarian nói. “Tao chắc chắn.”
Rich Culbeau nhìn về phía tây, phía gã trai trẻ chỉ - phía cách đấy mười lăm phút ba gã đã nghe thấy tiếng súng nổ cùng với tiếng hét.
Culbeau vừa đi tiểu vào một gốc thông, hỏi: “Phía ấy có gì?”.
“Đầm lầy, vài ngôi nhà cũ”, Harris Tomel nói. Gã đã đi săn có lẽ là ở mọi xó xỉnh của quận Paquenoke. “Ngoài ra chẳng có gì mấy. Cách đây một tháng tao trông thấy một con sói xám.” Lũ sói được cho là đã tuyệt chủng nhưng bây giờ đang quay lại.
“Đừng giỡn”, Culbeau nói. Gã luôn luôn muốn được trông thấy mà chưa từng trông thấy con sói nào.
“Mày đã bắn nó à?”, O’Sarian hỏi.
“Người ta không bắn chúng”, Tomel nói.
Culbeau nói thêm: “Chúng được bảo vệ”.
“Thế là?”
Và Culbeau nhận ra gã không có câu trả lời cho câu hỏi đó.
Ba gã chờ vài phút nữa, tuy nhiên không nghe thấy thêm tiếng súng hay tiếng hét nào. “Có lẽ cứ đi thôi”, Culbeau nói, chỉ về phía lúc nãy vang lên tiếng súng.
“Có lẽ thế”, O’Sarian vừa nói vừa ngậm chai nước hớp lấy một ngụm.
“Hôm nay lại nóng đấy”, Tomel bình luận, nhìn vầng dương rực rỡ chưa lên cao.
“Ngày nào chả nóng”, Culbeau lẩm bẩm. Gã cầm khẩu súng của mình lên và bắt đầu đi dọc theo lối mòn, hai thằng lính lê bước đằng sau lưng gã.
Thình.
Mary Beth mở choàng mắt, tỉnh dậy khỏi giấc ngủ mê mệt không cưỡng lại được.
Thình.
“Này, Mary Beth.” Một giọng đàn ông vui vẻ gọi. Tựa như người lớn nói với đứa trẻ con. Trong lúc ngái ngủ, cô nghĩ: Đó là cha! Ông đang làm gì sau khi trở về từ bệnh viện? Ông còn sức lực đâu mà bổ gỗ. Mình phải đưa cha quay lại giường. Cha đã uống thuốc chưa nhỉ?
Khoan!
Mary Beth ngồi dậy, xây xẩm mặt mày, đầu đau nhức nhối. Cô đã thiếp đi trên chiếc ghế trong phòng ăn.
Thình.
Khoan. Không phải cha. Ông mất rồi…Đó là Jim Bell…
Thình.
“Mareeeeeeeeeee Bayeth…”
Cô bật dậy khi bộ mặt đểu cáng ấy nhìn vào qua ô cửa sổ. Đó là gã Tom.
Lại một tiếng kêu đánh rầm, chiếc rìu của nhà truyền giáo bập vào gỗ.
Tom thò mặt vào, nheo mắt nhìn trong bóng tối lờ mờ. “Cô em đâu rồi?”
Mary Beth nhìn gã chằm chằm, người đờ ra.
Tom tiếp tục: “Ồ, này, cô em kia kìa. Lạy Chúa, so với trí nhớ của anh thì cô em còn xinh đẹp hơn đấy”. Gã giơ cổ tay lên, cho Mary Beth thấy chỗ quấn băng dày sụ. “Anh mất cả lít máu, vì cô em. Anh nghĩ cũng công bằng thôi nếu anh xin lại một ít.”
Thình.
“Anh phải nói với cưng, cưng ạ. Đêm hôm qua anh đã thiếp đi với ý nghĩ được bóp vú cưng đấy. Cảm ơn cưng nhiều nhiều vì cái ý nghĩ ngọt ngào ấy.”
Thình.
Phát rìu này đã bổ nứt được cánh cửa. Tom biết mất khỏi cửa sổ, đến chỗ gã bạn.
“Tiếp tục đi, mày.” Gã kêu lên bằng giọng khuyến khích. “Sắp được rồi đấy.”
16.06.2015
PHẦN 4: TỔ ONG BẮP CÀY
CHƯƠNG 35
Dịch giả: Đinh Minh Hương
Nguồn: NXB Văn học
Nội dung thu gọn
Nỗi lo lắng của anh bây giờ là cô sẽ có hành động dại dột đối với bản thân mình. Kể từ khi biết Amelia Sachs, Rhyme đã chứng kiến những lần hai bàn tay cô cào đầu đến tóe máu. Anh đã chứng kiến mỗi lúc căng thẳng cô lại gặm nát móng tay hoặc bấu sâu móng tay vào da thịt. Anh đã chứng kiến cô lái xe với tốc độ một trăm năm mươi dặm một giờ. Anh không biết chính xác cái gì thúc đẩy cô, nhưng anh biết có cái gì đó trong lòng cô khiến Amelia Sachs hay bị kích động.
Bây giờ khi chuyện như thế này xảy ra, bây giờ cô đã gây chết người, sự bối rối có thể khiến cô vượt quá ngưỡng chịu đựng. Sau vụ tai nạn biến Rhyme thành một người đàn ông tàn tật, Terry Dobyns, chuyên gia tâm lý của Sở Cảnh sát New York, đã giải thích với anh rằng, đúng, anh sẽ cảm thấy muốn tự sát. Nhưng không phải sự chán nản thúc đẩy anh hành động. Vì sự chán nản làm cạn kiệt sức lực của anh. Nguyên nhân chính để anh muốn tự sát là sự hỗn hợp các cảm giác tuyệt vọng, hoang mang, bối rối.
Đấy chính xác là tâm trạng mà Amelia Sachs – bị săn đuổi, bị phản bội bởi chính bản chất của mình - ngay lúc này đây đang cảm thấy.
Tìm ra cô ấy! Là ý nghĩ duy nhất của Rhyme. Phải nhanh chóng tìm ra cô ấy.
Nhưng Sachs đang ở đâu? Rhyme vẫn chưa có câu trả lời cho câu hỏi ấy.
Anh lại nhìn bằng chứng cứ. Đã không phát hiện được chứng cứ nào từ ngôi nhà lưu động. Lucy và hai đồng sự đã lục soát nó vội vàng – quá vội vàng, tất nhiên. Họ đang trong tâm trạng chỉ muốn săn đuổi – thậm chí đến Rhyme chẳng động đậy nổi người cũng còn thường xuyên cảm thấy điều này – và nhóm cảnh sát chỉ muốn ngay tức khắc lần theo dấu vết kẻ thù vừa giết chết bạn họ.
Những manh mối duy nhất mà Rhyme có về nơi giam giữ Mary Beth – về nơi Garrett và Sachs bây giờ đang nhắm tới - ở ngay trước mắt anh. Nhưng chúng khó hiểu chẳng kém bất cứ manh mối nào anh từng phân tích.
TÌM THẤY TẠI HIỆN TRƯỜNG GIÁN TIẾP - CỐI XAY
Sơn nâu dây trên quần
Cây gọng vó
Đất sét
Rêu nước
Nước trái cây
Sợi giấy
Viên chua làm mồi câu
Đường
Camphene
Chất cồn
Dầu hỏa
Men nở
Chúng ta cần thêm chứng cứ! Rhyme nổi khùng lên với chính mình.
Nhưng chúng ta không có thêm được bất cứ một mẩu chứng cứ chết tiệt nào.
Sau vụ tai nạn, khi nỗi đau khổ của Rhyme đang còn ở giai đoạn phủ nhận thực tế, anh đã cố gắng tập trung sức mạnh ý chí siêu nhiên để khiến cho cơ thể cử động. Anh đã nhớ lại các câu chuyện về việc người ta có thể nâng ô tô lên hay có thể chạy với tốc độ không thể tưởng tượng nổi nhằm tìm kiếm sự giúp đỡ trong trường hợp khẩn cấp. Nhưng rốt cuộc anh cũng đành phải chấp nhận rằng những kiểu sức mạnh ấy đã vĩnh viễn rời xa anh.
Tuy nhiên, anh vẫn còn một kiểu sức mạnh khác – sức mạnh trí óc.
Hãy tư duy đi! Tất cả những gì mày có là bộ não của mày và các chứng cứ đang ở trước mày kia. Các chứng cứ đó sẽ không thay đổi.
Bởi vậy, hãy thay đổi cách mày tư duy.
Được rồi, hãy bắt đầu lại. Rhyme đọc bảng chứng cứ lần nữa. Chìa khóa mở cửa ngôi nhà lưu động đã được xác định. Men nở là từ cối xay. Đường là từ thức ăn hoặc nước trái cây. Camphene là từ một chiếc đèn đốt cổ. Vết sơn là từ nơi cô gái đang bị giam giữ. Dầu hỏa là từ con thuyền. Chất cồn có thể là từ bất cứ cái gì. Chỗ đất trong gấu quần gã trai thì sao? Nó không bộc lộ đặc điểm riêng biệt nào và…
Hẵng hượm…chỗ đất.
Rhyme nhớ ra rằng sáng hôm qua anh và Ben đã làm xét nghiệm đối với các mẫu đất lấy từ giày và thảm trải sàn xe của nhân viên làm việc tại trụ sở chính quyền quận. Anh đã yêu cầu Thom chụp từng ống nghiệm và ghi đằng sau mỗi bức ảnh tên nhân viên.
“Ben?”
“Gì ạ?”
“Đem thử tỷ trọng đống đất cát cậu rũ ra được từ gấu chiếc quần Garrett bỏ lại chỗ cối xay.”
Sau khi đất cát đã lắng xuống đáy ống nghiệm, chàng thanh niên nói: “Có kết quả rồi ạ”.
“So sánh nó với ảnh chụp các mẫu cậu làm sáng hôm qua.”
“Hay, hay.” Nhà động vật học trẻ tuổi gật đầu, cảm thấy ấn tượng trước ý tưởng Rhyme đưa ra. Anh ta lật các bức ảnh, dừng lại. “Tôi đã tìm thấy một bức phù hợp!”, anh ta nói. “Gần như y hệt.”
Nhà động vật học chẳng còn do dự khi phát biểu ý kiến nữa, Rhyme hài lòng để ý thấy như thế. Và anh ta cũng chẳng còn kiểu nói loanh qua loanh quanh.
“Từ giày của ai vậy?”
Ben xem ghi chú đằng sau bức anh. “Frank Heller. Anh ta làm việc tại bộ phận Các Công trình Công cộng.”
“Anh ta đã đến chưa?”
“Tôi sẽ đi hỏi.” Ben biến mất. Vài phút sau, anh ta quay lại, đi cùng là một người đàn ông dáng to ngang mặc sơ mi cộc tay màu trắng. Anh ta do dự nhìn Rhyme. “Ông là cái người hôm qua yêu cầu chúng tôi cậy đất từ giày ra.” Anh ta cười nhưng tiếng cười không được thoải mái.
“Frank, chúng tôi lại cần anh giúp đỡ”, Rhyme giải thích. “Đất từ giày của anh phù hợp với đất chúng tôi tìm thấy trên quần áo của đối tượng.”
“Thằng nhãi đã bắt cóc hai cô gái ấy à?”, Frank lẩm bẩm, mặt đỏ lên và trông đầy vẻ tội lỗi.
“Đúng vây. Nghĩa là hắn có thể - điều này chưa chắc chắn mấy, tuy nhiên hắn có thể - đang giữ cô gái cách nơi anh sống hai hoặc ba dặm. Anh hãy làm ơn chỉ trên bản đồ chính xác nơi anh sống.”
“Không phải tôi sẽ trở thành đối tượng tình nghi hay đại loại như thế chứ?”
“Không, Frank. Hoàn toàn không.”
“Vì sẽ có người xác nhận cho tôi. Buổi tối nào tôi cũng ở nhà với vợ. Chúng tôi xem ti vi. Các chương trình Jeoprady và Bánh xe May mắn<37>. Đúng giờ như đồng hồ vậy. Tiếp theo là đấu vật giải trí. Thi thoảng ông anh trai vợ tôi tới chơi. Ý tôi là anh ấy nợ tôi tiền nhưng nếu anh ấy chẳng nợ thì anh ấy cũng sẽ xác nhận cho tôi.”
“Không sao đâu mà”, Ben trấn an Frank. “Chúng tôi chỉ cần biết nơi anh sống. Trên tấm bản đồ kia kìa.”
“Đây... Frank bước tới trước bức tường và đặt tay vào một điểm. Ô D-3. Nó ở phía bắc sông Paquenoke – phía bắc ngôi nhà lưu động nơi Jesse đã bị bắn chết. Có một số con đường nhỏ trong khu vực này, tuy nhiên không có thị trấn nào được đánh dấu.
“Xung quanh nơi anh sống ra sao?”
“Chủ yếu là rừng và các cánh đồng cỏ.”
“Anh có biết chỗ nào mà người ta có thể giấu một nạn nhân bị bắt cóc không?”
Frank xem chừng nghiêm chừng nghiêm túc cân nhắc câu trả lời. “Không, tôi không biết.”
Rhyme nói: “Tôi hỏi anh một câu được không?”
“Cộng thêm vào những câu ông đã hỏi?”
“Đúng vậy.”
“Tôi nghĩ là được.”
“Anh biết về những cái vũng Carolina chứ?”
“Tất nhiên. Mọi người đều biết mà. Các tảng thiên thạch rơi xuống đã tạo ra chúng. Từ lâu rồi. Từ khi lũ khủng long bị tuyệt diệt.”
“Có cái vũng nào ở gần nơi anh sống không?”
“Ồ, có chứ, chắc chắn rồi.”
Rhyme đã hy vọng anh ta sẽ nói như thế.
Frank tiếp tục: “Phải có đến gần trăm cái”.
Rhyme đã hy vọng anh ta đừng nói như thế.
Đầu ngả ra đằng sau, mắt nhắm nghiền, anh đang thầm xem xét lại các bảng chứng cứ.
Jim Bell và Mason quay lại, cùng với Thom và Ben, nhưng Rhyme không chú ý gì đến họ. Anh đang ở trong thế giới riêng của mình, một thế giới trật tự của khoa học, bằng chứng, logic, một thế giới nơi anh không cần phải vận động, một thế giới nơi may mắn thay những tình cảm anh dành cho Amelia và những gì cô đã làm không được phép bước vào. Các chứng cứ hiện lên trong đầu óc anh rõ ràng y như anh đang đăm đăm nhìn lên tấm bảng viết phấn. Thực tế, khi nhắm mắt, anh còn có thể nhìn nhận chúng rõ rãng hơn.
Sơn đường men nở đất camphene sơn đất đường...men nở...men nở...
Một ý nghĩ lướt qua tâm trí Rhyme, rồi chuồi đi mất. Quay lại nào, quay lại nào, quay lại nào...
Đây rồi! Anh đã chộp được nó.
Rhyme mở choàng mắt. Anh nhìn vào cái góc trống của căn phòng. Bell nhìn theo anh.
“Gì thế, Lincoln?”
“Anh có máy pha cà phê ở đây chứ?” Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
“Cà phê à?”, Thom hỏi, vẻ không hài lòng. “Không caffeine đâu nhé. Huyết áp của anh đang...”
“Không. Tôi không muốn uống cà phê cà phiếc gì hết. Tôi muốn một cái phin lọc cà phê.”
“Phin lọc? Tôi sẽ lấy một cái cho anh.” Bell rời khỏi phòng và lát sau quay lại.
“Đưa nó cho Ben” Rhyme yêu cầu. Rồi anh bảo nhà động vật học: “Hãy xem những sợi giấy từ cái phin lọc này có phù hợp với những sợi giấy chúng ta đã tìm thấy trên quần áo của Garrett bị bỏ lại chỗ cối xay không”. Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Ben chà cho một ít sợi giấy từ cái phin lọc rơi xuống phiến kính. Anh ta chăm chú soi qua thấu kính của chiếc kính hiển vi đối chiếu, điều chỉnh tiêu cự rồi di chuyển bệ kính hiển vi để hai mẫu sát lại bên cạnh nhau trong khung ngắm được chia đôi.
“Màu sắc thì hơi khác, Lincoln, nhưng cấu tạo và kích thước gần như y hệt.”
“Tốt” Rhyme nói, ánh mắt anh bây giờ đặt vào chiếc áo phông dây nước trái cây.
Anh bảo Ben: “Vết nước trái cây, vết nước trái cây trên chiếc áo phông ấy. Hãy nếm lại xem. Nó có hơi chua không? Hay chát?”.
Ben nếm. “Có lẽ là hơi chát. Khó nói được chắc chắn.”
Ánh mắt Rhyme chuyển sang tấm bản đồ, hình dung ra Lucy và hai đồng sự của cô đang sắp sửa đuổi kịp Sachs ở chỗ nào đâu đó giữa bạt ngàn cây cối hoang dã, súng nhăm nhăm nhả đạn. Hoặc Garrett đã lấy được súng của Sachs và biết đâu đang chĩa nó vào cô.
Hoặc cô đang gí súng vào chính đầu mình, siết cò.
“Jim”. Rhyme nói. “Tôi cần anh lấy cái này cho tôi. Để làm mẫu chứng.”
“Được. Ở chỗ nào vậy?” Bell lục túi quần tìm chùm chìa khóa.
“Ồ, anh chẳng cần đi xe đâu.”
Rất nhiều hình ảnh quay cuồng trong tâm trí Lucy: Jesse Corn ngày đầu tiên đến làm việc tại văn phòng cảnh sát trưởng, giày đồng phục đánh xi bóng loáng nhưng bít tất lại cọc cạch, vì anh đã mặc quần áo từ trước khi trời sáng để chắc chắn không bị muộn giờ.
Jesse Corn, ngồi xổm đằng đuôi một chiếc xuồng máy, vai chạm vai cô, trong lúc Barton Snell – nhăm nhăm khẩu súng hơi – bắn bừa bãi vào mấy người cảnh sát. Chính nhờ sự hài hước nhẹ nhàng của Jesse mà cái gã to xác ấy chịu hạ khẩu Winschester xuống.
Jesse Corn, tự hào lái chiếc xe tải cỡ nhỏ mới tậu màu đỏ tươi đến trụ sở chính quyền quận vào ngày được nghỉ làm và cho đám trẻ con leo lên thùng xe, chạy tới chạy lui khắp bãi đỗ. Đám trẻ đồng thanh hét “Êêêêê” mỗi lần anh phi xe qua các con lươn giảm tốc.
Những hình ảnh này – và hàng chục hình ảnh khác – cứ ám ảnh Lucy trong lúc cô, Ned và Trey băng ngang một cánh rừng sồi lớn. Jim Bell đã bảo họ chờ ở chỗ ngôi nhà lưu động để anh ta cử Steve Farr, Frank và Mason đến, tiếp tục truy đuổi. Anh ta muốn cô và hai người kia quay lại văn phòng. Nhưng họ thậm chí không mất công biểu quyết cho vấn đề đó. Thành kính hết mức có thể, họ đưa xác Jesse vào bên trong ngôi nhà, lấy tấm vải phủ lên. Rồi cô nói với Jim rằng họ sẽ bám theo hai kẻ chạy trốn và chẳng có gì trên đất đai này của Chúa ngăn cản họ được.
Garrett và Amelia đang di chuyển vội vã, không buồn tìm cách xóa dấu vết. Bọn họ đi dọc theo một lối mòn tiếp giáp khu vực đầm lầy. Mặt đất mềm và dấu chân bọn họ in rõ ràng. Lucy nhớ nhận xét mà Amelia nói với Rhyme về hiện trường vụ án tại Bến tàu kênh Nước đen khi nữ cảnh sát tóc đỏ chăm chú nhìn những dấu chân để lại đấy: Trọng lượng của Billy Stail dồn vào các ngón chân, nghĩa là cậu ta đã chạy về phía Garrett cứu Mary Beth. Lucy bây giờ cũng nhận thấy điều này ở dấu chân hai kẻ bị truy đuổi. Bọn họ đang chạy hết tốc lực.
Bởi vậy mà Lucy bảo hai người đồng nghiệp: “Chúng ta chạy thôi”. Và bất chấp nóng nực, kiệt sức, họ bắt đầu chạy.
Họ chạy được một dặm cho tới lúc mặt đất trở nên khô ráo hơn và họ chẳng còn nhìn thấy được các dấu chân nữa. Rồi dấu vết kết thúc ở một cánh đồng cỏ rộng, họ không biết con mồi của họ đã đi đằng nào.
“Mẹ kiếp”, Lucy lẩm bẩm, hổn hển thở và tức điên lên vì mất dấu vết. “Mẹ kiếp!”.
Họ đi xung quanh bãi cỏ, xem xét từng gang tay một nhưng không thể phát hiện được lối mòn hay manh mối nào chỉ ra hướng Garrett và Amelia Sachs đã đi.
“Chúng ta làm gì đây?”, Ned hỏi.
“Gọi điện về và chờ đợi”, Lucy lẩm bẩm. Cô dựa người vào một cái cây, bắt lấy chai nước Trey ném cho, uống cạn.
Cô nhớ lại:
Jesse Corn, rụt rè khoe khẩu súng màu bạc sáng lấp lánh anh dự định dùng tham gia các cuộc thi đấu của Hiệp hội Súng trường Quốc gia. Jesse Corn, đưa cha mẹ anh đến nhà thờ giáo phái Baptist ở phố Locust.
Các hình ảnh cứ quay cuồng trong tâm trí Lucy. Chúng khiến cô đau đớn và khiến cơn giận dữ của cô thêm sôi sục. Nhưng Lucy không cố gắng xua đuổi chúng, cô không muốn cơn giận dữ của cô nguôi ngoai đi khi cô tìm thấy Amelia Sachs.
Kêu két một tiếng, cánh cửa ngôi nhà gỗ hé mở.
“Mary Beth”, Tom uốn éo gọi. “Cô em ra đây nào, ra đây vui vẻ nào.”
Gã và nhà truyền giáo thì thào với nhau. Rồi Tom lại nói: “Nào, nào, cưng ơi. Đừng sợ. Bọn anh không làm cưng đau đâu. Hôm qua bọn anh chỉ đùa tí thôi mà”.
Mary Beth đứng thẳng người, áp sát vào bức tường, phía sau cánh cửa. Không hé răng. Cầm chặt cây chùy bằng cả hai tay.
Cánh cửa mở ra rộng hơn, những chiếc bản lề lại kêu ken két. Một cái bóng hắt xuống sàn. Tom bước vào, vẻ thận trọng.
“Nó ở đâu?”, nhà truyền giáo thì thào hỏi từ ngoài hàng hiên.
“Có một cái hầm chứa”, Tom nói. “Tao đánh cuộc là nó ở dưới ấy.”
“Ờ, đưa nó lên và biến thôi. Tao không thích chỗ này.”
Tom bước thêm một bước vào. Gã cầm con dao dài lưỡi mỏng dính.
Mary Beth biết về triết lý chiến tranh của người Anh điêng và một trong số các nguyên tắc là nếu việc hòa đàm thất bại và cuộc chiến tranh là không thể tránh khỏi, người ta sẽ không bông lơn hay đe dọa mà người ta sẽ tấn công với tất cả sức lực của mình. Điểm mấu chốt của trận đánh không là nói để kẻ thù chịu khuất phục hay giải thích hay chửi rủa, mà điểm mấu chốt là tiêu diệt.
Và bởi vậy cô bình tĩnh từ phía sau cánh cửa bước ra, thét to như một linh hồn Manitou của người Anh điêng và vung cây chùy lên bằng cả hai tay trong khi Tom xoay phắt lại, mắt trợn tròn kinh hoàng. Nhà truyền giáo kêu lên: “Cẩn thận!”.
Tom không có cơ hội. Cây chùy nện mạnh vào phía trước tai gã, làm hàm gã vỡ toác, và bổ xuống đến nửa cổ họng. Gã buông con dao, ôm chặt lấy cổ họng, khuỵu gối, tắc thở. Gã bò giật lùi ra ngoài.
“Giúp…giúp tao”, Tom hổn hển nói.
Nhưng không có sự giúp đỡ nào – nhà truyền giáo chỉ cúi xuống, túm cổ áo Tom ra khỏi hàng hiên, để mặc gã ngã vật ra đất, ôm bộ mặt vỡ toác, trong lúc Mary Beth quan sát qua cửa sổ. “Đồ ngu.” Nhà truyền giáo lẩm bẩm với gã đồng đảng, rồi rút súng từ túi quần sau. Mary Beth đẩy cho cánh cửa đóng sập lại, trở về chỗ nấp, lau hai bàn tay ướt mồ hôi, nắm chặt cây chùy hơn. Cô nghe thấy tiếng lên đạn.
“Mary Beth, tao có súng đây và mày chắc đã hiểu rằng trong hoàn cảnh này tao không ngần ngại gì mà không sử dụng nó. Hãy ra đi. Nếu mày không ra, tao sẽ bắn và có thể bắn trúng mày đấy.”
Mary Beth khom mình dựa người vào bức tường phía sau cánh cửa, chờ đợi tiếng súng nổ.
Nhưng nhà truyền giáo không bắn. Đó chỉ là trò đánh lừa. Gã đá mạnh cánh cửa và nó đập vào người Mary Beth, làm cô choáng váng mất một lát, ngã lăn quay. Nhưng khi gã bắt đầu bước vào, cô đá cho cánh cửa đóng lại cũng mạnh chẳng kém. Gã chẳng hề ngờ đến bất cứ sự phản kháng nào và phiến gỗ nặng trịch đập vào vai gã, khiến gã loạng choạng. Mary Beth bước về phía gã, vung cây chùy giáng vào mục tiêu duy nhất trên cơ thể gã mà cô giáng tới được – khuỷu tay. Tuy nhiên, gã thụp xuống đúng lúc hòn đá sắp giáng vào gã và cô bị trượt. Đà của cú vung mạnh khiến cây chùy tuột khỏi hai bàn tay ướt mồ hôi của cô, lướt dọc theo sàn nhà.
Không có thời gian để lấy lại. Chạy thôi! Mary Beth nhảy phốc qua nhà truyền giáo trước khi gã kịp xoay người nhả đạn, và cô guồng chân chạy ra ngoài.
Thế là xong!
Thế là cuối cùng cũng thoát khỏi cái chốn khốn kiếp này!
Mary Beth chạy về phía tay trái, quay lại lối mòn mà kẻ bắt cóc đã đưa cô đi qua cách đây hay ngày, cái lối mòn tiếp giáp với một cái vũng Carolina lớn. Đến góc ngôi nhà gỗ, cô rẽ, nhằm hướng cái vũng.
Và lao thẳng vào vòng tay của Garrett Hanlon.
“Không!”, Mary Beth kêu lên. “Không!”
Gã trai chiếu ánh mắt tức giận. Gã cầm một khẩu súng. “Chị ra ngoài bằng cách nào? Bằng cách nào?” Gã tóm chặt cổ tay Mary Beth.
“Để cho tao đi!” Cô cố gắng rút tay, nhưng nắm tay Garrett cứng như thép.
Đi cùng Garrett là một phụ nữ nét mặt nghiêm trang, xinh đẹp, với mái tóc đỏ buông dài. Cũng giống Garrett, quần áo chị ta trông hết sức bẩn thỉu. Người phụ nữ câm lặng, ánh mắt mờ đục. Xem chừng chị ta không hề ngạc nhiên trước sự xuất hiện đột ngột của cô gái. Chị ta trông như đờ đẫn vì thuốc.
“Mẹ kiếp.” Giọng nhà truyền giáo cất lên. “Đồ chó cái chết giẫm!” Gã rẽ ở góc ngôi nhà và thấy Garrett đang chĩa súng vào mặt gã. Gã trai thét: “Mày là ai? Mày làm gì ở nhà tao? Mày làm gì Mary Beth?”.
“Nó tấn công chúng tao! Hãy nhìn bạn tao xem. Hãy nhìn…”
“Vứt cái kia đi”, Garrett gầm lên, hất đầu chỉ khẩu súng trong tay nhà truyền giáo. “Vứt nó đi, nếu không tao sẽ giết mày! Tao sẽ giết. Tao sẽ bắn bay cái sọ khốn kiếp của mày!”
Nhà truyền giáo nhìn bộ mặt và khẩu súng của gã trai. Garrett lên đạn. “Lạy Chúa…” Nhà truyền giáo thả khẩu súng của gã xuống cỏ.
“Bây giờ thì hãy cút khỏi đây! Cút.”
Nhà truyền giáo quay đầu, rồi đỡ Tom đứng lên, hai gã lảo đảo đi về phía rừng.
Garrett bước về phía cửa trước của ngôi nhà gỗ, kéo theo Mary Beth. “Vào nhà! Chúng ta phải vào nhà. Bọn họ đang đuổi theo chúng ta. Chúng ta không thể để bọn họ trông thấy. Chúng ta sẽ trốn dưới tầng hầm. Hãy xem bọn chúng đã làm gì với các ổ khóa! Bọn chúng đã phá vỡ cánh cửa của tôi!”
“Không, Garrett!”, Mary Beth nói bằng giọng khản đặc. “Tôi sẽ không quay vào đó đâu.”
Nhưng Garrett không nói gì, cứ thế kéo cô vào. Người phụ nữ tóc đỏ câm lặng loạng choạng bước vào. Garrett đẩy cho cánh cửa đóng lại, nhìn phiến gỗ vỡ toác, các ổ khóa long ra, vẻ mặt sững sờ. “Không!”, gã kêu lên, trông thấy những mảnh thủy tinh trên sàn – dấu vết của chiếc lọ đựng con bọ cánh cứng có hình dáng khủng long.
Mary Beth, hoảng hốt thấy có vẻ như việc khiến gã trai giận dữ nhất chính là việc một con bọ của gã đã trốn thoát, bước tới giáng một cái tát vào bộ mặt gã. Gã chợp mắt ngạc nhiên, lảo đảo lùi lại. “Đồ ngu!”, cô thét. “Bọn chúng suýt giết chết tao.”
Gã trai bối rối. “Tôi xin lỗi!” Giọng gã lạc đi. “Tôi không biết bọn chúng. Tôi tưởng không có ai xung quanh đây. Tôi không định bỏ chị một mình lâu vậy. Tôi đã bị bắt.”
Garrett đẩy những mảnh gỗ vụn vào dưới cánh cửa để chèn cho nó không mở ra.
“Bị bắt?”, Mary Beth hỏi. “Vậy cậu đang làm gì ở đây?”
Rốt cuộc thì người phụ nữ tóc đỏ cũng lên tiếng. Bằng giọng lẩm bẩm, chị ta nói: “Tôi đã cứu cậu ấy ra khỏi nhà giam. Để chúng tôi có thể tìm thấy cô và đưa cô trở về. Và cô sẽ có thể xác nhận chuyện gã đàn ông mặc quần yếm mà cậu ấy kể”. Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
“Gã đàn ông nào?”, Mary Beth bối rối hỏi.
“Tại Bến tàu kênh Nước đen. Gã đàn ông mặc chiếc quần yếm màu vàng, kẻ đã giết Billy Stail.”
“Nhưng…”, Mary Beth lắc đầu. “Chính Garrett đã giết Billy. Hắn đập cậu ta bằng một cái xẻng. Tôi trông thấy mà. Sự việc xảy ra ngay trước mắt tôi. Rồi hắn bắt cóc tôi.”
Mary Beth chưa từng trông thấy một vẻ mặt như thế ở bất cứ ai khác. Hoàn toàn choáng váng, sững sờ. Người phụ nữ tóc đỏ vừa quay về phía Garrett thì có cái gì đó đập vào mắt chị ta: những dãy trái cây và rau đóng hộp hiệu Farmer John. Chị ta chậm chạp bước tới chỗ chiếc bàn, y như trong cơn mộng du và cầm một hộp lên. Nhìn chằm chằm hình ảnh in trên nhãn hộp – ông chủ trang trại tóc vàng tươi cười mặc chiếc quần yếm màu nâu vàng và sơ mi trắng.
“Cậu đã bịa đặt?”, người phụ nữ thì thào bảo Garrett, giơ cái hộp lên. “Không có gã đàn ông nào. Cậu đã nói dối tôi.”
Garrett bước tới, nhanh như một con châu chấu, rút đôi còng tay ra khỏi thắng lưng người phụ nữ tóc đỏ. Gã bập còng vào cổ tay chị ta.
“Tôi xin lỗi, Amelia”, gã nói. “Nhưng nếu tôi kể cho cô nghe sự thật, cô sẽ chẳng đời nào cứu tôi ra. Đó là cách duy nhất. Tôi phải quay lại đây. Tôi phải quay lại với Mary Beth.”
Chú Thích:
<37> Nguyên văn là Wheel of fortune.”
16.06.2015
PHẦN 4: TỔ ONG BẮP CÀY
CHƯƠNG 36
Dịch giả: Đinh Minh Hương
Nguồn: NXB Văn học
Nội dung thu gọn
TÌM THẤY TẠI HIỆN TRƯỜNG GIÁN TIẾP - CỐI XAY
Sơn nâu dây trên quần
Cây gọng vó
Đất sét
Rêu nước
Nước trái cây
Sợi giấy
Viên chua làm mồi câu
Đường
Camphene
Chất cồn
Dầu hỏa
Men nở
Ánh mắt Lincoln Rhyme lướt qua lướt lại bảng chứng cứ một cách ám ảnh. Từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên.
Thêm lần nữa.
Quái quỷ thế nào mà cái máy tách hợp chất chết tiệt chạy lâu vậy? Rhyme tự hỏi.
Jim Bell và Mason Germain ngồi gần đó, cả hai đều im lìm. Lucy đã gọi điện về cách đấy mấy phút, bảo rằng họ bị mất dấu vết và đang chờ đợi ở một địa điểm nằm về phía bắc ngôi nhà lưu động – ô C-5.
Chiếc máy tách hợp chất kêu ầm ầm và tất cả mọi người trong căn phòng vẫn không ai nói gì, chờ đợi kết quả.
Những phút im lặng kéo dài cuối cùng cũng bị phá vỡ khi giọng Ben Kerr cất lên. Anh ta khẽ khàng bảo Rhyme: “Bọn bạn từng đặt biệt hiệu cho tôi, ông biết đấy. Có thể ông đang thắc mắc”.
Rhyme nhìn Ben.
“Big Ben. Giống như tên chiếc đồng hồ ở nước Anh ấy. Có thể ông đang thắc mắc.”
“Không. Cậu muốn nói hồi đi học ấy hả?”
Một cái gật đầu. “Hồi trung học. Mười sáu tuổi, tôi đã cao 1m90. Tôi rất hay bị giễu cợt. Big Ben. Và cả những biệt hiệu khác nữa. Vì thế tôi chẳng bao giờ cảm thấy thoải mái cho lắm về hình dáng bên ngoài của mình. Tôi nghĩ có lẽ đó là lý do tại sao tôi đã cư xử hơi kỳ cục lúc mới gặp ông.”
“Bọn bạn từng khiến cậu trải qua khoảng thời gian khó khăn, phải không?”. Rhyme hỏi, vừa để tỏ ý chấp nhận lời xin lỗi vừa để lái câu chuyện sang hướng khác.
“Tất nhiên rồi. Cho tới khi tôi tham gia đấu vật ở trường và hạ Darryl Tennison sau 3,2 giây, còn cậu ta thì phải lâu hơn như thế nhiều mới hồi phục được.”
“Tôi từng thường xuyên bỏ giờ giáo dục thể chất”, Rhyme bảo Ben. “Tôi bịa đặt ra các lý do của bác sĩ, của cha mẹ tôi – tôi phải nói là các lý do nghe khá xác đáng đấy – rồi lẻn vào phòng thí nghiệm.”
“Ông đã như thế à?”
“Ít nhất cũng mỗi tuần hai lần.”
“Và ông làm thí nghiệm ?”
“Tôi hay đọc, nghịch ngợm với các thiết bị. Có một vài lần, tôi nghịch ngợm với Sonja Metzger.”
Thom và Ben bật cười.
Nhưng Sonja, bạn gái đầu tiên của Rhyme, lại khiến anh nghĩ về Amelia Sachs, và anh không thích cái kết cục mà những ý nghĩ này dẫn anh tới.
“Được rồi”, Ben nói. “Chúng ta đã có kết quả.” Màn hình máy vi tính bừng hiện kết quả phân tích mẫu chứng mà lúc trước Rhyme yêu cầu Jim Bell cung cấp. Anh chàng to lớn gật đầu. “Đây là kết quả: dung dịch chứa năm mươi phần trăm chất cồn. Nước, với nhiều khoáng chất.”
“Nước giếng”, Rhyme nói.
“Rất có khả năng”, nhà động vật học tiếp tục. “Tiếp theo là dấu hiệu của formaldehyde, phenol, fructose, dextrose, cellulose.”
“Đối với tôi thế là đủ”, Rhyme tuyên bố. Anh tự nhủ: Con cá có lẽ vẫn còn ở trên cạn nhưng phổi của nó vừa mọc ra. Anh bảo Bell và Mason: “Tôi đã mắc sai lầm. Một sai lầm lớn. Tôi phát hiện được men nở và tôi cho rằng đó là từ chỗ cối xay, chứ không phải từ nơi Garrett đang thực sự giữ Mary Beth. Nhưng tại sao một cáicối xay lại tạo ra men nở? Người ta chỉ tìm thấy men nở ở hiệu bánh... hoặc – anh nhướn lông mày nhìn Bell - ở chỗ nào đấy mà người ta đang ủ ngũ cốc”. Anh hất đầu chỉ chiếc chai trên bàn. Chất lỏng bên trong là thứ Rhyme vừa yêu cầu Bell lấy lên từ tầng hầm văn phòng cảnh sát trưởng. Nó là rượu lậu một trăm mười phần trăm độ chuẩn – đựng bằng những cái bình trước đây đựng nước trái cây mà Rhyme trông thấy một cảnh sát dọn dẹp đi khi anh chiếm căn phòng này để biến thành phòng thí nghiệm. Đó là mẫu Ben vừa cho chạy qua máy phân tích hợp chất.
“Đường và men nở”, nhà hình sự học tiếp tục. “Chúng là thành phần trong rượu. Và cellulose trong mẻ “trăng sáng” kia...”. Rhyme nhìn màn hình máy vi tính.
“Có lẽ là từ các sợi giấy – tôi đồ rằng khi người ta cất rượu lâu, người ta phải lọc.”
“Đúng”, Bell khẳng định. “Và phần lớn dân “trăng sáng” sử dụng loại phin lọc cà phê sản xuất hàng loạt.”
“Hoàn toàn giống những sợi giấy chúng tôi tìm thấy trên quần áo của Garrett. Và dextrose, fructose – các loại đường phức hợp được tìm thấy trong trái cây. Đó là từ dấu nước trái cây còn đọng lại trong bình. Ben nói nó có vị chát – giống như việt quất. Jim, anh đã bảo tôi đấy là loại bình đựng rượu lậu phổ biến nhất. Đúng không?”
“Nhãn hiệu Ocean Spray.”
“Vậy”, Rhyme tóm tắt lại. “Garrett đang giữ Mary Beth trong một ngôi nhà gỗ vốn của dân cất rượu lậu – có lẽ là một nhà đã bị bỏ hoang kể từ lần cơ quan chức trách ập đến khám xét.”
“Lần nào?”, Mason hỏi.
“Chà, cũng giống như ngôi nhà lưu động”, Rhyme đáp ngắn gọn, không thích cứ luôn phải giải thích những điều hiển nhiên. “Nếu Garrett sử dụng nơi nào đó để giấu Mary Beth thì nơi ấy ắt đã bị bỏ hoang. Và lý do duy nhất khiến người ta từ bỏ một xưởng chưng cất rượu đang hoạt động là gì?”
“Bị cơ quan thuế xộc đến”, Bell trả lời.
“Phải”, Rhyme nói. “Hãy gọi điện đi xác định địa điểm của tất cả các xưởng chưng cất rượu từng bị khám xét trong vòng vài năm vừa qua. Đó sẽ là một ngôi nhà được xây dựng từ thế kỉ XIX, xung quanh có nhiều cây cối, quét sơn màu nâu – tuy nó chưa chắc đã quét sơn màu nâu vào thời điểm bị khám xét. Nó cách nơi Frank Heller sống bốn hay năm dặm, bên cạnh một cái vũng Carolina hoặc từ sông Paquo người ta sẽ phải đi vòng qua một cái vũng mới tới đấy được.”
Bell rời khỏi phòng, đi gọi điện cho cơ quan thuế.
“Thật thú vị, Lincoln”, Ben nói. Thậm chí Mason Germain xem chừng cũng bị ấn tượng.
Lát sau, Bell vội vã quay lại. “Đây rồi!” Anh ta nghiên cứu mảnh giấy cầm trong tay, rồi bắt đầu dò theo bản đồ, dừng ở ô B-4. Anh ta khoanh tròn một điểm. “Đúng chỗ này. Trưởng bộ phận điều tra của cơ quan thuế nói đấy là một cuộc tập kích lớn. Họ đã tiến hành cách đây một năm. Một nhân viên mật vụ của anh ta đi kiểm tra qua chỗ đó hai, ba tháng trước và thấy nó được sơn thành màu nâu, bởi vậy nhân viên này cho rằng nên kiểm tra xem phải chăng nó lại được sử dụng. Nhưng anh ta nói nó vẫn bị bỏ hoang và không quan tâm đến nó nữa. Ồ, với cả cách nó gần hai mươi thước có một cái vũng Carolina lớn.”
“Có đường để ô tô vào được đó chứ?”, Rhyme hỏi.
“Phải có”, Bell trả lời. “Tất cả các xưởng chưng cất rượu đều gần đường – để đem nguyên liệu đến và vận chuyển sản phẩm đi.”
Rhyme gật đầu quả quyết nói: “Tôi cần một tiếng đồng hồ nói chuyện riêng với cô ấy – để thuyết phục cô ấy ra. Tôi biết là tôi có thể làm điều đó”.
“Như thế thật mạo hiểm, Lincoln.”
“Tôi cần một tiếng đồng hồ ấy”, Rhyme nói, mắt không rời mắt Bell.
Cuối cùng, Bell trả lời: “Được rồi. Nhưng nếu Garrett thoát lần này, sẽ có một cuộc săn đuổi dốc toàn lực”.
“Tôi hiểu. Anh nghĩ xe của tôi vào được đấy không?”
Bell nói: “Đường chẳng rộng lắm, nhưng…”
“Tôi sẽ đưa anh đến đấy”, Thom nói dứt khoát. “Dù có thế nào, tôi cũng sẽ đưa anh đến đấy.”
Năm phút sau khi Rhyme lăn xe ra khỏi trụ sở chính quyền quận, Mason Germain quan sát Jim Bell trở về văn phòng. Anh ta đợi một lát và chắc chắn rằng không ai trông thấy mình, liền bước ra hành lang, đi về phía cửa trước tòa nhà.
Có hàng chục máy điện thoại trong trụ sở chính quyền quận mà Mason có thể sử dụng để gọi, nhưng anh ta lại bước ra ngoài trời nóng, vội vã băng ngang khoảng sân sang một dãy điện thoại công cộng trên vỉa hè bên kia đường. Anh ta thọc tay vào túi quần tìm mấy đồng xu. Anh ta nhìn xung quanh và khi không trông thấy ai liền thả chúng vào máy điện thoại, bấm những chữ số ghi trên một mảnh giấy nhỏ.
Farmer John, Farmer John. Hãy thưởng thức những thức ăn tươi ngon của Farmer John… Farmer John, Farmer John. Hãy thưởng thức những thức ăn tươi ngon của Farmer John…
Nhìn chằm chằm dãy hộp thực phẩm trước mặt, cả chục ông chủ trang trại chằm chằm nhìn đáp lại cô, miệng nở nụ cười giễu cợt, đầu óc Amelia Sachs ù đặc khi nghe mãi cái giai điệu ngớ ngẩn này, bài thánh ca cho sự ngu dại của cô.
Sự ngu dại đã cướp đi cuộc đời Jesse Corn. Và đã hủy hoại cuộc đời chính bản thân cô nữa.
Sachs chỉ ý thức được một cách mơ hồ về ngôi nhà gỗ nơi bây giờ cô đang ngồi, làm tù nhân của gã trai mà cô đã đánh liều cuộc đời mình để giải cứu. Và lúc thì tức giận Garrett, lúc thì tức giận Mary Beth.
Không, tất cả những gì cô có thể trông thấy là cái đốm màu đen bé tí xuất hiện trên trán Jesse Corn. Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Tất cả những gì cô nghe được là cái giai điệu ê a. Farmer John…Farmer John…
Rồi Sachs đột ngột hiểu ra một điều: thi thoảng tâm trí Lincoln Rhyme lại bỏ đi đâu đó. Anh có thể vẫn đang chuyện trò nhưng lời lẽ trở nên hời hợt, anh có thể vẫn đang mỉm cười nhưng nụ cười không thật, anh có thể vẫn đang tỏ ra lắng nghe nhưng chẳng nghe thấy gì. Những lúc như thế, cô biết, anh đang tính tới cái chết. Anh đang suy nghĩ về việc tìm kiếm sự giúp đỡ của một tổ chức trợ tử nào đấy kiểu như Hội Bến Mê. Hoặc thậm chí, như một số người tàn tật nặng đã làm, là thuê sát thủ. (Rhyme, từng đóng góp cho nhà tù không ít kẻ tội phạm có tổ chức – tội phạm băng nhóm – hiển nhiên là có quan hệ với các đối tượng loại này. Thực tế, một số có lẽ còn vui vẻ phục vụ miễn phí.)
Nhưng cho tới thời điểm này – khi cuộc đời chính bản thân cô cũng tan nát y như cuộc đời Rhyme, không, tan nát hơn – cô vẫn luôn luôn cho rằng anh suy nghĩ như thế là sai lầm. Tuy nhiên, bây giờ cô hiểu được những cảm giác trong lòng anh.
“Không!”, Garrett nói to, nhảy bật dậy và nghênh tai về phía cửa sổ. Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Người ta phải luôn luôn lắng nghe. Nếu không có thể bị kẻ khác thộp cổ lúc nào chả biết.
Rồi Sachs cũng nghe được. Một chiếc ô tô đang từ từ tiến đến gần.
“Bọn họ đã tìm ra chúng ta!”, gã trai kêu lên, cầm lấy khẩu súng. Gã chạy tới chỗ cửa sổ, nhìn chằm chằm ra ngoài. Gã có vẻ bối rối. “Gì thế kia?”, gã thì thào.
Một cánh cửa đóng đánh sầm. Rồi một lúc lâu im lặng.
Rồi cô nghe thấy tiếng gọi: “Sachs. Anh đây”.
Gương mặt cô thoáng hiện nụ cười yếu ớt. Không có người nào khác trong vũ trụ này có thể phát hiện được cái chốn này, trừ Lincoln Rhyme.
“Sachs, em có ở đấy không?’
“Đừng!”, Garrett thì thầm. “Đừng nói gì cả!”
Phớt lờ gã, Sachs đứng lên và bước tới chỗ ô cửa sổ vỡ kính. Ngoài kia, phía trước ngôi nhà gỗ, đỗ nghiêng nghiêng trên lối đi đắp đất, là chiếc Rollx màu đen. Rhyme đã lăn chiếc Storm Arrow vào sát ngôi nhà – chỉ dừng lại khi một mô đất gần hàng hiên không cho phép anh vào sát hơn nữa. Thom đứng bên cạnh anh.
“Chào anh, Rhyme”, Sachs nói.
“Im nào!”, gã trai gay gắt thì thào.
“Anh nói chuyện với em được không?”, nhà hình sự học hỏi to.
Mục đích là gì? Sachs băn khoăn tự nhủ. Tuy nhiên, cô vẫn trả lời: “Được”.
Sachs bước tới cửa ra vào và bảo Garrett: “Mở ra. Tôi sẽ ra ngoài”.
“Đừng, đó là một thủ đoạn”, gã trai nói. “Bọn họ sẽ tấn công...”
“Mở cửa ra, Garrett”, Sachs nói dứt khoát, mắt xoáy vào mắt gã trai. Gã nhìn xung quanh căn phòng. Rồi gã cúi xuống, lôi những mảnh gỗ chèn phía dưới cánh cửa ra. Sachs đẩy cánh cửa, chiếc còng khóa chặt cổ tay cứng đờ của cô kêu leng keng như tiếng nhạc ngựa kéo xe trượt tuyết.
“Hắn đã làm việc ấy, Rhyme”, cô nói trong lúc ngồi trên bậc lên xuống hàng hiên, trước mặt anh. “Hắn đã giết Billy...Em đã sai lầm. Hết sức sai lầm.”
Nhà hình sự học nhắm mắt lại. Cô hẳn đang cảm thấy sợ hãi biết bao, anh nghĩ. Anh chăm chú nhìn cô, gương mặt cô tái nhợt, ánh mắt lạnh lùng. Anh hỏi: “Mary Beth có sao không?”.
“Không sao. Khiếp sợ nhưng không sao cả.”
“Cô ta đã chứng kiến hắn làm việc đó?”
Sachs gật đầu.
“Không có gã đàn ông mặc quần yếm nào?”, Rhyme hỏi.
“Không có. Garrett đã bịa đặt ra. Để được em giải cứu. Hắn đã sắp xếp tất cả ngay từ đầu. Đánh lạc hướng chúng ta về phía khu Bờ Ngoài. Giấu một con thuyền, các thứ dự trữ. Hắn đã lên kế hoạch hành động nếu bị đuổi theo sát. Thậm chí đã có một ngôi nhà bí mật – cái ngôi nhà lưu động mà anh phát hiện được ấy. Nhờ chiếc chìa khóa, phải không? Chiếc chìa khóa em tìm thấy trong lọ đựng ong bắp cày? Anh đã lần ra dấu vết hắn và em bằng cách ấy.”
“Nhờ chiếc chìa khóa”, Rhyme khẳng định.
“Đáng lẽ em phải nghĩ tới điều ấy. Hắn và em đáng lẽ phải lưu lại một nơi khác.”
Rhyme trông thấy Sachs bị còng và Garrett đang ở chỗ cửa sổ, bực bội ngó ra, tay lăm lăm một khẩu súng. Tình huống bây giờ là tình huống bắt giữ con tin. Garrett sẽ không tự nguyện đi ra. Đã đến lúc đề nghị FBI tham dự vào. Rhyme có người bạn, Arthur Potter, bây giờ đã nghỉ hưu, nhưng vẫn là người thương thuyết giỏi nhất của cơ quan này từ trước tới nay. Ông ta sống ở Washington và có thể xuống được đây sau vài tiếng đồng hồ.
Anh quay lại với Sachs. “Còn Jesse Corn?”
Cô lắc đầu. “Em không biết đấy là anh ta, Rhyme. Em tưởng là một trong số hai gã bạn của Culbeau. Một cảnh sát nhảy bổ đến em, làm súng em cướp cò. Nhưng đó là lỗi ở em – em đã chĩa súng không cài chốt an toàn vào mục tiêu chưa xác định chắc chắn. Em đã vi phạm quy tắc thứ nhất.”
“Anh sẽ thu xếp cho em có được luật sư giỏi nhất nước.”
“Việc ấy không quan trọng.”
“Việc ấy quan trọng chứ, Sachs. Quan trọng. Chúng ta sẽ giải quyết được tình hình theo cách nào đó.”
Sachs lắc đầu. “Không có gì để giải quyết đâu, Rhyme. Đây là tội giết người. Một vụ quá rõ ràng rồi.” Rồi cô ngẩng nhìn, ánh mắt vượt qua Rhyme. Cô chau mày, đứng lên. “Cái gì...?”
Một giọng phụ nữ đột ngột hô to: “Đừng động đậy! Amelia, cô đã bị bắt”.
Rhyme cố gắng ngoái lại nhưng không thể quay đầu được nhiều. Anh thổi vào ống điều khiển và xoay xe nửa vòng. Anh trông thấy Lucy cùng với hai đồng sự đang khom lưng chạy tới từ phía rừng. Vũ khí lăm lăm trong tay, họ không rời mắt khỏi các ô cửa sổ của ngôi nhà gỗ. Hai người nam giới nấp vào sau hai thân cây. Còn Lucy thì tự tin bước đến chỗ Rhyme, Thom và Sachs, súng chĩa ngang ngực Sachs.
Đội tìm kiếm đã phát hiện ra ngôi nhà gỗ này bằng cách nào? Họ nghe thấy tiếng Rhyme chăng? Hay Lucy lại lần được theo dấu vết Garrett?
Hay Bell thất hứa với anh và cung cấp thông tin cho họ?
Lucy bước thẳng đến chỗ Sachs và ngay lập tức ra một đòn mạnh vào mặt cô, nắm đấm của Lucy nện vào cằm nữ cảnh sát. Sachs bật tiếng rên khe khẽ vì đau, bước lùi lại. Cô không nói gì.
“Không!”, Rhyme kêu lên. Thom bước tới, nhưng Lucy tóm cánh tay Sachs. “Mary Beth có trong kia không?”
“Có.” Cằm Sachs rỉ máu.
“Cô ấy ổn chứ?”
Một cái gật đầu.
Nhìn về phía ô cửa sổ, Lucy hỏi: “Hắn đang giữ vũ khí của cô à?”.
“Vâng.”
“Lạy Chúa.” Lucy gọi hai đồng sự. “Ned, Trey, hắn ở bên trong nhà. Hắn có vũ khí.” Rồi cô gay gắt bảo Rhyme: “Tôi nghĩ là anh nên vào chỗ nấp đi”. Và thô bạo đẩy Sachs ra phía sau chiếc ô tô đang đỗ đối diện ngôi nhà gỗ.
Rhyme di chuyển theo hai người phụ nữ. Thom giữ chiếc xe lăn cho nó không bị đổ khi lăn ngang qua khoảng sân gồ ghề.
Lucy quay sang Sachs, vẫn tóm cánh tay cô: “Hắn đã làm việc đó, phải không? Mary Beth nói cho cô biết rồi phải không? Garrett đã giết Billy”.
Sachs nhìn xuống đất. Rốt cuộc, cô nói: “Phải…Tôi xin lỗi. Tôi…”.
“Xin lỗi không có ý nghĩa chết tiệt gì đối với tôi hay đối với bất cứ ai khác. Đối với Jesse Corn lại càng không…Garrett có thứ vũ khí gì trong đó nữa không?”
“Tôi không biết. Tôi không trông thấy.”
Lucy quay lại ngôi nhà gỗ, hét to: “Garrett, mày có nghe thấy tao nói không? Lucy Kerr đây. Tao muốn mày bỏ khẩu súng ấy xuống và bước ra ngoài, đặt hai bàn tay trên đầu. Mày hãy làm như vậy ngay bây giờ đi, được chứ?”.
Sự đáp trả duy nhất là cánh cửa đóng sầm lại. Tiếng nện không rõ rệt lắm vang khắp bãi đất trống. Garrett đang đóng đinh hoặc chèn cánh cửa. Lucy rút điện thoại di động ra, bắt đầu gọi.
“Này, cô cảnh sát.” Một giọng đàn ông cắt ngang. “Cô cần giúp đỡ chăng?”
Lucy quay lại. “Ôi, không”, cô lẩm bẩm.
Rhyme cũng liếc nhìn về phía giọng nói. Một gã đàn ông cao to, tóc buộc vổng, mang khẩu súng trường đi săn, đang rẽ cỏ bước về phía họ.
“Culbeau”, Lucy quát. “Tôi đang có việc phải giải quyết ở đây và tôi không thể nào giải quyết được cả anh nữa. Hãy đi đi, đi khỏi chỗ này đi.” Cô để ý thấy có cái gì đó ngoài bãi cỏ. Một gã đàn ông nữa đang từ từ tiến về phía ngôi nhà gỗ. Gã mang khẩu súng trường quân đội màu đen, nheo mắt trầm ngâm xem xét bãi cỏ và ngôi nhà. “Sean phải không?”. Lucy hỏi.
Culbeau nói: “Phải, và Harris Tomel ở kia”.
Tomel bước về phía viên cảnh sát người Mỹ gốc Phi cao lớn. Họ trò chuyện vẻ thoải mái, như thể đã biết nhau.
Culbeau kiên trì: “Nếu thằng nhãi đang ở bên trong nhà, các cô có thể sẽ cần đến sự giúp đỡ để đưa hắn ra. Chúng tôi làm gì được?”.
“Đây là công việc của cảnh sát, Rich. Ba anh, hãy đi khỏi đây. Nào, Trey!”, Lucy gọi viên cảnh sát da đen. “Đưa họ đi khỏi đây.”
Viên cảnh sát thứ ba, Ned bước tới chỗ Lucy và Culbeau. “Rich”, anh ta nói. “Không có phần thưởng nữa đâu. Hãy quên chuyện đó đi và...”
Phát đạn từ khẩu súng trường công suất lớn của Culbeau chọc thủng một lỗ trước ngực Ned, đồng thời sức đập khiến anh ta bị hất về phía sau chừng vài feet, rồi ngã ngửa xuống. Trey nhìn chằm chằm Harris Tomel, chỉ đang đứng cách mình chừng mười feet. Hai người trông đều sững sờ như nhau và trong khoảnh khắc không người nào nhúc nhích cả.
Rồi từ phía Sean O’Sarian vang lên tiếng hú nghe như tiếng hú của linh cẩu, gã này nâng khẩu súng trường quân đội, bắn ba phát vào lưng Trey. Cười sằng sặc sau khi giết người, gã mất hút giữa đám cỏ.
“Không!”, Lucy thét lên và giơ súng nhằm Culbeau, nhưng đến lúc cô nhả đạn thì gã đã kịp lẩn vào những búi cỏ cao mọc xung quanh ngôi nhà gỗ.
16.06.2015
PHẦN 4: TỔ ONG BẮP CÀY Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
CHƯƠNG 37
Dịch giả: Đinh Minh Hương
Nguồn: NXB Văn học
Nội dung thu gọn
Rhyme cảm thấy sự hối thúc mang tính bản năng bảo anh hãy lăn xuống đất nhưng, tất nhiên, anh vẫn ngồi thẳng trên chiếc Storm Arrow. Thêm những phát đạn găm sâu vào chiếc ô tô nơi Sachs và Lucy đứng trước đây một lúc, còn bây giờ thì hai người đã nằm sấp xuống cỏ. Thom quỳ gối, cố gắng nhấc chiếc xe lăn bị lún chặt trong đất nhão lên.
“Lincoln!”, Sachs gọi to.
“Anh không sao. Di chuyển đi! Sang phía bên kia xe. Vừa nấp vừa di chuyển.”
Lucy nói: “Nhưng ở phía đó chúng ta có thể trở thành mục liêu của Garrett.”
Sachs gay gắt đáp trả: “Nhưng hắn không phải kẻ đang bắn như điên kia!.”
Một phát đạn súng săn nữa bay qua họ, chỉ cách hơn gang tay và viên kẹo đồng lăn lách cách dọc dãy hàng hiên. Thom cho chiếc xe lăn về số không và bê nó sang phía kia của ô tô, phía đối diện ngôi nhà gỗ. “Cúi thấp nhé”, Rhyme bảo anh chàng phụ tá vừa phớt lờ một phát đạn lướt vèo qua họ và làm vỡ tan tành một ô kính cửa sổ bên thành ô tô.
Lucy và Sachs theo hai người đàn ông sang khoảng bóng râm giữa chiếc ô tô và ngôi nhà gỗ.
“Quái quỷ làm sao bọn chúng lại hành động như thế này nhỉ?”, Lucy kêu lên. Cô bắn mấy phát, khiến O’Sarian và Tomel phải quờ quạng tìm chỗ nấp. Rhyme không thể trông thấy Culbeau, nhưng biết rằng cái gã khổng lồ đó đang ở đâu đấy ngay trước mặt họ. Khẩu súng trường gã đã sử dụng lúc nãy có công suất lớn và lắp một kính ngắm khẩu độ rộng.
“Tháo còng ra cho tôi và đưa tôi súng”, Sachs hét.
“Đưa cô ấy súng đi”, Rhyme bảo. “Cô ấy bắn tốt hơn chị”
“Không đời nào!” Người nữ cảnh sát lắc đầu, vẻ mặt kinh ngạc trước đề nghị này. Thêm những phát đạn đập vào thân ô tô gọt bay các mảnh gỗ từ hàng hiên ngôi nhà.
“Bọn chúng có cả súng trường!”, Sachs nổi khùng. “Chị không đọ được với bọn chúng đâu. Đưa súng cho tôi!”
Lucy dựa đầu vào thành ô tô, bàng hoàng nhìn chằm chằm xác hai người cảnh sát nằm trên cỏ. “Chuyện gì đang diễn ra vậy?”, cô lẩm bẩm, bật khóc. “Chuyện gì đang diễn ra?”
Vật che chắn cho họ - chiếc ô tô - chẳng còn chống chọi được lâu lắm nữa. Nó bảo vệ họ khỏi Culbeau và khẩu súng trường của gã, nhưng hai gã kia đang kẹp họ vào giữa. Vài phút nữa thôi, bọn chúng sẽ dàn đội hình bắn chéo cánh sẻ.
Lucy nã thêm hai phát đạn - nhằm đám cỏ nơi phát đạn súng săn vừa vọt lên. Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
“Đừng lãng phí đạn”, Sachs ra lệnh. “Hãy đợi tới lúc chị đã ngắm thật trúng. Nếu không...”
“Câm mồm”, Lucy nổi xung lên. Cô đập đập các túi quần. “Mất cái điện thoại chết tiệt rồi.”
“Lincoln”, Thom nói. “Tôi sẽ nhấc anh ra khỏi xe lăn. Anh là mục tiêu dễ dàng quá.”
Rhyme gật đầu. Anh chàng phụ tá tháo bộ dây chằng, vòng hai cánh tay ngang ngực Rhyme, kéo anh ra khỏi xe lăn, đặt anh xuống đất. Rhyme cố gắng ngẩng đầu quan sát tình hình, nhưng một cơn co cơ - một cơn chuột rút tàn nhẫn - níu lấy cơ cổ anh, và anh phải chúi đầu xuống cỏ cho tới lúc hết đau. Chưa lúc nào anh cảm thấy nhức nhối vì sự tàn phế của mình như lúc này. Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Thêm những phát đạn. Gần hơn. Và O’Sarian lại cất tiếng gọi rồ dại. “Này, cô em múa dao, cô em đâu rồi?”
Lucy lẩm bẩm: “Bọn chúng đã chuẩn bị sẵn sàng”.
“Đạn?”, Sachs hỏi.
‘Tôi còn ba viên trong ổ, một ổ nạp nhanh bên ngoài.”
“Sáu viên hả?”
Một phát đạn xuyên vào lưng chiếc Storm Arrow, hất nó đổ nghiêng. Một đám bụi bốc lên xung quanh.
Lucy bắn hai phát về phía O’Sarian, nhưng tiếng gã cười khành khạch cùng với tiếng khẩu Colt khục khặc đáp trả cho họ biết rằng cô đã bắn trượt.
Tiếng khẩu súng trường cũng cho họ biết rằng chỉ một hay hai phút nữa họ sẽ bị kẹp hẳn vào giữa.
Họ sẽ chết tại đây, bị bắn chết, mắc kẹt trong cái khe tối lờ mờ này, giữa chiếc ô tô vỡ nát và ngôi nhà gỗ. Rhyme băn khoăn tự hỏi liệu anh sẽ cảm thấy thế nào khi những viên đạn xé rách thân thể anh. Sẽ không đau, tất nhiên, thậm chí là không có sức ép nào gây tác động đến phần thịt đã tê liệt. Anh liếc nhìn Sachs, cô cũng đang nhìn anh với vẻ mặt vô vọng.
Anh và em, Sachs...
Rồi Rhyme liếc nhìn về phía trước ngôi nhà gỗ.
“Trông kìa”, anh gọi to.
Lucy và Sachs nhìn theo hướng Rhyme nhìn.
Garrett đã mở cánh cửa trước.
Sachs nói: “Chúng ta hãy vào bên trong”.
“Cô điên đấy à?”, Lucy hỏi to. “Garrett ở phía bọn chúng. Cả lũ bọn chúng với nhau.”
“Không”, Rhyme nói. “Hắn đã có cơ hội để bắn ra từ cửa sổ. Hắn đã không bắn.”
Thêm hai phát đạn nữa, rất gần. Bụi cây gần đấy kêu sột soạt. Lucy nâng súng.
“Đừng lãng phí đạn!”, Sachs gọi. Nhưng Lucy cứ đứng lên, bắn nhanh hai phát vào bụi cây. Hòn đá mà một trong ba gã đàn ông ném vào bụi cây đánh động và lừa cho cô lộ mục tiêu lăn đến. Lucy nhảy sang bên cạnh đúng lúc khẩu súng săn của Tomel nổ. Viên đạn định nhằm lưng cô, tuy nhiên bay vèo qua, cắm vào thành ô tô.
“Mẹ kiếp”, người nữ cảnh sát thốt lên. Cô tháo những vỏ đạn rỗng và nạp lại đạn bằng ổ nạp nhanh.
“Vào bên trong”, Rhyme nói. “Nào.”
Lucy gật đầu. “Được.”
Rhyme ra chỉ thị: “Vác theo kiểu của lính cứu hỏa”. Đây là tư thế bất lợi đối với một người liệt tứ chi - nó nén lên những phần cơ thể không quen chịu nén, tuy nhiên nó đỡ mất thời gian hơn và hạn chế được tối đa thời gian Thom phải phơi mình trước các mũi súng. Rhyme cũng có ý nghĩ rằng chính người anh sẽ che cho Thom.
“Không”, Thom nói.
“Làm thế đi, Thom. Miễn tranh luận.”
Lucy nói: “Tôi sẽ che cho các anh. Ba người các anh di chuyển cùng nhau, sẵn sàng chưa?”
Sachs gật đầu. Thom nhấc Rhyme lên, bế anh như bế một đứa trẻ trên đôi cánh tay khỏe mạnh.
“Thom...”, Rhyme phản đối.
“Im lặng nào, Rhyme”, anh chàng phụ tá quát. “Chúng ta sẽ làm theo cách của tôi.”
“Xuất phát”, Lucy gọi.
Tai Rhyme ù đi vì mấy phát súng nổ lớn. Tất cả trở nên lờ mờ trước mắt khi họ vượt qua mấy bậc thềm để vào bên trong ngôi nhà.
Lúc họ ào vào được bên trong rồi, vẫn còn vài viên đạn nữa cắm vào bức tường gỗ. Lát sau, Lucy lăn người vào theo và đóng sầm cánh cửa lại. Thom nhẹ nhàng đặt Rhyme xuống đi văng.
Rhyme liếc trông thấy một cô gái trẻ khiếp sợ ngồi trên chiếc ghế dựa, nhìn anh chằm chằm. Mary Beth McConnell.
Garrett Hanlon, bộ mặt đỏ nổi đầy mụn, cặp mắt mở to hãi hùng, ngồi đấy, một bàn tay điên cuồng búng móng tanh tách, còn bàn tay kia thì lóng ngóng cầm khẩu súng, trong lúc Lucy chĩa thẳng súng vào mặt gã.
“Đưa súng cho tôi!”, cô hét lên. “Nào, nào!”
Garrett chớp mắt và ngay lập tức đưa súng cho Lucy. Cô nhét nó vào thắt lưng, rồi quát cái gì đó. Rhyme không nghe thấy cô quát cái gì, anh đang nhìn chằm chằm vào cặp mắt hoang mang khiếp sợ của gã trai, cặp mắt của một đứa trẻ. Và anh tự nhủ thầm:
Anh hiểu tại sao em phải hành động như thế, Sachs ạ. Tại sao em tin tưởng hắn. Tại sao em phải cứu hắn.
Anh hiểu…
Rhyme nói: “Mọi người ổn cả chứ?”.
“Ổn”, Sachs trả lời.
Lucy gật đầu.
“Thực ra...”, Thom nói, vẻ gần như có lỗi. “Không hẳn là vậy.”
Anh ta nhấc bàn tay ra khỏi cái bụng săn chắc, lộ ra một vết thương đầm đìa máu. Rồi người phụ tá khuỵu mạnh gối xuống, làm rách toạc hai ống quần mà anh ta đã là lượt hết sức cẩn thận.
16.06.2015
PHẦN 4: TỔ ONG BẮP CÀY
CHƯƠNG 38
Dịch giả: Đinh Minh Hương
Nguồn: NXB Văn học
Nội dung thu gọn
Kiểm tra xem vết thương có bị xuất huyết nghiêm trọng không. Cầm máu. Nếu có thể, kiểm tra xem bệnh nhân có bị choáng không.
Amelia Sachs, từng tham gia khóa huấn luyện về sơ cứu cơ bản của Sở Cảnh sát New York, quỳ xuống bên cạnh Thom, xem xét vết thương.
Anh chàng phụ tá nằm ngửa, tỉnh táo nhưng mặt mũi tái nhợt, mồ hôi ra như tắm. Sachs dùng một bàn tay kiểm tra vết thương.
“Tháo còng cho tôi!”, cô kêu lên. “Tôi chẳng thể săn sóc tới anh ta theo cái cách như thế này được.”
“Không”, Lucy nói.
“Lạy Chúa.” Sachs lẩm bẩm và cố gắng hết mức có thể để kiểm tra bụng Thom với đôi bàn tay vẫn phải đeo còng.
“Cậu cảm thấy thế nào, Thom?”, Rhyme thốt lên. “Hãy nói chuyện với chúng tôi đi chứ.”
“Không cảm thấy gì cả... Có cảm giác... Kỳ lạ...”. Cặp mắt Thom đảo ngược và anh ta ngất đi.
Một tiếng nổ chát chúa vang lên phía bên trên đầu họ. Viên đạn xuyên qua bức tường. Tiếp theo là phát đạn súng săn đập vào cánh cửa đánh thịch. Garrett đưa cho Sachs đống khăn giấy. Cô ấn chúng vào vết rách ở bụng Thom. Cô khe khẽ vỗ mặt anh ta. Anh ta không có phản ứng gì cả.
“Cậu ấy còn sống chứ?”, Rhyme tuyệt vọng hỏi.
“Anh ấy vẫn đang thở. Hơi thở nông. Nhưng vẫn đang thở. Vết thương phía ngoài không nghiêm trọng lắm, tuy nhiên em không biết tổn thương bên trong thì thế nào.”
Lucy nhìn nhanh qua ô cửa sổ, rồi chúi người xuống. “Tại sao bọn chúng lại hành động như thế này nhỉ?”
Rhyme nói: “Jim bảo rằng bọn chúng sản xuất rượu lậu. Có thể bọn chúng đã để mắt tới chỗ này và không muốn chỗ này bị phát hiện. Hoặc có thể có một địa điểm điều chế ma túy ở gần đây.”
“Lúc trước có hai gã đàn ông - bọn chúng đã cố gắng đột nhập vào”, Mary Beth kể cho họ. “Bọn chúng bảo bọn chúng đang phá các cánh đồng cần sa, nhưng tôi nghĩ là bọn chúng đang trồng thì có. Có thể tất cả bọn chúng thuộc một hội.”
“Bell đâu?”, Lucy hỏi. “Và Mason?”
“Anh ấy sẽ tới đây sau nửa tiếng đồng hồ nữa”, Rhyme trả lời.
Lucy lắc đầu, mất hết nhuệ khí trước thông tin này. Rồi cô lại nhìn ra qua ô cửa sổ. Cô cứng đờ người, có vẻ thế khi trông thấy một mục tiêu. Cô nâng khẩu súng lên, vội vã nhắm bắn.
Quá vội vã.
“Không, để tôi!”, Sachs kêu lên.
Nhưng Lucy đã siết cò hai lần. Nét mặt nhăn nhó của cô nói với họ rằng cô lại bắn trượt. Cô nheo mắt nhìn. “Sean vừa tìm thấy một cái bình. Một cái bình màu đỏ. Bình gì thế Garrett? Bình ga à?” Gã trai ngồi co ro trên sàn, sợ hãi không dám nhúc nhích. “Garrett! Trả lời tôi đi!”
Gã quay về phía Lucy.
“Cái bình màu đỏ. Bình đựng gì?”
“Đựng, nói chung, dầu hỏa. Để chạy máy thuyền.”
Lucy lẩm bẩm: “Chết tiệt, bọn chúng định đốt chúng ta.”
“Mẹ kiếp”, Garrett kêu lên. Gã chống gối nhỏm dậy, nhìn Lucy chằm chằm, ánh mắt điên dại.
Sachs, dường như là người duy nhất, biết điều gì sắp xảy ra. Đừng, Garrett, đừng...”
Gã trai phớt lờ cô, mở toang cánh cửa và nửa chạy, nửa bò, thoăn thoắt di chuyển dọc dãy hàng hiên. Đạn găm chiu chiu vào gỗ đuổi theo gã. Sachs không biết liệu gã đã bị trúng đạn chưa. Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Rồi xuất hiện một khoảng im ắng. Ba gã đàn ông mang bình dầu hỏa tiến đến gần hơn ngôi nhà gỗ.
Sachs nhìn xung quanh căn phòng bụi mù vì những phát đạn. Cô trông thấy:
Mary Beth, vòng hai tay ôm lấy mình, khóc lóc.
Lucy, ánh mắt đầy nỗi căm hờn độc địa, đang kiểm tra súng của cô.
Thom, đang chết từ từ vì mất máu.
Lincoln Rhyme, nằm ngửa, thở nặng nhọc.
Anh và em...
Sachs nói với Lucy bằng giọng vững vàng: “Chúng ta phải ra khỏi đây. Chúng ta phải chặn bọn chúng lại. Hai chúng ta.”
“Bọn chúng ba đứa, lại có súng trường.”
“Bọn chúng đang định đốt ngôi nhà này. Và sẽ hoặc là thiêu cháy chúng ta hoặc là bắn chúng ta khi chúng ta nhao ra. Chúng ta không có sự lựa chọn nào cả. Hãy tháo còng cho tôi,” Sachs chìa tay ra. “Chị phải tháo.”
“Làm sao tôi tin tưởng cô được?”, Lucy thì thầm. “Cô đã phục kích chúng tôi trên sông.”
Sachs hỏi: “Phục kích à? Chị đang nói tới cái gì vậy?”
Lucy cau có: “Tôi đang nói tới cái gì ấy à? Cô đã sử dụng con thuyền làm mồi nhử và bắn Ned khi cậu ta bơi ra kéo nó vào.”
“Vớ vẩn! Chính các chị tưởng chúng tôi ở phía dưới con thuyền và đã bắn chúng tôi.”
“Chỉ sau khi cô...” Rồi giọng Lucy nhỏ đi, và cô gật đầu vẻ hiểu ra điều gì.
Sachs nói với người nữ đồng nghiệp: “Đó là bọn chúng. Culbeau và hai gã kia. Một gã đã nổ súng trước. Có thể để đe dọa các chị và làm chậm bước các chị.”
“Còn chúng tôi lại tưởng đó là cô.”
Sachs chìa cổ tay ra. “Chúng ta không có sự lựa chọn nào cả.”
Người nữ cảnh sát thận trọng nhìn Sachs, rồi từ từ thọc tay vào túi quần tìm chìa khóa. Cô mở đôi còng thép mạ crôm. Sachs xoa xoa cổ tay. “Tình hình đạn dược ra sao?”
“Tôi còn bốn viên.”
“Tôi còn năm viên trong súng của tôi”, Sachs nói, cầm lấy khẩu Smith & Wesson nòng dài từ Lucy và kiểm tra ổ đạn.
Sachs nhìn xuống Thom. Mary Beth bước tới. “Tôi sẽ trông nom anh ta.”
“Có điều này”, Sachs nói. “Anh ấy là người đồng tính. Anh ấy đã được làm xét nghiệm rồi, nhưng...”
“Không thành vấn đề”, cô gái đáp. “Tôi sẽ cẩn thận. Bắt đầu đi.”
“Sachs”, Rhyme nói. “Anh...”
“Để sau, Rhyme. Bây giờ không có thời gian.” Sachs hé cánh cửa nhìn nhanh ra ngoài, quan sát địa hình trên cánh đồng cỏ, xem chỗ nào có thể làm cho nấp và ngắm bắn thuận lợi. Đôi bàn tay lại tự do, nắm lấy khẩu súng nặng, cô lại cảm thấy tự tin. Đây là thế giới của cô: súng đạn và tốc độ. Cô chẳng thể suy nghĩ gì về Lincoln Rhyme và cuộc phẫu thuật anh chuẩn bị tiến hành, về cái chết của Jesse Corn, về sự phản bội của Garrett Hanlon, về những gì chờ đợi cô nếu họ thoát khỏi được cái tình huống kinh khủng này.
Khi ta di chuyển, chúng không thể bắt được ta...
Sachs nói với Lucy: “Chúng ta mở cửa ra ngoài. Chị di chuyển về bên trái tới phía sau ô tô, nhưng đừng dừng lại, dù có thế nào. Hãy di chuyển liên tục cho đến khi tới được bãi cỏ. Còn tôi di chuyển về bên phải - đến chỗ cái cây đằng kia. Chúng ta sẽ luồn giữa những đám cỏ cao, tiến về phía trước, về phía rừng, kẹp bọn chúng lại.”
“Bọn chúng sẽ trông thấy chúng ta mở cửa ngoài.”
“Bọn chúng cần trông thấy chúng ta. Chúng ta muốn bọn chúng biết rằng đang có hai chúng ta ở ngoài, nấp đâu đấy giữa bãi cỏ. Điều đó sẽ khiến bọn chúng bối rối, không yên tâm. Đừng bắn chừng nào chị chưa nhắm trúng được một mục tiêu chắc chắn. Chị hiểu rồi chứ?”
“Hiểu rồi.”
Sachs nắm lấy quả đấm cửa bằng bàn tay trái. Mắt cô gặp mắt Lucy.
Một trong ba gã - O’Sarian, có Tomel đi bên cạnh - đang kéo lê bình dầu hỏa về phía ngôi nhà gỗ, không chú ý gì tới cánh cửa trước. Bởi vậy khi hai người phụ nữ nhảy vụt ra, chia làm hai ngả guồng chân chạy tới chỗ nấp, chẳng gã nào kịp rút súng bắn.
Culbeau - ở lại đằng sau để bao quát được mặt tiền và hai đầu hồi ngôi nhà - hẳn cũng chẳng ngờ sẽ có ngưòi xông ra vì tới lúc khẩu súng trường săn hươu của gã nổ thì cả Sachs lẫn Lucy đã lẩn vào những đám cỏ cao mọc xung quanh ngôi nhà.
O’Sarian và Tomel cùng mất hút vào cỏ. Culbeau hét to: “Bọn mày để hai đứa ra ngoài. Bọn mày làm cái mẹ gì vậy?”. Gã bắn thêm một phát về phía Sachs - cô nằm dán xuống đất - và khi cô lại ngẩng nhìn thì Culbeau cũng đã chúi vào cỏ.
Ba con rắn ở đó, trước mặt họ, không động đậy gì. Và không thể xác định được vị trí bọn chúng.
Culbeau hô: “Sang bên phải.”
Một trong hai gã kia đáp: “Đâu?”. Sachs nghĩ đó là Tomel.
“Tao cho là... hẵng khoan.
Rồi yên lặng.
Sachs bò về phía lúc nãy cô trông thấy Tomel và O’Sarian. Cô chỉ trông thấy loáng thoáng có màu đỏ và di chuyển theo hướng đó. Làn gió nóng nực thổi cỏ ngả rạp sang bên và cô trông thấy đấy là cái bình dầu hỏa. Cô tiến thêm chừng vài feet, và khi làn gió lại hợp tác, hạ thấp mũi súng, bắn một viên đạn chính xác vào đáy cái bình. Nó rung rinh vì sức đẩy của viên đạn, rồi tuôn ra thứ chất lỏng trong suốt.
“Mẹ kiếp.” Một trong ba gã đàn ông kêu lên và Sachs nghe thấy tiếng rẽ cỏ loạt soạt. Cô đồ là gã bỏ chạy khỏi chỗ cái bình, tuy nó không bốc cháy.
Lại tiếng loạt soạt, tiếng bước chân.
Nhưng xuất phát từ vị trí nào?
Khi Sachs trông thấy một vật sáng lóe lên ở cách đấy chừng mười lăm mét, giữa bãi cỏ. Gần vị trí của Culbeau lúc nãy. Và cô nhận ra đó là chiếc kính ngắm hoặc thân khẩu súng to bự của gã. Cô thận trọng ngóc đầu, bắt gặp ánh mắt Lucy, chỉ vào mình rồi chỉ về phía vệt sáng. Người nữ đồng nghiệp gật đầu, khoát tay chỉ về phía đầu hồi ngôi nhà gỗ. Sachs gật đầu.
Nhưng khi Lucy bắt đầu khom lưng chạy trong đám cỏ phía tay trái ngôi nhà, O’Sarian đứng dậy, lại cười điên dại, siết cò khẩu Colt. Những tiếng nổ chát chúa vang lên khắp bãi cỏ. Lucy tạm thời trở thành một mục tiêu quá dễ dàng và nếu O’Sarian không phải tay súng nóng vội thì gã đã không bắn trượt. Người nữ cảnh sát nằm sõng soài, trong lúc bụi bốc mù mịt xung quanh cô, rồi nhỏm dậy, nã cho gã một phát, suýt trúng, và gã đàn ông bé loắt choắt thụp xuống nấp, phấn khích vừa reo vừa hét: “Khá đấy, cưng!”.
Sachs lại tiến về phía trước, về phía khẩu súng bắn tỉa của Culbeau. Cô nghe thấy vài phát đạn nữa. Tiếng lốp bốp của khẩu súng lục, rồi đến tiếng tạch tạch của khẩu súng trường quân đội, rồi đến tiếng nổ váng óc của khẩu súng săn.
Sachs lo lắng rằng bọn chúng đã bắn trúng Lucy. Nhưng một lát sau, cô nghe thấy giọng người nữ đồng nghiệp gọi: “Amelia, hắn đang đến chỗ cô đấy.”
Tiếng bước chân nện trong cỏ. Dừng lại một chút. Loạt soạt.
Gã nào? Và gã đang ở vị trí nào? Sachs cảm thấy khiếp sợ, choáng váng nhìn xung quanh.
Rồi yên lặng. Mơ hồ một giọng đàn ông hét gọi gì đó.
Tiếng bước chân lui dần.
Gió lại rẽ cỏ và Sachs trông thấy lấp lóe chiếc kính ngắm của Culbeau. Gã gần như ở ngay trước mặt cô, cách chừng năm mươi feet, trên một gò đất không cao lắm - một vị trí bắn thuận lợi cho gã. Gã có thể nhỏm dậy với khẩu súng to bự kia và bao quát được khắp bãi cỏ. Cô bò nhanh hơn, chắc chắn rằng gã đang chiếu chiếc kính ngắm có độ chính xác cao vào Lucy - hoặc vào bên trong ngôi nhà gỗ và nhằm bắn Rhyme hay Mary Beth qua cửa sổ.
Nhanh hơn, nhanh hơn!
Sachs đứng lên và bắt đầu khom lưng chạy. Culbeau vẫn còn cách chừng ba mươi lăm feet.
Nhưng hóa ra Sean O’Sarian ở gần cô hơn nhiều. Sachs phát hiện ra điều này khi cô guồng chân chạy vào và vấp phải gã. Gã há hốc mồm trong lúc cô lăn qua gã, ngã ngửa ra. Cô ngửi thấy mùi rượu và mùi mồ hôi.
Ánh mắt O’Sarian điên dại. Gã trông y như một kẻ mắc chứng tâm thần phân liệt vậy.
Một khoảng lặng tưởng chừng vô tận và Sachs nâng khẩu súng ngắn lên cùng lúc gã vung khẩu Colt về phía cô. Cô đạp chân lùi lại, ngã người vào cỏ, và hai khẩu súng nổ đồng thời. Cô cảm thấy cái họng súng kia nã ba phát thì hết loạt đạn, cả ba phát đều trượt. Phát duy nhất cô bắn cũng trượt. Khi cô lăn sấp xuống và ngóc đầu tìm kiếm mục tiêu, gã đang vừa nhảy ào ào qua các búi cỏ vừa rú rít.
Đừng để lỡ cơ hội, Sachs tự nhủ mình. Và bất chấp khả năng bị Culbeau bắn, cô đứng lên nhằm O’Sarian. Tuy nhiên, trước khi Sachs kịp siết cò, Lucy Kerr đã đứng lên, nã cho gã một phát trong lúc gã đang chạy thẳng về phía cô. Đầu gã đàn ông nghênh lên và gã ôm lấy ngực. Lại một tràng cười. Rồi gã lăn lông lốc xuống cỏ.
Gương mặt Lucy hiện vẻ bàng hoàng và Sachs tự hỏi phải chăng đây là lần đầu tiên trong cuộc đời cảnh sát cô kết liễu một mạng người. Rồi Lucy thụp xuống. Lát sau, vài phát súng săn bắn nát đám cây cỏ chỗ cô vừa đứng.
Sachs tiếp tục tiến về phía Culbeau. Bây giờ cô di chuyển rất nhanh. Có vẻ gã đã xác định được vị trí của Lucy và chỉ chờ cô đứng lên sẽ nã một phát chính xác.
Còn chừng hai mươi feet, mười.
Chiếc kính ngắm lấp lóe rõ rệt hơn và Sachs chúi xuống.
Thu người lại, đợi tiếng súng nổ. Nhưng dưòng như gã đàn ông to lớn đó chưa trông thấy cô. Không có tiếng súng nổ và cô tiếp tục nằm sấp, trườn sang bên phải để kẹp lấy gã. Mồ hôi túa ra, chứng viêm khớp khiến các khớp xương của cô nhức nhối.
Còn năm feet.
Sẵn sàng.
Hoàn cảnh nổ súng không thuận lợi. Vì Culbeau chiếm vị trí trên một cái gò, muốn nhắm cho thật trúng Sachs sẽ phải lăn vào khoảng đất trống phía bên phải gã và đứng lên. Sẽ chẳng có gì che chắn. Nếu cô không ngay lập tức hạ gục gã, cô sẽ ở ngay trước mũi súng của gã. Và thậm chí nếu cô có hạ gục gã rồi, Tomel cũng sẽ có được vài giây quý giá đủ để nã vào cô bằng khẩu súng săn.
Nhưng không có sự lựa chọn nào cả.
Khi ta di chuyển...
Khẩu Smittie được giương lên, ngón tay đã kéo căng cò súng.
Một hơi thở sâu...
... chúng không thể bắt được ta.
Nào!
Sachs nhảy về phía trước và lăn vào khoảng đất trống. Cô chống một đầu gối ngồi dậy, nhằm bắn.
Và choáng váng há hốc miệng.
“Khẩu súng” của Culbeau chỉ là một đoạn ống lấy từ hệ thống chưng cất rượu cũ, còn chiếc kính ngắm chính là một mảnh chai đặt trên chốc. Dùng cái mẹo mà Sachs và Garrett đã sử dụng tại ngôi nhà nghỉ ven bờ sông Paquenoke.
Bị bịp rồi
Cỏ loạt soạt gần đó. Có tiếng bước chân. Amelia Sachs nằm dán xuống đất tựa một con bướm đêm.
Tiếng bước chân tiến đến gần hơn ngôi nhà gỗ, tiếng bước chân nện huỳnh huỵch, đầu tiên là rẽ qua các bụi rậm, rồi đi trên nền đất, rồi giẫm trên những bậc gỗ dẫn lên thềm nhà. Di chuyển chậm rãi. Đối với Rhyme, chúng nghe có vẻ ung dung hơn là thận trọng. Cũng có nghĩa là tự tin. Và vì thế mà nguy hiểm.
Lincoln Rhyme cố gắng hết sức để nhấc đầu lên khỏi đi văng, nhưng vẫn không thể trông thấy ai đang tiến đến.
Những tấm ván sàn kêu két một tiếng, và Rich Culbeau, cầm khẩu súng trường dài loằng ngoằng, nhìn vào bên trong.
Rhyme lại cảm thấy nỗi khiếp sợ nhói lên. Sachs có làm sao không? Một trong số hàng chục phát súng anh nghe được đã hạ gục cô ư? Cô đang bị thương nằm đâu đó giữa bãi cỏ bụi bốc mù mịt ư? Hay chết rồi?
Culbeau nhìn Rhyme và Thom, đi đến kết luận rằng họ chẳng phải mối đe dọa. Vẫn đứng ở ngưỡng cửa, gã hỏi Rhyme: “Mary Beth đâu?”
Rhyme nhìn thẳng vào mắt gã đàn ông, nói: “Tôi không biết. Cô ta đã chạy ra ngoài tìm kiếm sự giúp đỡ. Năm phút trước”.
Culbeau liếc nhìn xung quanh căn phòng, rồi ánh mắt dừng lại ở cánh cửa dẫn xuống tầng hầm.
Rhyme vội vã nói: “Tại sao các anh lại hành động như thế này? Các anh theo đuổi cái gì vậy?”
“Chạy ra ngoài à? Tao không trông thấy.” Culbeau bước thêm mấy bước vào bên trong nhà, mắt nhìn cánh cửa tầng hầm. Rồi gã hất đầu chỉ về phía sau, về phía bãi cỏ. “Bọn nó đáng lẽ không được để mày ở đây một mình. Việc này là sai lầm của bọn nó.” Gã xem xét cơ thể Rhyme. “Chuyện gì đã xảy ra với mày vậy?”
“Tôi bị thương trong một tai nạn.”
“Mày là cái tay người New York mà ai ai cũng đều đang nói tới đấy. Chính mày đã xác định được con bé ở đây. Mày thực sự không thể cử động sao?”
“Không.”
Culbeau khe khẽ cười hiếu kỳ, y như gã vừa bắt được một loài cá mà gã chưa bao giờ biết là có tồn tại.
Ánh mắt Rhyme lướt sang cánh cửa dẫn xuống tầng hầm, rồi lại trở về với Culbeau.
Gã đàn ông to lớn nói: “Hãy chắc chắn rằng mày đã tự chuốc lấy chuyện lôi thôi ở đây. Lôi thôi hơn mày dự tính đấy.”
Rhyme không đáp lại gì và cuối cùng Culbeau bước tới, chĩa khẩu súng cầm bằng một tay vào cánh cửa dẫn xuống tầng hầm.
“Mary Beth rời khỏi đây rồi, hả?”
“Cô ta chạy ra ngoài. Anh định đi đâu?”, Rhyme hỏi.
Culbeau nói: “Nó ở dưới đây, phải không?”. Gã kéo cho cánh cửa mở toang và nhả đạn, lên đạn, nhả đạn tiếp. Thêm ba phát. Rồi gã ngó xuống khoảng tối mù mịt khói thuốc súng, nạp lại đạn.
Đó là lúc Mary Beth McConnell, giơ cao cây chùy thô sơ của cô, bước ra từ phía sau cánh cửa trước, nơi cô đã nấp rình. Nheo mắt quyết tâm, cô vung mạnh món vũ khí. Nó đập vào bên đầu Culbeau, làm rách một đoạn tai gã. Khẩu súng trường tuột khỏi tay gã và lăn theo các bậc thang xuống tầng hầm tối om. Nhưng gã không bị thương nặng, gã vung nắm đấm khổng lồ, đấm thẳng vào ngực Mary Beth, cô thở hổn hển, ngã xuống sàn, mất hết nhuệ khí. Cô nằm nghiêng, rên rỉ thảm thiết.
Culbeau sờ tai và xem xét chỗ máu chảy. Rồi gã nhìn xuống cô gái trẻ. Từ cái bao đeo ở thắt lưng, gã rút ra con dao gấp, mở đánh tách. Gã túm mái tóc màu nâu của cô, kéo lên, lộ ra cái cổ trắng ngần.
Mary Beth chộp cổ tay gã, cố gắng giữ nó lại. Tuy nhiên hai cánh tay gã quá to và lưỡi dao tối thẫm cứ thế đưa lại gần da thịt cô.
“Dừng lại.” Một giọng nói cất lên ở ngưỡng cửa. Garrett Hanlon vừa bước vào. Gã đang cầm hòn đá lớn xám xịt. Gã bước lại gần Culbeau. “Để cô ấy yên và cút mẹ mày ra khỏi đây.”
Culbeau buông tóc Mary Beth, cô đập đầu xuống sàn. Gã đàn ông to lớn lùi lại. Gã sờ tai lần nữa, cau mày. “Này, thằng nhãi, mày là đứa nào mà chửi tao hả?”
“Nào, cút đi.”
Culbeau cười lạnh lùng. “Tại sao mày quay lại? Tao nặng hơn mày đến một trăm pound. Và tao có con dao Buck. Mày có độc hòn đá đó thôi. Chà, hãy tới đây. Chúng ta sẽ cùng giao đấu, giải quyết vấn đề.”
Garrett búng móng tay hai lần. Gã khom lưng xuống như võ sĩ đấu vật, chậm chạp bước tới. Bộ mặt gã thể hiện một quyết tâm trông phát sợ. Gã giả vờ ném hòn đá mấy lần. Culbeau né người, lùi lại. Rồi gã đàn ông to lớn phá lên cười, đánh giá đối thủ và có lẽ đi đến kết luận rằng gã trai không phải mối đe dọa ghê gớm lắm. Gã xông tới, vung con dao đâm vào cái bụng gầy guộc của Garrett. Gã trai nhảy phắt về phía sau và lưỡi dao đâm hụt. Nhưng Garrett đã ước lượng sai khoảng cách, đập mạnh người vào tường. Gã khuỵu xuống, choáng váng. Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Culbeau lau bàn tay vào quần, thản nhiên nắm lại con dao quan sát Garrett vẻ không chút xúc động, y như gã chỉ chuẩn bị làm thịt một con hươu mà thôi. Gã bước tới.
Đúng lúc đó, một sự di động loáng lên từ sàn nhà. Mary Beth vẫn đang nằm trên sàn, chộp được cây chùy và vung nó đập vào mắt cá chân Culbeau. Gã hét lên và quay về phía cô, giơ dao. Nhưng Garrett đã xông đến, đẩy mạnh vào vai gã. Culbeau mất thăng bằng, trượt gối qua các bậc cầu thang xuống tầng hầm. Nửa chừng thì gã níu mình lại được. “Đồ oắt con khốn kiếp”, gã gầm lên.
Rhyme trông thấy Culbeau mò mẫm trên các bậc cầu thang tối om tìm khẩu súng trường. “Garrett! Hắn đang tìm khẩu súng!”
Gã trai rất chậm rãi bước tới cửa tầng hầm và cầm hòn đá lên. Nhưng gã không ném nó. Gã định làm gì? Rhyme băn khoăn tự hỏi. Anh quan sát Garrett kéo nắm giẻ ra khỏi một cái lỗ phía dưới đáy. Gã nhìn xuống Culbeau, nói: “Nó không phải một hòn đá đâu”. Và, khi mấy con vật mặc áo vàng đầu tiên bay ra khỏi cái lỗ đó, gã ném cái tổ vào mặt Culbeau, đóng đánh sầm cánh cửa tầng hầm lại. Gã bập ổ khóa, bước lùi ra phía sau.
Hai viên đạn xuyên qua cánh cửa gỗ, rồi mất hút qua trần nhà.
Nhưng không có thêm tiếng súng nổ nào nữa. Rhyme nghĩ Culbeau chắc phải bắn nhiều hơn hai phát.
Rồi anh cũng nghĩ những tiếng thét từ tầng hầm sẽ vang vọng lâu hơn bình thường.
Harris Tomel biết đã đến lúc nhanh chóng rời khỏi đây, quay lại Tanner’s Corner.
O’Sarian đã ngoẻo - không sao, việc ấy đâu gây mất mát gì - và Culbeau đã vào nhà xử lý lũ còn lại. Thế thì nhiệm vụ của Tomel là tìm ra Lucy. Nhưng gã chẳng ngần ngại. Gã vẫn còn nhoi nhói nỗi xấu hổ vì đã không thể nhúc nhích được lúc đứng đối diện Trey Williams và chính cái thằng oắt con tâm thần O’Sarian lại cứu tính mạng gã.
Chà, gã sẽ chẳng đờ người ra như thế nữa.
Rồi, bên cạnh một cái cây cách đấy một đoạn, Tomel thoáng trông thấy một vệt màu nâu vàng. Gã giương mắt nhìn. Phải, đằng đó - qua vòm cây - gã có thể nhận ra rõ ràng chiếc áo đồng phục màu nâu vàng của Lucy Kerr. Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Cầm khẩu súng săn trị giá hai ngàn đô la, gã di chuyển đến gần hơn một chút. Bắn ở vị trí này không được thuận lợi lắm - mục tiêu không lộ nhiều. Chỉ một phần ngực, hiện ra qua vòm cây. Với súng trường thì khó có thể bắn trúng. Với súng săn thì cũng có thể. Gã điều chỉnh van ở đầu họng súng để làm tăng thị trường văng tóe của các viên đạn nhỏ và gã có nhiều cơ hội bắn trúng hơn.
Tomel đứng nhanh dậy, hạ đầu ruồi xuống đúng vạt trước áo Lucy và siết cò.
Khẩu súng giật mạnh. Rồi gã nheo mắt nhìn xem mình có bắn trúng không.
Ôi, lạy Chúa... Không phải một lần nữa chứ! Chiếc áo đang lơ lửng bay trên không - do sức đẩy của các viên đạn. Cô ta đã treo nó lên cây để nhử gã xuất đầu lộ diện.
“Đứng nguyên đấy, Harris.” Giọng Lucy cất lên đằng sau gã. “Tất cả đã kết thúc rồi.”
“Tốt đấy”, Tomel nói. “Cô bịp tôi.” Gã quay lại đối diện Lucy, cầm khẩu Browning ngang bụng, được cỏ che kín, khẩu súng chĩa về phía cô. Cô mặc chiếc áo phông trắng.
“Hãy thả súng xuống”, Lucy ra lệnh.
“Tôi đã thả rồi”, Tomel nói.
Gã không động đậy.
“Cho tôi trông thấy hai tay anh. Giơ tay lên. Nào, Harris. Lời cảnh cáo cuối cùng.”
“Nghe này, Lucy...”
Đám cỏ cao bốn feet. Gã sẽ thụp xuống, bắn vào đầu gối cô rồi kết liễu đời cô ta bằng một băng đạn xả ở tầm gần. Tuy nhiên, như thế cũng đầy rủi ro. Cô ta vẫn có thể kịp nã một hay hai phát.
Rồi Tomel để ý thấy điều này: ánh mắt của Lucy. Ánh mắt thiếu chắc chắn. Và gã xem chừng cô giơ khẩu súng với vẻ quá đe dọa.
Cô ta đang bịp mình.
“Cô hết-đạn rồi”, Tomel mỉm cười nói.
Một chút im lặng và nét mặt Lucy khẳng định điều ấy. Tomel nâng khẩu súng săn lên bằng cả hai tay và nhằm vào cô. Cô chằm chằm nhìn lại với vẻ tuyệt vọng.
“Nhưng tôi thì không.” Một giọng nói cất lên gần đó. Nữ cảnh sát tóc đỏ! Tomel nhìn sang cô, và bản năng gã mách bảo gã rằng: Cô ta là đàn bà. Cô ta sẽ do dự. Mình có thể hạ cô ta trước. Gã vung khẩu súng về phía cô.
Khẩu súng trong tay Sachs giật lên và cảm giác cuối cùng của Tomel là bên đầu có cái gì đập vào ngưa ngứa.
Lucy Kerr trông thấy Mary Beth loạng choạng bước ra hàng hiên, hét to thông báo rằng Culbeau đã chết, còn Rhyme và Garrett thì không sao.
Amelia Sachs gật đầu, rồi bước về phía xác Sean O’Sarian. Lucy chuyển sự chú ý của mình sang xác Harris Tomel. Cô cúi xuống, bàn tay run rẩy nắm lấy khẩu súng săn Browning. Cô tự nhủ rằng mặc dù đáng lẽ cô phải tràn ngập nỗi khiếp sợ khi tò mò xem xét khẩu súng đẹp đẽ này từ bàn tay một kẻ đã chết thực tế thì cô lại hoàn toàn tập trung suy nghĩ về chính khẩu súng. Cô băn khoăn không biết liệu nó có còn đạn không.
Lucy trả lời câu hỏi ấy bằng cách siết cò - mất một viên đạn tuy nhiên biết chắc chắn một viên đạn khác đã được đưa lên nòng.
Cách đấy chừng năm mươi feet, Sachs đang cúi xuống lục soát xác O’Sarian, khẩu súng vẫn chĩa vào cái xác. Lucy băn khoăn tự hỏi tại sao người nữ đồng nghiệp lại phải cẩn thận thế, rồi, với sự chế giễu, đi đến kết luận đó ắt là một bước đúng chuẩn.
Cô tìm thấy chiếc áo đồng phục và lại mặc vào. Nó đã bị các viên đạn nhỏ của súng săn xé rách, nhưng cô cảm thấy ngượng ngập vì cơ thể mình khi chỉ mặc mỗi chiếc áo phông bó sát. Lucy đứng bên cạnh cái cây, thở nặng nhọc trong bầu không khí nóng nực, chờ Sachs quay lại.
Nỗi tức giận thuần túy - trước những sự phản bội xảy ra trong cuộc đời cô. Từ cơ thể cô, từ chồng cô, từ Chúa.
Và bây giờ là từ Amelia Sachs.
Lucy liếc nhìn ra phía sau, nơi Harris Tomel nằm. Ánh mắt có thể chiếu thẳng từ cho lúc nãy gã đứng đến lưng Amelia. Tình huống nghe cũng hợp lý: Tomel đã nấp dưới cỏ. Gã đứng lên, bắn vào lưng Sachs bằng khẩu súng săn. Rồi Lucy chộp lấy súng của Sachs và giết chết Tomel. Sẽ không ai biết được sự sai khác - trừ bản thân Lucy và có lẽ, linh hồn Jesse Corn.
Lucy cẩm khẩu súng săn lên, cảm thấy nó nhẹ tênh tựa một bông phi yến trong bàn tay cô. Áp cái nòng súng trơn nhẵn, thơm thơm vào má, nhớ lại lúc cô áp mặt vào thanh sắt mạ crôm chắn xung quanh chiếc giường bệnh viện sau ca phẫu thuật cắt bỏ vú. Cô hạ cái nòng súng trơn nhẵn xuống, chĩa vào chiếc áo phông màu đen của người nữ đồng nghiệp, nhằm đúng xương sống lưng cô ta. Cô ta sẽ chết không đau đớn gì. Và nhanh chóng.
Nhanh chóng y như Jesse Corn.
Việc này chỉ đơn giản là đối một cuộc đời tội lỗi lấy một cuộc đời trong trắng vô tội.
Lạy Chúa lòng lành, hãy để con bắn một phát thật trúng đứa phản bội.
Lucy nhìn xung quanh. Chẳng có ai chứng kiến cả.
Ngón tay Lucy móc vào cò súng, siết lại.
Nheo mắt ngắm, giữ cho cái chấm đồng của đầu ruồi không rung rinh nhờ đôi cánh tay đã khỏe mạnh lên sau nhiều năm làm vườn, nhiều năm chăm sóc một ngôi nhà - và một cuộc đời - mà không dựa dẫm vào ai. Nhằm chính xác vào giữa lưng Amelia Sachs.
Làn gió nóng nực thổi vi vu qua đám cỏ mọc xung quanh cô. Cô nghĩ về Buddy, về cuộc phẫu thuật, về ngôi nhà và những mảnh vườn của mình.
Lucy hạ khẩu súng xuống.
Cô siết cò cho tới lúc hết đạn, rồi báng súng áp bên sườn, họng súng chĩa lên trời, cô lững thững quay lại cho chiếc ô tô đỗ phía trước ngôi nhà gỗ. Cô đặt khẩu súng xuống đất và tìm thấy điện thoại di động, liền gọi cho cảnh sát bang.
Chiếc trực thăng cấp cứu tới đầu tiên, các nhân viên y tế vội vã băng bó cho Thom và đưa anh ta tới trung tâm y khoa. Một người ở lại chăm sóc Lincoln Rhyme, huyết áp của anh đang gần mức nguy kịch.
Khi mấy phút sau cảnh sát tới trên chiếc trực thăng thứ hai, họ bắt giữ Amelia Sachs trước, trói quặt chân tay cô ra đằng sau, để nằm trên nền đất nóng bỏng bên ngoài ngôi nhà, rồi họ vào bên bắt giữ Garrett Hanlon và đọc cho gã nghe các quyền của gã.
16.06.2015
PHẦN 4: TỔ ONG BẮP CÀY
CHƯƠNG 39 Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Dịch giả: Đinh Minh Hương
Nguồn: NXB Văn học
Nội dung thu gọn
Thom sẽ sống.
Bác sĩ Phòng Cấp cứu của Trung tâm Y khoa Đại học Tổng hợp Bắc Carolina ở Avery đã nói vắn tắt: “Viên đạn ấy à? Nó vào rồi lại đi ra. Không chạm đến các bộ phận quan trọng. Tuy nhiên anh ta sẽ phải nghỉ làm một hoặc hai tháng.”
Ben Kerr đã tình nguyện nghỉ học và lưu lại Tanner’s Corner vài ngày để hỗ trợ Rhyme. Anh chàng to béo cáu kỉnh: “Ông đâu thực sự xứng đáng được tôi giúp đỡ, Lincoln. Ý tôi là, khỉ gió thật, ông thậm chí chẳng buồn tự mình đứng lên bao giờ”.
Vẫn chưa hoàn toàn thoải mái khi đùa cợt một người què quặt, Ben liếc nhanh sang Rhyme xem liệu kiểu trêu chọc này có quá trớn không. Chính vẻ nhăn nhó khó chịu của nhà hình sự học khẳng định rằng nó vẫn nằm trong giới hạn cho phép. Nhưng Rhyme cũng nói thêm là, tuy anh đánh giá cao lời đề nghị giúp đỡ đó. Săn sóc và cho một người liệt tứ chi ăn là công việc làm cả ngày, đòi hỏi sự khéo léo, tinh tế. Lại hầu như không được cảm ơn - nếu bệnh nhân là Lincoln Rhyme. Và vì thế mà Tiến sĩ Cheryl Weaver đang thu xếp để một điều dưỡng viên chuyên nghiệp ở trung tâm y khoa đến giúp đỡ Rhyme.
“Nhưng cứ ở loanh quanh đây Ben”, anh nói. “Tôi vẫn có thể cần cậu. Hầu hết các phụ tá không ai làm được quá vài ngày.”
Vụ việc rất bất lợi đối với Amelia Sachs. Các bước điều tra đã chứng tỏ rằng viên đạn giết chết Jesse Corn được bắn ra từ súng của cô và tuy Ned Spoto chết rồi. Lucy Kerr đã có lời khai trình bày lại những gì Ned nói với cô về sự kiện ấy. McGuire đã tuyên bố là ông ta sẽ đòi kết tội tử hình” Cả thị trấn từng yêu mến anh chàng Jesse Corn tốt bụng và anh đã thiệt mạng trong lúc cố gắng bắt giữ Thằng Bọ, dấy lên dư luận mạnh mẽ đòi hỏi án tử hình.
Jim Bell phối hợp với cảnh sát bang đã xem xét nguyên nhân tại sao Culbeau cùng đồng bọn lại tấn công Rhyme và các cảnh sát. Một điều tra viên từ Raleigh tìm thấy hàng chục ngàn đô la tiền mặt giấu tại nhà chúng. “Rượu lậu thì không thể nào mang lại nhiều tiền như vậy được”, viên thám tử này nói. Rồi người ta nhớ tới ý kiến của Mary Beth: “Ngôi nhà gỗ hẳn ở gần một khu vực trồng cần sa - ba gã kia có lẽ đang câu kết với hai gã đã tấn công Mary Beth. Garrett hẳn đã tình cờ phát hiện ra hoạt động của chúng.”
Bây giờ, ngày hôm sau cái ngày xảy ra những sự kiện kinh khủng ở ngôi nhà gỗ vốn là xưởng chưng cất rượu lậu, Rhyme ngồi trên chiếc Storm Arrow - động cơ vẫn chạy được mặc dù bị đạn xuyên thủng một lỗ - trong la-bô tạm thời, đợi người phụ tá mới. Anh đang rầu rĩ nghĩ về số phận của Sachs thì một bóng người xuất hiện ở ngưỡng cửa.
Anh ngẩng nhìn và trông thấy Mary Beth McConnell. Cô bước vào phòng. “Ông Rhyme.”
Anh để ý thấy Mary Beth mới xinh đẹp làm sao, ánh mắt mới tự tin làm sao, và nụ cười chỉ chực nở. Anh hiểu Garrett Hanlon đã bị cô cuốn hút biết bao. “Đầu cô thế nào rồi? Anh hất đầu chỉ chỗ thái dương cô bị băng bó.
“Tôi sẽ có một vết sẹo khá ấn tượng đấy. Tôi nghĩ là tôi sẽ không xước hẳn tóc ra đằng sau nữa. Nhưng không có tổn thương gì nghiêm trọng.”
Giống như tất cả những người khác, Rhyme cảm thấy nhẹ nhõm khi biết rằng thực tế Mary Beth chưa bị Garrett cưỡng hiếp. Gã đã nói đúng sự thật về tờ khăn giấy thấm máu: Lúc ở dưới tầng hầm của ngôi nhà gỗ, Garrett khiến cô giật mình và vội vã đứng lên, đập đầu vào một cái xà thấp. Gã hiển nhiên là bị kích thích, quả có vậy, nhưng đây chỉ vì các hoóc môn của tuổi mười sáu, và Garrett chưa hề động chạm đến cô ngoài việc thận trọng bế cô lên gác, lau vết thương và băng bó lại. Gã hết lời xin lỗi vì cô bị đau.
Cô gái lúc này bảo Rhyme: “Tôi chỉ muốn cảm ơn ông. Tôi không biết tôi sẽ làm gì nếu không có ông. Tôi xin lỗi về chuyện bạn ông, cô cảnh sát ấy. Nếu không nhờ cô ây thì bây giờ tôi chết rồi, tôi chắc chắn như thế. Hai gã đàn ông đó đang định... chà, ông có thể hình dung ra. Hãy cảm ơn cô ấy hộ tôi”.
“Tôi sẽ nói.” Rồi Rhyme hỏi: “Cô làm ơn trả lời một chuyện được không?”.
“Chuyện gì?”
“Tôi biết cô đã cung cấp lời khai làm chứng với Jim Bell, nhưng tôi chỉ biết về những gì xảy ra tại Bến tàu kênh Nước đen thông qua các chứng cứ. Và một số chứng cứ không được rõ ràng. Liệu cô có thể kể lại cho tôi nghe?”
“Tất nhiên... Tôi đang ở dưới bờ sông, phủi đất cát khỏi những di vật tôi phát hiện được. Tôi ngẩng nhìn và trông thấy Garrett. Tôi rất bực bội. Tôi chẳng muốn bị quấy rầy. Bất cứ khi nào trông thấy tôi hắn cũng xán ngay lại và bắt đầu trò chuyện y như chúng tôi là bạn thân không bằng.
Buổi sáng hôm ấy hắn ở trong tâm trạng kích động. Hắn nói những câu đại loại như: “Chị đáng lẽ không nên đến đây một mình, nguy hiểm lắm, nhiều người đã chết tại Bến tàu kênh Nước đen.” Những câu đại loại vậy. Hắn khiến tôi nổi khùng. Tôi bảo hắn để tôi yên. Tôi phải làm việc. Hắn tóm tay tôi và cố gắng kéo tôi rời khỏi đấy. Rồi Billy Stail từ rừng đi ra, cậu ta quát: “Đồ con hoang” hay cái gì đó và bắt đầu đánh Garrett bằng xẻng, nhưng gã giật lấy xẻng từ tay Billy, đập chết cậu ta. Sau đó, gã lại tóm tay tôi bắt buộc tôi trèo vào thuyền và đưa tôi tới ngôi nhà gỗ. “ Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
“Garrett đã rình rập cô bao lâu rồi?”
Mary Beth cười to. “Rình rập? Không, không, ông đã nói chuyện với mẹ tôi, tôi cuộc là thế. Sáu tháng trước, tôi vào trung tâm thị trấn và trông thấy mấy đứa bạn cùng trường hắn đang xử lý hắn. Tôi đuổi mấy đứa đi. Việc đó khiến tôi trở thành bạn gái hắn, tôi nghĩ thế. Hắn bám theo tôi khắp nơi nhưng tất cả chỉ vậy thôi. Kiểu như ngưỡng mộ tôi từ xa. Tôi từng chắc chắn rằng hắn vô hại.” Nụ cười của cô gái tắt dần. “Cho tới hôm vừa rồi.” Mary Beth liếc nhìn đồng hồ đeo tay. “Tôi phải đi. Nhưng tôi muốn hỏi ông - lý do thứ hai để tôi tới đây - là nếu ông không cần sử dụng làm chứng cứ nữa, liệu tôi có thể lấy chỗ xương còn lại không?”
Rhyme, ánh mắt lúc bây giờ đang đăm đăm nhìn ra qua cửa sổ khi những ý nghĩ về Amelia Sachs lén lút quay lại đầu óc anh, chậm chạp quay sang Mary Beth.
“Xương nào?”, anh hỏi.
“Ở Bến tàu kênh Nước đen ấy? Nơi Garrett bắt cóc tôi ấy?”
Rhyme lắc đầu. “Cô muốn nói điều gì vậy?”
Mary Beth nhăn mặt lo lắng. “Chỗ xương - những di vật tôi đã tìm thấy. Tôi đang đào nốt thì Garrett bắt cóc tôi. Chúng rất quan trọng... Ông không có ý bảo là chúng bị thất lạc đấy chứ?”
“Chẳng ai thu được cái xương nào tại hiện trường vụ án cả”, Rhyme nói. “Báo cáo chứng cứ không hề đề cập tới.”
Mary Beth lắc đầu. “Không, không... Chúng không thể mất được!”
“Xương kiểu gì?”
“Tôi đã tìm thấy một số hài cốt của Những Người Thực Dân Biến Mất ở Roanoke. Từ cuối thế kỷ XVI.”
Kiến thức lịch sử của Rhyme hầu như chỉ hạn chế ở thành phố New York. “Vấn đề này không quen thuộc lắm đối với tôi.”
Tuy nhiên, khi Mary Beth trình bày về những người tới định cư trên đảo Roanoke thuở xa xưa và việc họ biến mất, anh gật đầu. “Tôi có nhớ ra gì đó từ hồi học phổ thông. Tại sao cô cho rằng đó là hài cốt của họ?”
“Những cái xương hết sức lâu đời rồi, đã mục, và chúng không ở trong một khu vực chôn cất của những người Algonquin cũng không ở trong một nghĩa địa của những người thực dân. Chúng chỉ được vùi xuống đất mà không có bất cứ sự đánh dấu nào. Đây là cách đặc trưng các chiến binh hay làm đối với xác kẻ thù. Đây...” Mary Beth mở ba lô. “Tôi đã gói được vài cái trước khi Garrett đưa tôi đi.” Cô nhấc vài cái xương đang gói trong giấy bóng bọc thực phẩm ra, chúng đen sì và mục nát. Rhyme nhận ra một cái xương quay, một mảnh xương bả vai, một đoạn xương đùi và một cái xương chậu.
“Còn cả chục cái nữa”, Mary Beth nói. “Đây là một trong những phát hiện lớn nhất lịch sử nước Mỹ. Chúng rất có giá trị. Tôi phải tìm lại chúng.”
Rhyme đăm đăm nhìn cái xương quay - một trong hai xương cẳng tay. Lát sau, anh ngẩng lên.
“Cô có thể đi ngược dãy hành lang đến văn phòng Cảnh sát trưởng được không? Hỏi Lucy Kerr và bảo cô ấy xuống đây một phút.” Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
“Về việc những cái xương à?”, Mary Beth hỏi.
“Có thể.”
Đó là câu mà cha Amella Sachs hay nói: “Khi ta di chuyển, chúng không thể bắt được ta.”
Câu này có nhiều ý nghĩa. Nhưng trên hết nó là lời khẳng định triết lý chung của hai người, cha và con gái. Cả hai đều hâm mộ những chiếc xe hơi tốc độ cao, đều say mê công việc của cảnh sát đường phố, sợ hãi những không gian khép kín và những cuộc đời chẳng đi tới đâu.
Nhưng bây giờ thì người ta đã tóm được cô.
Tóm được vĩnh viễn.
Và những chiếc xe quý giá của cô, cuộc đời làm cảnh sát quý giá của cô, cuộc đời của cô với Rhyme, tương lai của cô với những đứa trẻ... tất cả đã bị hủy hoại.
Trong phòng giam, Sachs bị tẩy chay. Những cảnh sát mang thức ăn và cà phê vào cho cô không nói gì với cô cả, chỉ lạnh lùng nhìn cô trừng trừng. Rhyme đang mời một luật sư từ New York bay xuống nhưng, giống như hầu hết các sĩ quan cảnh sát, Sachs cũng thông thạo luật hình sự chẳng kém gì các luật sư. Cô biết rằng, bất kể có thương lượng ra sao giữa một người nhiều kinh nghiệm từ Manhattan đến và ủy viên công tố quận Paquenoke, cuộc đời mà cô từng sống kết thúc rồi. Trái tim cô tê liệt y như cơ thể của Rhyme vậy.
Trên sàn, một con côn trùng cần mẫn bò từ bức tường này sang bức tường khác. Nhiệm vụ của nó là gì? Ăn, ghép đôi, hay tìm chỗ trú ngụ?
Nếu ngày mai tất cả mọi người trên trái đất biến mất, thế giới vẫn tiếp tục tồn tại bình thường. Nhưng nếu côn trùng biến mất thì đời sống sẽ kết thúc nhanh chóng - nói chung, trong vòng một thế hệ. Cây cối sẽ chết hết, rồi tới các con vật, và trái đất sẽ một lần nữa biến thành khối đá tảng khổng lồ.
Cánh cửa dẫn sang văn phòng chính mở toang. Một cảnh sát mà Sachs không nhận ra là ai đứng đó. “Cô có điện thoại.” Anh ta mở cửa phòng giam, còng tay cô và đưa cô tới trước chiếc bàn nhỏ bằng sắt bên trên đặt máy điện thoại. Mẹ cô gọi, cô đồ là thế. Chắc là Rhyme đã gọi cho bà và thông báo với bà tin tức này. Hoặc người bạn thân nhất của cô ở New York, Amy.
Nhưng khi cô nhấc ống nghe lên, đôi còng dày kêu leng keng, cô nghe thấy giọng Rhyme. “Ở đó thế nào hả Sachs? Có mát mẻ không?”
“Không sao”, cô lẩm bẩm.
“Luật sư sẽ tới đây đêm nay. Ông ta giỏi đấy. Ông ta đã làm về luật hình sự hai mươi năm. Ông ta từng cãi trắng án cho một đối tượng vướng vào một vụ đột nhập ăn trộm do anh buộc tội. Em biết là bất cứ ai làm được như thế đều phải giỏi.”
“Rhyme, thôi nào. Tại sao còn mất công? Em là một người từ nơi khác đến đã cướp một tên sát nhân ra khỏi nhà giam và giết chết một cảnh sát địa phương. Tình huống vô vọng hết mức rồi.”
“Chúng ta sẽ nói về vụ của em sau. Anh phải hỏi em một việc khác. Em đã ở hai ngày với Garrett. Em và hắn có nói chuyện gì không?”
“Tất nhiên là có.”
“Chuyện gì?”
“Em không biết nữa. Côn trùng. Rừng, đầm lầy.” Tại sao anh lại hỏi cô những điều này? “Em không nhớ.”
“Anh cần em nhớ ra. Anh cần em kể cho anh nghe tất cả những chuyện hắn đã nói.”
“Tại sao phải mất công, Rhyme?”, Sachs nhắc lại.
“Thôi nào, Sachs. Hãy chiều ý một kẻ què quặt già nua, được không?”
16.06.2015
PHẦN 4: TỔ ONG BẮP CÀY
CHƯƠNG 40
Dịch giả: Đinh Minh Hương
Nguồn: NXB Văn học
Nội dung thu gọn
Lincoln Rhyme ngồi một mình trong la-bô tạm thời, đăm đăm nhìn các bảng chứng cứ.
TÌM THẤY TẠI HIỆN TRƯỜNG TRỰC TIẾP - BẾN TÀU KÊNH NƯỚC ĐEN
Khăn giấy Kleenex thấm máu
Bụi đá vôi
Nitrate
Phốt phát
Ammonia
Chất tẩy
Camphone
***
TÌM THẤY TẠI HIỆN TRƯỜNC GIÁN TIẾP PHÒNG RIÊNG CỦA GARRETT
Xạ chồn hôi
Lá thông bị cắt rời khỏi cành
Các bức vẽ côn trùng
Ảnh chụp gia đình
Ảnh chụp Mary Beth
Các sách về côn trùng
Dây câu
Tiền
Chìa khóa chưa xác định
Dầu hỏa
Ammonia
Nitrate
Camphene
TÌM THẤY TẠI HIỆN TRƯỜNG GIÁN TIẾP - MỎ ĐÁ
Túi vải bao bì cũ - Không đọc được tên in bên trên
Ngô - Thức ăn chăn nuôi?
Muội than trên túi
Nước đóng chai nhãn hiệu Deer Park
Bích quy phó mát nhãn hiệu Planters
TÌM THẤY TẠI HIỆN TRƯỜNG GIÁN TIẾP - CỐI XAY
Sơn nâu dây trên quần
Cây gọng vó
Đất sét
Rêu nước
Nước trái cây
Sợi giấy
Viên chua làm mồi câu
Đường
Camphene
Chất cồn
Dầu hỏa
Men nở
Rồi Rhyme nghiên cứu tấm bản đồ, ánh mắt lần theo dòng chảy của sông Paquenoke kể từ lúc nó khởi nguồn từ đầm lầy Sầu Thảm rồi đi qua Bến tàu kênh Nước đen và uốn khúc về phía tây.
Có một chỗ gồ lên trên mặt giấy cứng của tấm bản đồ - một nếp gấp khiến người ta cứ muốn vuốt cho nó phẳng.
Đó là cuộc đời mình trong mấy năm qua, Lincoln Rhyme tự nhủ thầm: những chỗ ngứa không thể gãi được.
Có thể, mình sẽ sớm làm được việc ấy. Sau khi Tiến sĩ Weaver cắt ra, khâu lại và nhét đầy vào mình các tế bào non trẻ và kỳ diệu của cá mập... Có thể khi đó mình sẽ đưa được bàn tay trên những tấm bản đồ giống như tấm bản đồ này, vuốt phẳng một nếp gấp.
Một động tác vô ích, không cần thiết, thực sự là vậy. Nhưng là một chiến thắng mới huy hoàng làm sao.
Có tiếng bước chân. Đi giày cao cổ, Rhyme suy luận qua âm thanh. Với gót da cứng. Khoảng cách giữa các bước chân cho thấy đây phải là một người đàn ông cao lớn. Anh hy vọng đây là Jim Bell và đúng là anh ta thật.
Thận trọng thổi vào ống điều khiển, Rhyme quay khỏi bức tường.
“Lincoln”, viên cảnh sát trưởng hỏi. “Có chuyện gì vậy? Nathan báo có chuyện khẩn cấp.”
“Vào đi. Đóng cánh cửa lại. Nhưng trước hết - có ai ngoài hành lang không?”
Bell thoáng mỉm cười trước vẻ bí mật này và nhìn ra bên ngoài. “Không có ai.”
Rhyme tự nhủ rằng nếu là ông anh họ của nhân vật này, Roland, thì anh ta sẽ còn thêm một câu thành ngữ miền Nam nào đấy. “Yên ắng như nhà thờ vào ngày lĩnh lương” là câu anh nghe thấy anh chàng Bell người miền Bắc thi thoảng dùng.
Viên cành sát trưởng đẩy cho cánh cửa đóng lại rồi bước tới bên bàn, đứng dựa vào đấy, khoanh hai tay. Rhyme hơi quay đi và tiếp tục nghiên cứu tấm bản đồ khu vực. “Tấm bản đồ của chúng ta không kéo dài về phía bắc và phía tây đủ để thể hiện được kênh đào đầm lầy Sầu Thảm, đúng không?”
“Cái kênh đào đấy ấy à? Không nó không thể hiện.”
Rhyme hỏi; “Anh biết nhiều về nó chứ?”
“Không nhiều lắm”, Bell đáp một cách tôn trọng. Anh ta mới biết Rhyme một thời gian ngắn nhưng hẳn đã cảm nhận được khi nào thì phải tỏ ra trung thực.
Tôi đang làm một nghiên cứu nhỏ”, Rhyme nói, hất đầu chỉ chiếc điện thoại. “Kênh đào đầm lầy Sầu Thảm là một bộ phận của chuyến hàng hải nội địa. Anh biết là anh có thể đi thuyền suốt từ Norfolk, Virginia, xuôi xuống Miami mà chẳng cần ra ngoài biển?”
“Tất nhiên. Mọi người ở Carolina đều biết tuyến hàng hải nội địa ấy. Tôi chưa bao giờ đi theo tuyến này. Tôi không thích ngồi tàu bè lắm. Xem phim Titanic tôi còn bị say sóng.”
“Đã mất mười hai năm để tạo nên hệ thống kênh đào này. Nó kéo dài hai mươi hai dặm. Đào hoàn toàn bằng tay. Thật đáng kinh ngạc, anh có nghĩ thế không?... Thư giãn nào, Jim. Chuyện này là có ý của nó. Tôi xin cam đoan với anh. Hãy nhìn cái đường bền trên kia, cái đường giữa Tanner’s Corner và sông Paquenoke. Từ ô G-11 sang ô G-10.”
“Anh muốn nói con kênh đào của chúng tôi ấy à? Kênh Nước đen ấy à?”
“Đúng thế. Bây giờ, một chiếc thuyền có thể đi ngược theo đó vào sông Paquo rồi vào đầm lầy Sầu Thảm và…”
Tiếng bước chân đến gần nghe không rõ ràng bằng nửa tiếng bước chân của Bell lúc trước, vì cánh cửa đang đóng, và có chút cảnh báo trước khi cánh cửa được đẩy ra. Rhyme ngừng nói.
Mason Germain đứng ở ngưỡng cửa. Anh ta liếc nhìn Rhyme rồi liếc nhìn sếp mình, nói: “Tôi băn khoăn không biết anh đi đâu, Jim. Chúng ta phải gọi điện cho Elizabeth City. Đại úy Dexter có vài câu hỏi về việc xảy ra ở xưởng chưng cất rượu lậu cũ.”
“Tôi chỉ đang nói chuyện với Rhyme. Chúng tôi đang nói tới...”
Nhưng Rhyme vội vã ngắt lời Bell: “Này, Mason, tôi tự hỏi liệu anh có thể dành cho chúng tôi ít phút riêng tư ở đây được không?”
Mason liếc nhìn từ người này sang người kia. Anh ta chậm chạp gật đầu. “Họ đang muốn trao đổi với anh sớm đấy, Jim ạ.” Anh ta đi khỏi trước khi Bell kịp đáp lại gì. Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
“Anh ta đi chưa?”, Rhyme hỏi.
Một lần nữa, Bell liếc nhìn xuôi theo dãy hành lang rồi gật đầu. “Tất cả chuyện này là gì, Lincoln?”
“Anh có thể kiểm tra cửa sổ được không? Để đảm bảo rằng Mason đã đi khỏi? Ồ, và tôi muốn đóng cánh cửa lại.”
Bell đóng cánh cửa. Rồi anh ta bước tới chỗ cửa sổ và nhìn ra. “Ờ. Anh ta đã ra phố. Lý do của tất cả chuyện này...?” Anh ta giơ hai bàn tay lên để hoàn tất nốt ý nghĩ.
“Anh biết về Mason đến mức độ nào?”
“Cũng như hầu hết các nhân viên của tôi thôi. Vì sao anh lại hỏi câu ấy?”
“Vì hắn đã sát hại gia đình Garrett Hanlon.”
“Cái gì?” Bell đã nở nụ cười nhưng nụ cười nhanh chóng biến mất. “Mason ấy à?”
“Mason”, Rhyme nói.
“Nhưng tại sao lại có thể thế được?”
“Vì Henry Davett trả tiền cho hắn.”
“Hẵng hượm”, Bell nói. “Tôi đang chậm hơn anh mất mấy nhịp.”
“Tôi chưa thể chứng minh được. Nhưng tôi chắc chắn.”
“Henry ấy à? Ông ta có dính dáng như thế nào?”
Rhyme nói: “Tất cả liên quan tới kênh Nước đen.” Anh sa vào cái giọng giảng bài của mình, mắt không rời tấm bản đồ. “Này nhé, mục đích của việc đào các con kênh vào hồi thế kỷ XVIII là để tạo ra các tuyến giao thông đáng tin cậy vì đường bộ xấu quá. Nhưng khi đường bộ và đường sắt tốt lên, những người vận chuyển không sử dụng đường thủy nữa.” Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
“Anh tìm thấy tất cả các thông tin này từ đâu vậy?”
“Hiệp hội Lịch sử ở Raleigh. Tôi đã trò chuyện với một phụ nữ duyên dáng, bà Julie DeVere. Theo bà ấy thì kênh Nước đen đã đóng cửa ngay sau cuộc Nội chiến. Nó đã không được sử dụng trong một trăm ba mươi năm. Cho tới thời gian Henry Davett bắt đầu lại sử dụng nó để chạy xà lan.”
Bell gật đầu. “Đó là năm năm trước.”
Rhyme tiếp tục. “Cho tôi hỏi này - anh có bao giờ thắc mắc tại sao Davett lại sử dụng nó?”
Viên cảnh sát trưởng lắc đầu. “Tôi nhớ là một số người chúng tôi từng hơi lo lắng rằng lũ trẻ sẽ cố gắng bơi ra chỗ xà lan và có thể bị thương hay bị chết đuối, nhưng không đứa nào làm vậy và chúng tôi thôi suy nghĩ về việc này. Tuy nhiên bây giờ anh hỏi thì tôi cũng không biết tại sao ông ta lại sử dụng con kênh. Ông ta vẫn có xe tải đi đi lại lại suốt. Chạy xe tải tới Norfolk thì chẳng thành vấn đề gì.”
Rhyme hất đầu chỉ bảng chứng cứ. “Câu trả lời ở ngay kia. Cái dấu vết mà tôi chưa tìm thấy nguồn gốc: camphene.”
“Cái chất để đốt đèn lồng ấy à?”
Rhyme lắc đầu, nhăn mặt. “Không. Tôi đã mắc sai lầm ở chỗ đó. Đúng, camphene từng được sử dụng để đốt đèn lồng. Nhưng nó cũng còn được sử dụng vào mục đích khác nữa. Nó có thể được sử dụng để điều chế toxaphene.”
“Là cái gì vậy?”
“Một trong những loại thuốc trừ sâu nguy hiểm nhất. Nó được sử dụng chủ yếu ở miền Nam - cho tới thập niên tám mươi khi Cơ quan Bảo vệ Môi trường cấm sử dụng nó vào hầu hết các mục đích.” Rhyme tức tối lắc đầu. “Tôi đã cho rằng vì toxaphene đã bị cấm, việc cân nhắc nguồn gốc chất camphene kia theo hướng thuốc trừ sâu là vô ích, và nó chắc chắn phải từ những chiếc đèn lồng cổ. Trừ việc chúng ta chưa hề tìm thấy bất cứ chiếc đèn lồng cổ nào. Đầu óc tôi đã sa vào một lối mòn và chẳng thoát ra được. Không đèn lồng cổ à? Thế thì tôi đáng lẽ đã phải rà theo danh sách và bắt đầu xem xét tới thuốc trừ sâu. Và khi tôi xem xét tới - sáng hôm nay - tôi đã phát hiện được nguồn gốc chất camphene kia.” Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Bell gật đầu, đầy hào hứng. “Là từ đâu?”
“Khắp mọi nơi”, Rhyme nói. “Tôi đã đề nghị Lucy lấy mẫu đất và nước xung quanh Tanner’s Corner. Toxaphene có ở khắp mọi nơi - trong nước, trong đất. Tôi đáng lẽ nên chú ý tới chi tiết Sachs nói với tôi hôm trước khi cô ấy đang tham gia tìm kiếm Garrett. Cô ấy trông thấy những khu vực cằn cỗi rộng mênh mông. Cô ấy cho là vì mưa acid, nhưng không phải vậy. Đó là vì toxaphene. Nồng độ toxaphene cao nhất có ở vài dặm xung quanh nhà máy cửa Davett - Bến tàu kênh Nước đen và con kênh. Ông ta đã sản xuất nhựa đường và giấy dầu để che giấu việc sản xuất toxaphene.”
“Nhưng nó bị cấm cơ mà, tôi tưởng anh đã nói như thế.”
“Tôi đã gọi điện cho một người bạn là nhân viên mật vụ FBI và anh ta đã gọi điện cho Cơ quan Bảo vệ Môi trường. Nó không bị cấm hoàn toàn - các chủ trang trại có thể sử dụng nó trong trường hợp cấp bách. Nhưng đây đâu phải lý do để Davett sản xuất hàng triệu tấn. Người nhân viên ở Cơ quan Bảo vệ Môi trường giải thích về cái gọi là “vòng quay thuốc độc.”
“Nghe ghê gớm quá.”
“Đúng thế. Toxaphene quả có bị cấm nhưng lệnh cấm ở Mỹ chỉ là cấm sử dụng. Nó có thể được sản xuất tại đây rồi bán sang các nước khác.”
“Và nó có thể được sử dụng ở các nước khác.”
“Nó được phép sử dụng ở hầu hết các nước Thế giới thứ ba và Mỹ Latin. Cái vòng quay là như thế này: các nước đó phun thuốc trừ sâu lên lương thực thực phẩm và đưa nó trở lại Mỹ. Cơ quan Quản lý Dược phẩm và Lương thực thực phẩm chỉ thanh tra một tỷ lệ nhỏ rau và trái cây nhập khẩu nên vô khối người ở Mỹ vẫn bị đầu độc, dù toxaphene đã bị cấm.”
Bell cất tiếng cười hoài nghi: “Và Davett không thể vận chuyên nó theo đường bộ vì sẽ không quận nào hay thị trấn nào cho phép việc vận chuyển toxaphene ngang qua. Và nhật ký hành trình trên các xe tải của ông ta sẽ cung cấp thông tin về loại hàng hóa mà xe chuyên chở. Chưa kể đến vấn đề dư luận nếu người ta biết ông ta đang làm gì.”
“Chính xác.” Rhyme gật đầu. “Vì thế ông ta mở lại con kênh để vận chuyển toxaphene qua tuyến hàng hải nội địa tới Norfolk, ở đó nó được đưa lên các tàu nước ngoài. Chỉ có điều nảy sinh một vấn đề - khi con kênh đóng cửa hồi thế kỷ VXIII, đất đai xung quanh đây đã được bán cho các cá nhân. Những người có nhà ngay sát kênh có quyền quản lý việc sử dụng kênh.”
Bell nói: “Thế là Davett đã trả tiền để thuê những đoạn kênh của họ.” Anh ta gật đầu, sực hiểu ra. “Và ông ta hẳn đã trả rất nhiều tiền - hãy xem các ngôi nhà ở Bến tàu kênh Nước đen mới to tát làm sao. Và hãy ngẫm nghĩ về những chiếc xe tải, xe Mercedes, xe Lexus đẹp đẽ mà người ta lái đi xung quanh đây. Nhưng chuyện này thì liên quan gì tới Mason và gia đình Garrett?”
“Đất đai của cha Garrett ở bên bờ kênh. Tuy nhiên, ông ấy không bán quyền sử dụng. Vì thế Davett hoặc ai đó trong công ty ông ta đã thuê Mason thuyết phục cha Garrett bán và khi ông ấy vẫn không bán, Mason lựa lấy mấy đứa rác rưởi người địa phương giúp đỡ hắn sát hại gia đình đó - Culbeau, Tomel và O’Sarian. Rồi tôi phỏng đoán rằng Davett đã hối lộ để người thi hành di chúc bán mảnh đất cho ông ta.”
“Nhưng gia đình Garrett chết trong một tai nạn. Một tai nạn ô tô. Chính tôi đã trông thấy bản báo cáo.”
“Phải chăng Mason là sĩ quan soạn bản báo cáo ấy?”
“Tôi không nhớ, nhưng có thể thế, Bell thừa nhận. Anh ta nhìn Rhyme với nụ cười ngưỡng mộ. “Làm sao mà anh phát hiện ra được chuyện này?”
“Ồ, dễ dàng thôi - vì không bao giờ có sương giá vào tháng Bảy cả. Dù sao thì cũng không có ở Bắc Carolina.”
“Sương giá ấy à?”
“Tôi đã nói chuyện với Amelia. Garrett kể cho cô ấy nghe là vào buổi tối gia đình hắn thiệt mạng, chiếc ô tô bị bám sương giá, còn cha mẹ và em gái hắn thì run cầm cập. Nhưng vụ tai nạn xảy ra vào tháng Bảy. Tôi nhớ đã trông thấy bài báo trong tập hồ sơ - bức ảnh chụp Garrett và gia đình. Hắn mặc áo phông và bức ảnh chụp họ tại một bữa tiệc kỷ niệm ngày mùng Bốn tháng Bảy. Theo bài báo, bức ảnh được chụp trước khi tai nạn xảy ra một tuần.”
“Thế thằng nhãi nói tới cái gì? Sương giá, run cầm cập à?”
“Mason và Culbeau đã sử dụng một ít toxaphene của Davett để sát hại cái gia đình kia. Tôi đã trao đổi với bác sĩ của tôi tại trung tâm y khoa. Chị ấy nói rằng trong những trương hợp bị đầu độc thần kinh cực điểm, hay xuất hiện tình trạng co cơ. Đó là hiện tượng run cầm cập mà Garrett đã trông thấy. Sương giá thì có thể là hơi hoặc cặn hóa chất còn trong xe.”
“Nếu hắn trông thấy tại sao hắn chẳng kể cho ai nghe?”
“Tôi mô tả thằng nhãi với bác sĩ. Và chị ấy nói rằng có vẻ như buổi tối hôm đó hắn cũng bị đầu độc. Chỉ đủ khiến hắn rơi vào tình trạng nhạy cảm đa hóa chất. Mất trí nhớ, tổn thương não, phản ứng dữ dội trước các loại hóa chất khác trong không khí, trong nước. Anh nhớ những lằn đỏ trên da hắn chứ?”
“Tất nhiên.”
“Garrett nghĩ đó là vì lá sồi độc, nhưng không phải vậy. Bác sĩ bảo tôi rằng da nổi ban là một triệu chứng kinh điển của tình trạng nhạy cảm đa hóa chất. Nó khởi phát khi người ta tiếp xúc với những lượng hết sức nhỏ các hóa chất mà bình thường chẳng gây tác hại gì đến ai. Thậm chí xà phòng hay nước hoa cũng làm da nổi ban.”
“Nghe hợp lý đấy”, Bell nói. Rồi, chau mày, anh ta nói thêm: “Nhưng nếu anh không có bằng chứng cụ thể thì tất cả những gì chúng ta đang có chỉ là sự phỏng đoán”.
“Ồ, tôi nên đề cập tới mới phải.” Rhyme chẳng kiềm chế nổi một nụ cười yếu ớt, sự khiêm tốn chưa bao giờ là một phẩm chất mà anh giỏi thể hiện ra bên ngoài. “Tôi có vài bằng chứng cụ thể. Tôi đã phát hiện được xác cha mẹ và em gái Garrett.”