PHẦN 4: TỔ ONG BẮP CÀY
CHƯƠNG 41
Dịch giả: Đinh Minh Hương
Nguồn: NXB Văn học
Nội dung thu gọn
Tại khách sạn Albemarle Manor, cách khu tạm giam của quận Paquenoke một khối phố, Mason Germain không chờ đợi thang máy mà leo luôn thang bộ, các bậc thang trải thảm màu nâu vàng xơ xác. Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Anh ta tìm thấy phòng 201 và gõ cửa.
“Vào đi.” Giọng nói cất lên.
Mason từ từ đẩy mở cánh cửa, hé lộ một căn phòng quét sơn màu hồng đang tắm trong ánh nắng buổi chiều vàng rực rỡ. Bên trong nóng ngột ngạt. Anh ta không thể tưởng tượng được chủ sở hữu hiện tại của căn phòng lại thích tình trạng như thế này, nên anh ta đồ rằng gã - cái tay đang ngồi bên bàn kia - hoặc là quá lười biếng đến nỗi không buồn bật máy điều hòa nhiệt độ hoặc là quá ngu ngốc đến nỗi không biết bật nó ra sao. Điều ấy khiến Mason càng tăng thêm nỗi ngờ vực.
Gã đàn ông gốc Phi, thân hình rắn chắc và nước da đặc biệt thẫm màu, mặc một bộ com lê đen nhàu nhĩ. Tại sao gã lại không tự gây sự chú ý chứ. Mason khinh khỉnh nghĩ bụng. Gã Malcom X chết tiệt<38>.
“Anh là Germain?”, gã đàn ông hỏi.
“Phải rồi.”
Đôi chân gã đàn ông gác trên chiếc ghế dựa kê trước mật và khi gã rút bàn tay từ dưới tờ nhật báo Người quan sát Charlotte ra, những ngón tay dài của gã đang nắm khẩu súng lục tự động nòng dài.
“Hành động ấy trả lời một trong số các câu hỏi của tôi”, Mason nói. “Rằng liệu anh có súng không.”
“Câu hỏi thứ hai là gì?”, gã đàn ông mặc com lê hỏi.
“Rằng liệu anh có biết sử dụng nó không.”
Gã đàn ông chẳng nói chẳng rằng, cẩn thận đánh dấu đoạn đề cập tới mình trong một bài báo bằng mẩu bút chì ngắn ngủn. Trông gã y như đứa học trò lớp ba đánh vật với bảng chữ cái.
Mason lại im lặng quan sát gã đàn ông, rồi cảm thấy dòng mồ hôi đáng ghét chảy dọc xuống mặt. Không buồn xin phép, Mason bước vào buồng tắm, giật lấy chiếc khăn lau mặt, xong vứt nó xuống nền.
Gã đàn ông cất tiếng cười, cũng đáng ghét y như dòng mồ hôi lúc nãy, và nói: “Tôi đang có ấn tượng rất rõ ràng rằng anh không ưa cái kiểu của tôi lắm”.
“Đúng, tôi nghĩ là tôi không ưa”, Mason trả lời. “Nhưng nếu anh biết việc anh sẽ làm thì tôi ưa hay không ưa cái gì không quan trọng.”
“Điều đó hoàn toàn đúng”, gã da đen lạnh nhạt đáp. “Vậy, hãy nói tôi nghe. Tôi không muốn ở đây lâu hơn mức cần thiết.”
“Cách hành động đây. Ngay bây giờ Rhyme đang nói chuyện với Jim Bell tại trụ sở chính quyền quận. Còn Amelia Sachs, cô ta ở trong khu tạm giam phía trên con phố này.”
“Chúng ta nên đến đâu trước nhỉ?”
Không chần chừ, Mason nói: “Amelia”.
“Vậy chúng ta sẽ làm như thế.” Gã đàn ông nói y như thể đó là ý tưởng của gã. Gã cất khẩu súng đi, đặt tờ nhật báo lên chiếc tủ gương trang điểm, rồi, với sự lịch thiệp mà Mason chắc chắn rằng không có gì khôi hài hơn, nói: “Mời ông ra trước”. Và gã chỉ tay về phía cánh cửa. Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
“Xác gia đình nhà Hanlon à?”, Jim Bell hỏi Rhyme. “Ở đâu?”
“Đằng kia”, Rhyme nói, hất đầu chỉ một đống xương lúc trước ở trong ba lô của Mary Beth. “Chúng là những gì Mary Beth tìm thấy tại Bến tàu kênh Nước đen. Cô ta tưởng chúng là xương những người sống sót của Thuộc Địa Biến Mất. Nhưng tôi phải tiết lộ cho cô ta biết rằng chúng không lâu đời đến mức ấy. Chúng trông có vẻ mục nát, tuy nhiên đó đơn giản vì chúng đã bị thiêu cháy một phần. Tôi từng làm công việc khám nghiệm khảo cổ nhiều lần và tôi nhận ra ngay là chúng mới nằm dưới đất chừng năm năm thôi - đúng khoảng thời gian kể từ khi gia đình nhà Hanlon thiệt mạng. Chúng là xương một người đàn ông gần bốn mươi tuổi, một người phụ nữ cũng trạc tuổi ấy đã từng sinh con và một đứa bé gái chừng mười tuổi. Đây chính xác là sự mô tả về gia đình của Garrett.”
Bell nhìn đống xương. “Tôi không hiểu.”
“Đất của gia đình nhà Garrett ở ngay bên kia đường 112, đoạn chạy qua Bến tàu kênh Nước đen, phía bờ sông. Mason và Culbeau đầu độc gia đình đó rồi thiêu cháy xác họ và đem chôn, còn xe thì đẩy xuống nước. Davett đã hối lộ để nhân viên điều tra làm báo cáo láo và trả tiền cho một người nào đấy ở nhà tang lễ để người này giả vờ là có hỏa táng mấy cái xác. Tôi đảm bảo rằng phía dưới mấy ngôi mộ không có gì. Mary Beth hẳn đã nói chuyện tìm thấy chỗ xương với ai đó và chuyện lọt tới tai Mason. Hắn thuê Billy Stail đến Bến tàu kênh Nước đen thủ tiêu cô gái và đánh cắp các chứng cứ - tức chỗ xương.”
“Cái gì? Billy ư?”
“Chỉ có điều Garrett lại tình cờ ở đó, canh chừng cho Mary Beth. Anh biết đấy, cậu ta đã nhận định đúng: Bến tàu kênh Nước đen là một chốn nguy hiểm. Người ta quả đã chết ở đó - những vụ khác xảy ra trong vòng vài năm qua. Chỉ có điều không phải Garrett giết họ. Mà là Mason và Culbeau. Họ bị sát hại vì đã mắc bệnh do nhiễm toxaphene và bắt đầu nghi ngờ nguyên nhân tại sao. Tất cả mọi người ở thị trấn đều biết Thằng Bọ, bởi vậy Mason hoặc Culbeau đã giết một cô gái - Meg Blanchard - bằng tổ ong bắp cày, nhằm tạo cái vẻ như cậu ta đã làm việc ấy. Mấy người kia thì bị bọn chúng đập đầu rồi ném xuống kênh cho chết đuối. Những ai không thắc mắc gì chuyện bệnh tật - cha Mary Beth và Lucy Kerr chẳng hạn - thì bọn chúng không bận tâm.”
“Nhưng Garrett đã để lại dấu vân tay trên chiếc xẻng... vũ khí giết người.”
“À, chiếc xẻng”, Rhyme trầm ngâm. “Có điều này rất thú vị liên quan đến chiếc xẻng. Tôi đã lại phạm phải sai lầm... Chỉ có hai bộ dấu vân tay in trên đó thôi.”
“Đúng, của Billy và của Garrett.”
“Thế dấu vân tay của Mary Beth đâu?”, Rhyme hỏi.
Cặp mắt Bell nheo lại. Anh ta gật đầu, “Đúng. Không có dấu vân tay nào của cô ấy.”
“Vì nó không phải xẻng của cô ta. Mason đưa nó cho Billy mang đến Bến tàu kênh Nước đen - sau khi lau sạch dấu vân tay của chính mình, tất nhiên. Tôi có hỏi Mary Beth về việc này. Cô ta nói Billy đã từ bụi rậm bước ra, vác theo chiếc xẻng. Mason tính toán rằng nó sẽ là thứ vũ khí giết người hoàn hảo - vì làm công việc khảo cổ, Mary Beth chắc phải có xẻng. Chà, Billy đến Bến tàu kênh Nước đen và trông thấy Garrett ở đó. Hắn định khử cả Thằng Bọ. Nhưng Garrett giật được chiếc xẻng và đập Billy. Cậu ta tưởng mình đã giết chết hắn, nhưng không phải.”
“Không phải Garrett giết chết Billy à?”
“Không, không, không... Cậu ta chỉ đập Billy một hoặc hai phát, làm hắn ngã gục tuy nhiên không làm hắn bị thương nặng. Rồi Garrett đưa Mary Beth tới ngôi nhà gỗ vốn của dân cất rượu lậu. Mason là người đầu tiên có mặt tại hiện trường. Hắn công nhận điều ấy.”
“Đúng. Hắn đã nhận điện thoại thông báo.”
“Cũng khá ngẫu nhiên là hắn lại đang ở gần đấy, anh có nghĩ như vậy không?”
“Ừ. Lúc ấy tôi không nghĩ gì về việc này.”
“Mason tìm thấy Billy. Hắn cầm chiếc xẻng lên - có đi găng tay cao su thu thập chứng cứ - đánh thằng bé đến chết.”
“Làm sao anh biết được?”
“Nhờ vị trí các dấu găng tay cao su. Một tiếng đồng hồ trước, tôi đã yêu cầu Ben xem xét lại cán chiếc xẻng bằng thiết bị hiệu chỉnh ánh sáng. Mason cầm chiếc xẻng giống như cầm cây gậy đánh bóng chày. Đây không phải cái cách mà người ta cầm lên một chứng cứ ở hiện trường vụ án. Và hắn điều chỉnh tay nắm nhiều lần để lực giáng xuống mạnh hơn. Khi Sachs có mặt tại hiện trường, cô ấy nói vết máu cho thấy Billy bị đập vào đầu trước tiên và gục ngã bất tỉnh. Tuy nhiên, hắn vẫn còn sống. Cho tới khi bị Mason dùng chiếc xẻng đập vào cổ.”
Bell nhìn ra bên cửa sổ, nét mặt gượng gạo. “Tại sao Mason lại giết Billy?”
“Có thể hắn tính toán rằng Billy sẽ khiếp sợ và khai ra sự thật. Hoặc có thể thằng bé tỉnh lại khi Mason đến và nói nó chán ngấy rồi, nó không muốn tiếp tục cái thỏa thuận kia nữa.”
“Vậy đây là lý do tại sao anh muốn Mason rời khỏi đây... mấy phút trước. Tôi đã băn khoăn không biết như thế là thế nào. Chúng ta sẽ chứng minh tất cả chuyện này ra sao đây, Lincoln?”
“Tôi có các dấu găng tay cao su trên chiếc xẻng. Tôi có chỗ xương, chúng cho phản ứng dương tính với toxaphene nồng độ cao. Tôi muốn cử một thợ lặn tìm kiếm chiếc xe của gia đình nhà Hanlon dưới sông Paquenoke. Một số chứng cứ sẽ được khôi phục lại - thậm chí sau năm năm. Rồi chúng ta phải lục soát nhà Billy xem ở đó có tiền mặt để lần đến Mason được không. Và chúng ta cũng lục soát nhà Mason nữa. Sẽ là một vụ khó khăn đấy.” Rhyme mỉm cười yếu ớt. “Nhưng tôi giỏi, Jim ạ. Tôi có thể xử lý được.” Rồi nụ cười của anh tắt dần. “Nhưng nếu Mason không chuyển chứng cứ sang chống lại Henry Davett, việc lập một vụ chống lạiông ta sẽ khó khăn đấy. Tất cả những gì tôi có chỉ là thứ kia thôi.” Rhyme hất đầu về phía chiếc bình nhựa đựng chừng tám ounce thứ chất lỏng màu lợt. Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
“Cái gì thế?”
“Toxaphene nguyên chất. Lucy đã lấy được một mẫu từ nhà kho của Davett cách đây nửa tiếng đồng hồ. Cô ấy bảo ở đằng đấy phải có tới chục nghìn ga-lông hóa chất này. Nếu chúng ta xác định được thành phần của loại hóa chất đã giết chết gia đình nhà Garrett phù hợp với thành phần của cái thứ đang đựng trong chiếc bình kia thì chúng ta có thể thuyết phục ủy viên công tố tiến hành việc khởi tố Davett.”
“Nhưng Davett đã giúp đỡ chúng ta tìm thấy Garrett.”
“Tất nhiên. Tìm thấy Garrett - và Mary Beth - càng nhanh chóng càng tốt là mối quan tâm của ông ta. Davett là kẻ muốn cô gái chết hơn ai hết.”
“Mason”, Bell lẩm bẩm, lắc đầu. “Tôi đã biết anh ta nhiều năm... Anh cho là anh ta nghi ngờ à?”
“Anh là người duy nhất tôi nói chuyện này. Tôi thậm chí không nói chuyện này với Lucy - tôi chỉ đề nghị cô ấy làm vài việc đi đi lại lại hộ tôi thôi. Tôi sợ nhỡ ai nghe trộm được và việc đến tai Mason hoặc Davett. Thị trấn này, Jim ạ, nó là một tổ ong bắp cày. Tôi không biết phải tin tưởng ai.”
Bell thở dài. “Làm sao anh có thể chắc chắn đó là Mason?”
“Vì Culbeau và đồng bọn xuất hiện tại ngôi nhà gỗ ngay sau khi chúng ta xác định được vị trí của nó. Và Mason là kẻ duy nhất biết thông tin... ngoài tôi, anh và Ben. Hắn ắt đã gọi điện cho Culbeau cung cấp thông tin. Vậy… chúng ta hãy gọi điện cho cảnh sát bang, yêu cầu một thợ lặn của họ xuống đây kiểm tra Bến tàu kênh Nước đen. Chúng ta phải lấy lệnh khám xét nhà Billy và cả nhà Mason nữa.”
Rhyme thấy Bell gật đầu. Nhưng thay cho việc đi đến chỗ máy điện thoại, anh ta bước tới trước cửa sổ và đẩy cho cánh cửa đóng lại. Rồi anh ta lại bước tới trước cửa ra vào, mở cửa, nhìn ra, rồi đóng lại.
Quay ổ khóa chìm.
“Jim, anh đang làm gì vậy?”
Bell do dự, rồi bước một bước về phía Rhyme.
Nhà hình sự học nhìn lần nữa vào mắt viên cảnh sát trưởng và vội vã cắn ống điều khiển giữa hai hàm răng. Anh thổi vào nó và chiếc xe lăn bắt đầu tiến lên. Nhưng Bell bước ra phía sau anh, dứt đứt phựt dây ắc quy. Chiếc Storm Arrow tiến lên chừng mươi phân, và dừng lại.
“Jim”, Rhyme thì thào. “Không phải cả anh nữa chứ?”
“Anh đoán đúng đấy.”
Rhyme nhắm mắt lại. “Không, không”, anh thì thầm. Đầu anh gục xuống. Nhưng chỉ là vài milimét thôi. Như hầu hết những con người vĩ đại, cử động thể hiện sự thất bại của Lincoln Rhyme cũng không dễ dàng gì mà nhận ra được.
chú Thích:
<38> Mason ám chỉ một người da đen. Trên thực tế, Malcom X (1925 - 1965) là người Mỹ gốc Phi theo đạo Hồi, nhà hoạt động nhân quyền ủng hộ chủ nghĩa ly khai và các quyền của người da đen, bị ám sát tại khu Harlem, thành phố New York.
16.06.2015
PHẦN 5: THỊ TRẤN VẮNG BÓNG TRẺ
CHƯƠNG 42
Dịch giả: Đinh Minh Hương
Nguồn: NXB Văn học
Nội dung thu gọn
Mason Germain và gã da đen trông rầu rĩ chậm chạp đi qua con hẻm bên cạnh khu tạm giam của Tanner’s Corner.
Gã đàn ông toát mồ hôi, bực bội đập một con muỗi. Gã lầm bầm gì đó và chùi bàn tay dài vào mái tóc ngắn ngủn kỳ quái.
Mason cảm thấy muốn chọc tức gã vô cùng nhưng kiềm chế được.
Gã đàn ông có vóc người cao và kiễng chân lên là gã nhìn qua được ô cửa sổ của khu tạm giam. Mason trông thấy gã đi đôi bốt màu đen thấp cổ - đóng bằng da sơn bóng loáng - vì lý do nào đó đôi bốt ấy làm tăng thêm sự khinh miệt của viên cảnh sát đối với cái kẻ từ nơi khác tới này. Anh ta tự hỏi không biết gã đã bắn bao nhiêu người rồi.
“Cô ta ở trong kia”, gã đàn ông nói. “Một mình.”
“Chúng tôi đang giam Garrett ở phía bên kia.”
“Anh hãy vào theo lối đằng trước. Liệu có thể chuồn ra qua lối đằng sau không?”
“Tôi là cảnh sát, nhớ chứ? Tôi có chìa khóa. Tôi có thể mở cửa sau”, Mason nói với giọng cạnh khóe, lại tự hỏi không biết thằng cha này có dở hơi hay không.
Nhưng anh ta cũng được đáp trả bằng giọng cạnh khóe. “Tôi chỉ đang hỏi liệu có cửa ở đằng sau hay không. Đây là điều tôi không biết, tôi chưa bao giờ tới cái thị trấn lầy lội này.
“Ồ. Có, có cửa.”
“Ờ, thế thì đi thôi.”
Mason nhận ra gã đàn ông đã đang cầm súng trong tay mà anh ta không trông thấy khẩu súng được rút ra lúc nào.
Sachs ngồi trên chiếc ghế băng trong phòng giam, như bị thôi miên trước sự chuyển động của một con ruồi.
Đây là ruồi gì? Cô băn khoăn tự hỏi. Garrett sẽ biết ngay lập tức. Cậu ta là cả kho kiến thức. Một ý nghĩ xuất hiện trong đầu óc cô: sẽ có lúc kiến thức của một đứa trẻ về một vấn đề vượt kiến thức của cha mẹ nó. Chắc chắn sẽ rất kỳ diệu, rất đáng phấn khởi, khi biết rằng mình đã tạo ra cái sinh vật giỏi giang hơn mình này. Cũng sẽ cảm thấy xấu hổ nữa.
Một kinh nghiệm mà cho tới bây giờ Sachs chưa từng trải qua.
Cô lại suy nghĩ về cha cô. Người đã làm gia tăng tội phạm. Suốt những năm phục vụ trong lực lượng cảnh sát súng ông không nhả đạn bao giờ. Tự hào về cô con gái bao nhiêu, ông cũng lo lắng bấy nhiêu vì sự say mê của cô đối với súng đạn. “Bắn là biện pháp cuối cùng.” Ông vẫn hay nhắc nhở cô.
Ôi, Jesse... Tôi có thể nói gì với anh đây?
Tất nhiên, không thể nói gì cả. Tôi không thể nói gì cả. Anh đã ra đi rồi.
Sachs cho là cô trông thấy một cái bóng bên ngoài ô cửa sổ khu tạm giam. Nhưng cô phớt lờ nó, và ý nghĩ của cô chuyển sang Rhyme.
Cô nhớ lại lần cách đây mấy tháng, nằm cùng nhau trên chiếc giường nệm khí lỏng sang trọng trong nhà anh ở Manhattan, họ xem bộ phim Romeo và Juliet đặc sắc của Baz Luhrmann, một kịch bản hiện đại lấy bối cảnh Miami. Đối với Rhyme, cái chết luôn luôn lởn vởn xung quanh và xem những cảnh cuối cùng của bộ phim, Amelia Sachs nhận ra rằng, giống như các nhân vật của Shakespeare, cô và Rhyme nếu nhìn nhận theo cách nào đó cũng là đôi tình nhân xấu số. Và một ý nghĩ nữa lúc ấy đã vụt lướt qua đầu óc cô: anh và cô cũng sẽ cùng nhau giã từ cuộc đời.
Sachs chẳng dám chia sẻ ý nghĩ này với Lincoln Rhyme, một người theo chủ nghĩa duy lý, một người không có tế bào đa cảm nào trong bộ não cả. Nhưng khi ý nghĩ này xuất hiện rồi, nó lưu lại vĩnh viễn trong tâm trí cô và vì sao đó mà mang đến cho cô niềm an ủi hết sức to lớn.
Tuy nhiên, bây giờ, cô thậm chí không thể tìm thấy sự khuây khỏa trong cái ý nghĩ kỳ cục này. Không, bây giờ - do cô - họ sẽ sống riêng rẽ và sẽ chết riêng rẽ. Họ sẽ...
Cánh cửa khu phòng giam mở toang và một cảnh sát trẻ bưóc vào. Sachs nhận ra anh ta. Đó là Steve Farr, em rể Jim Bell.
“Này cô kia”, anh ta gọi.
Sachs gật đầu chào. Rồi cô để ý thấy hai điều ở Farr. Thứ nhất là anh ta đeo một chiếc đồng hồ hiệu Rolex giá trị bằng nửa năm lương của một cảnh sát điển hình ở Bắc Carolina.
Thứ hai là anh ta đeo một khẩu súng bên sườn, bao không đóng khóa.
Mặc dù có tấm biển gần phía ngoài cánh cửa mở vào khu phòng giam. CẤT TẤT CẢ VŨ KHÍ TRONG KÉT SẮT TRƯỚC KHI BƯỚC VÀO KHU PHÒNG GIAM.
“Cô thế nào?” Farr hỏi.
Sachs nhìn anh ta, không có phản ứng gì.
“Hôm nay lại im lặng, hử? Chà, thưa cô, tôi mang tin tức tốt lành đến cho cô đây. Cô được tự do ra đi.” Farr búng một bên tai vểnh.
“Tự do? Ra đi?”
Farr lục tìm chìa khóa.
“Phải. Người ta đã đi đến kết luận rằng phát súng của cô chỉ là tai nạn. Cô hoàn toàn có thể rời khỏi đây.”
Sachs chăm chú quan sát bộ mặt Farr. Anh ta không nhìn vào cô.
“Thế giấy rút lại lời buộc tội thì sao?”
“Là cái gì vậy?”, Farr hỏi.
“Không có ai đã bị buộc tội hình sự lại có thể được thả khỏi nơi giam giữ mà không có giấy rút lại lời buộc tội do ủy viên công tố ký.”
Farr mở khóa phòng giam và đứng lùi lại, bàn tay rờ rờ gần báng súng. “Ồ, có thể đó là cách các cô làm ở thành phố lớn. Nhưng ở dưới này chúng tôi thoải mái hơn rất nhiều. Người ta hay nói là dân miền Nam chúng tôi chậm tiến hơn, cô biết đấy. Tuy nhiên, không phải vậy. Không, thưa cô. Chúng tôi làm việc thực sự hiệu quả hơn.”
Sachs vẫn ngồi. “Tôi có thể hỏi tại sao anh mang vũ khí vào khu phòng giam được chứ?”
“Ồ, cái này hả? Farr vỗ vỗ khẩu súng. “Chúng tôi không có các quy tắc nghiêm ngặt lắm về những chuyện như vậy. Thôi nào. Cô được tự do rời khỏi đây. Phần lớn người ta sẽ nhảy cẫng lên trước tin tức ấy.” Anh ta hất đầu về phía cửa sau khu tạm giam.
“Ra qua cửa sau?”, Sachs hỏi.
“Tất nhiên rồi.”
“Anh không thể bắn vào lưng một tù nhân đang bỏ chạy. Như thế là giết người.”
Farr chậm rãi gật đầu.
Bọn họ bố trí kịch bản ra sao nhỉ? Sachs băn khoăn tự hỏi. Có ai khác ở bên ngoài cánh cửa kia sẽ thực sự nổ súng không? Có thể. Farr tự đập đầu mình rồi kêu cứu. Bắn một phát lên trần. Bên ngoài, một người nào đó - có thể là một công dân “đầy lo lắng” - khẳng định rằng anh ta đã nghe thấy tiếng súng nổ và cho rằng Sachs có vũ khí, mới nhả đạn vào cô.
Cô không nhúc nhích.
“Nào, đứng lên và biến đi.” Farr rút khẩu súng ra khỏi bao. Sachs chậm chạp đứng lên.
Anh và em, Rhyme...
“Anh đã khá gần với sự thật đấy, Lincoln”, Jim Bell nói.
Lát sau, gã thêm: “Đúng chín mươi phần trăm. Theo kinh nghiệm của tôi trong công tác thực thi pháp luật thì đó là một tỷ lệ cao. Quá không may cho anh khi tôi là cái mười phần trăm mà anh bỏ qua mất”.
Bell tắt máy điều hòa nhiệt độ. Vì cửa sổ đóng kín, căn phòng ngay lập tức nóng lên. Rhyme cảm thấy trán ướt đẫm mồ hôi. Hơi thở của anh trở nên nặng nhọc.
Gã cảnh sát trưởng tiếp tục: “Đã có hai gia đình ở bên bờ kênh Nước đen không cho phép ông Davett chạy xà lan qua.”
Một ông Davett đáng kính trọng, Rhyme để ý lời Jim nói
“Bởi vậy trưởng bộ phận bảo vệ của ông ấy đã thuê mấy người chúng tôi giải quyết vấn đề. Chúng tôi đã bàn bạc rất lâu với gia đình nhà Conklin và họ đã quyết định quyền. Nhưng lão bố Garrett dứt khoát không chịu. Chúng tôi dự định dàn dựng một vụ đâm xe và đã lấy một bình cái thứ bỏ mẹ kia - Bell hất đầu chỉ chiếc bình trên bàn - để đánh ngất bọn họ. Chúng tôi biết cứ thứ Tư là gia đình nhà đó lại đi ăn tối bên ngoài. Chúng tôi đổ toxaphene vào các khe mái hắt của bộ phận điều hòa nhiệt độ, rồi nấp trong rừng. Bọn họ lên xe và lão bố Garrett bật điều hòa. Hóa chất phun ra phủ kín bọn họ. Nhưng chúng tôi đã sử dụng nhiều quá...”
Bell lại liếc nhìn chiếc bình. “Đủ để giết chết người ta hai lần”, gã tiếp tục, cau mày nhớ lại sự việc. “Gia đình nhà đó bắt đầu co giật... Một cảnh tượng thật đáng sợ. Garrett không ở trong xe nhưng hắn chạy tới và trông thấy những gì đang diễn ra. Hắn cố gắng vào bên trong mà không được. Tuy nhiên, hắn hít phải một lượng lớn toxaphene và có vẻ vì thế đã trở thành đứa ngớ ngẩn. Hắn loạng choạng chạy vào rừng trước khi chúng tôi kịp tóm cổ. Tới lúc hắn lại ló mặt - một hay hai tuần sau - hắn chẳng còn nhớ gì. Hậu quả của tình trạng nhạy cảm đa hóa chất mà anh đã nói tới, tôi cho là vậy. Nên chúng tôi tạm thời mặc kệ hắn đấy - khá chắc chắn rằng hắn cũng sẽ ngoẻo theo gia đình. Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com) Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
“Rồi chúng tôi hành động chính xác như anh phỏng đoán. Đốt mấy cái xác và đem chôn ở Bến tàu kênh Nước đen. Đẩy chiếc ô tô xuống một cái lạch bên cạnh đường Kênh Đào. Trả một trăm nghìn cho tay điều tra viên để đổi lấy các báo cáo giả. Cứ khi nào chúng tôi nghe nói có ai mắc một chứng ung thư khó giải thích và nghi ngờ về nguyên nhân, Culbeau và mấy đứa kia lại lĩnh nhiệm vụ vử lý.”
“Cái đám tang chúng tôi trông thấy trên đường vào thị trấn. Các anh đã giết chết thằng bé, phải không?”
“Todd Wilkes ấy à?”, Bell hỏi. “Không. Nó tự tử.”
“Nhưng là vì nó đã mắc bệnh do nhiễm toxaphene, phải không? Nó mắc bệnh gì, ung thư à? Hay tổn thương gan? Hay tổn thương não?”
“Có thể. Tôi không biết.” Nhưng bộ mặt gã cảnh sát trưởng nói lên rằng gã biết quá rõ.
“Dù sao thì Garrett cũng không liên quan gì, phải không?”
“Không liên quan.”
“Còn hai gã đã tới ngôi nhà gỗ? Hai gã tấn công Mary Beth thì sao?”
Bell lại gật đầu, vẻ khó chịu. “Tom Boston và Lott Cooper. Bọn chúng cũng có can dự - bọn chúng đảm nhận việc thử rất nhiều hóa chất độc hại của Davett trên núi nơi dân cư thưa thớt hơn. Bọn chúng biết chúng tôi đang tìm kiếm Mary Beth nhưng khi Lott phát hiện ra con bé tôi cho là hắn quyết định chưa thông báo với tôi ngay để còn vui vẻ tí đã. Và, phải rồi, chúng tôi thuê Billy Stail thủ tiêu con bé nhưng hắn chưa kịp thì Garrett đã đưa con bé đi mất.”
“Và anh cần tôi giúp đỡ tìm thấy cô ta. Không phải để cứu cô ta - mà để có thể giết cô ta và hủy mọi chứng cứ cô ta đã phát hiện được.”
“Sau khi anh tìm thấy Garrett và chúng tôi đưa hắn từ cối xay về, tôi không khóa cửa khu tạm giam để Culbeau và đồng bọn có thể, thì cứ nói là, thuyết phục Garrett khai với chúng tôi nơi Mary Beth đang ở. Nhưng cô bạn anh đã tới cướp hắn đi trước khi bọn kia kịp hành động.”
Rhyme nói: “Và khi tôi tìm thấy ngôi nhà gỗ, anh liền gọi cho bè lũ Culbeau. Bảo bọn chúng tới trừ khử tất cả chúng tôi tại đó”.
“Tôi xin lỗi... toàn bộ chuyện này đã biến thành cơn ác mộng. Tôi không muốn, nhưng... anh thấy đấy.”
“Một cái tổ ong bắp cày...”
“Ồ, phải, chính trong lòng thị trấn này là mấy cái tổ ong bắp cày.”
Rhyme lắc đầu. “Hãy nói tôi nghe, liệu những cái xe đẹp đẽ, những ngôi nhà to tát và tất cả số tiền kia có đáng để hủy hoại toàn bộ thị trấn? Nhìn xung quanh anh xem, Bell. Hôm trước diễn ra đám tang một đứa trẻ mà ở nghĩa trang không có lấy đứa trẻ nào. Amelia đã bảo trong thị trấn hầu như chẳng còn đứa trẻ nào nữa. Anh biết tại sao chứ? Người ta vô sinh hết rồi.”
“Đã thương lượng với quỷ sứ thì phải chấp nhận rủi ro”, Bell nói ngắn gọn. “Nhưng, như chỗ tôi biết, cuộc đời chỉ là một sự thỏa hiệp.” Gã nhìn Rhyme hồi lâu, đi đến bên bàn. Gã xỏ đôi găng tay cao su, nhấc bình toxaphene lên. Gã bước về phía Rhyme và bắt đầu từ từ xoáy nắp đậy.
Steve Farr thô bạo đẩy Amelia Sachs tới cửa sau khu tạm giam. Khẩu súng lục gí mạnh vào chính giữa lưng cô.
Gã đang mắc một sai lầm kinh điển là gí họng súng sát người nạn nhân. Nó khiến cô có được lợi thế - khi cô bước ra ngoài rồi cô biết chính xác vị trí của khẩu súng và có thể gạt khẩu súng bằng khuỷu tay. May ra thì Farr sẽ đánh rơi món vũ khí và cô sẽ guồng chân chạy hết tốc lực. Nếu cô chạy được đến phố Chính, sẽ có các nhân chứng và gã có thể do dự không dám bắn.
Gã mở cánh cửa sau.
Một luồng ánh nắng nóng nực tràn vào khu tạm giam đầy bụi bặm. Sachs chớp mắt. Một con ruồi bay vo ve xung quanh đầu cô.
Chỉ cần Farr cứ giữ tư thế này, gí khẩu súng sát vào người cô, cô sẽ có một cơ hội…
“Bây giờ thì thế nào?”, Sachs hỏi.
“Tự do ra đi.” Farr nhún vai, nói giọng vui vẻ. Sachs căng thẳng, chuẩn bị gạt khuỷu tay vào gã, lên kế hoạch cho mỗi nước đi. Nhưng rồi gã nhanh chóng bước lùi lại, đẩy cô ra khoảng đất nhếch nhác phía sau khu tạm giam. Farr vẫn đứng bên trong, ở khoảng cách cô không thể động đến.
Gần đó, phía sau một bụi cây cao, Sachs nghe thấy một âm thanh khác. Tiếng lên đạn của một khẩu súng lục, cô tự nhủ thầm.
“Đi đi”, Farr nói. “Biến khỏi đây đi.”
Sachs lại nghĩ tới Romeo và Juliet.
Nghĩ tới cái nghĩa trang xinh xắn trên quả đồi nhìn xuống Tanner's Corner mà họ đã chạy xe ngang qua vào buổi sáng tưởng chừng cách đây cả đời người rồi.
Ôi, Rhyme...
Con ruồi bay vèo qua mặt Sachs. Một cách bản năng, cô xua nó đi, và bắt đầu bước về phía bãi cỏ mọc lúp xúp.
Rhyme bảo Bell: “Anh không nghĩ sẽ có người thắc mắc nếu tôi chết theo cái cách như thế này à? Tôi khó có thể tự mình mở một chiếc bình”.
Gã cảnh sát trưởng đáp: “Anh va phải bàn. Nắp bình lỏng. Toxaphene đổ tóe vào anh. Tôi vào, tuy nhiên chúng tôi chẳng kịp cứu anh”.
“Amelia sẽ không để yên đâu. Cả Lucy cũng vậy.”
“Cô bạn gái của anh sắp sửa chẳng còn là vấn đề gì. Còn Lucy ư? Cô ta rất có thể lại đổ bệnh... và lần này thì có thể chẳng còn gì mà cắt bỏ đi để cứu cô ta nữa.”
Bell chỉ do dự một chút, rồi gã bước tới gần và rót thứ chất lỏng kia lên mũi và miệng Rhyme. Gã hắt chỗ còn lại vào vạt trước sơ mi của anh.
Gã cảnh sát trưởng thả chiếc bình xuống lòng Rhyme, vội vã bước lùi lại và che mồm bằng khăn mùi xoa.
Đầu Rhyme ngật về phía sau, miệng anh bất giác há ra và vài giọt chất lỏng chảy vào. Anh bắt đầu tắc thở.
Bell tháo đôi găng tay cao su, nhét vào túi quần. Gã đợi một lát, bình thản quan sát Rhyme, rồi chậm rãi bước về phía cửa, mở khóa, đẩy cánh cửa ra. Gã gọi to: “Có tai nạn! Có ai không, tôi cần giúp đỡ!”. Gã bước ra hành lang. “Tôi cần...”
Bell bước ngay vào đường đạn của Lucy Kerr, khẩu súng lục của cô chĩa thẳng ngực gã.
“Lạy Chúa, Lucy!”
“Đủ rồi, Jim. Hãy cứ đứng nguyên đấy.”
Gã cảnh sát trưởng bước lùi lại. Nathan, tay thiện xạ, bước vào phòng, đến đằng sau Bell, rút khẩu súng lục của gã cảnh sát trưởng ra khỏi bao. Một người nữa bước vào - một người đàn ông to lớn mặc bộ com lê màu nâu vàng và sơ mi trắng.
Ben cũng chạy vào, phớt lờ tất cả những người khác, vội vã bước tới chỗ Rhyme, dùng khăn giấy lau mặt cho nhà hình sự học.
Gã cảnh sát trưởng trừng trừng nhìn Lucy và mọi người. “Không, các vị không hiểu! Đã có tai nạn! Cái chất độc kia đổ ra. Các vị phải...”
Rhyme nhổ xuống sàn và thở khò khè vì thứ nước có tác dụng làm se. Anh bảo Ben: “Cậu lau lên phía bên trên má tôi được không? Tôi sợ nhỡ nó dây vào mắt. Cảm ơn cậu”.
“Tất nhiên rồi, Lincoln.”
Bell nói: “Tôi đang định gọi giúp đỡ! Cái chất kia đổ ra! Tôi...”. Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Người đàn ông mặc bộ com lê lôi đôi còng tay ra khỏi thắt lưng, bập nó vào cổ tay gã cảnh sát trưởng. Ông ta nói: “James Bell, tôi là Thám tử Hugo Branch của cảnh sát bang Bắc Carolina. Anh đã bị bắt”. Branch nhìn Rhyme vẻ cáu kỉnh. “Tôi đã bảo anh là hắn sẽ đổ vào áo anh mà. Chúng ta đáng lẽ đã phải đặt thiết bị đó ở chỗ khác.”
“Nhưng ông có ghi băng lại được đủ không?”
“Ồ, quá đủ. Đây chẳng phải là vấn đề. Vấn đề là những cái máy phát ấy tốn tiền đấy.”
“Hãy gửi hóa đơn cho tôi”, Rhyme nói gay gắt trong lúc Branch cởi áo sơ mi của anh, tháo micro và máy phát.
“Đây là một cái bẫy”, Bell thì thào.
Anh đoán đúng đấy.
“Nhưng chất độc.”
“Ồ, nó không phải toxaphene”, Rhyme nói. “Chỉ là ít rượu lậu. Từ chiếc bình chúng tôi đã lấy mẫu xét nghiệm. À này Ben nếu còn tí nào, ngay bây giờ tôi có thể làm một ngụm. Và lạy Chúa, có ai bật điều hòa lên được không?”
Cơ căng ra, cắt sang phía bên trái và chạy như điên. Mình sẽ trúng đạn nhưng nếu mình may mắn viên đạn sẽ chưa hạ gục mình.
Nếu ta di chuyển, chúng không thể bắt được ta...
Amelia Sachs bước ba bước vào bãi cỏ.
Sẵn sàng...
Chạy...
Rồi một giọng đàn ông từ phía sau họ, bên trong khu tạm giam, cất lên: “Đứng im, Steve! Bỏ vũ khí xuống sàn. Nào! Tôi không nói lại lần nữa đâu!”.
Sachs xoay người một vòng và trông thấy Mason Germain, súng chĩa vào gã thanh niên tóc cắt cua đang bàng hoàng, đôi tai tròn đỏ lựng lên. Farr khom lưng, bỏ khẩu súng xuống sàn. Mason nhanh chóng bước tới, còng gã lại.
Có tiếng bước chân bên ngoài, tiếng lá kêu loạt soạt. Xây xẩm mặt mày vì nóng và vì chất aderaline, Sachs quay lại phía bãi cỏ, trông thấy một người da đen vóc dáng rắn chắc đang trèo ra khỏi bụi cây, nhét khẩu súng lục tự động Browning to tướng vào bao.
“Fred!”, cô kêu lên.
Nhân viên mật vụ FBI Fred Dellray, mồ hôi đầm đìa trong bộ com lê màu đen, bước về phía Sachs, nóng nảy phủi ống tay áo. “Này, Amelia. Lạy Chúa, ở dưới này quá quá quá nóng. Tôi không ưa thị trấn này tí tẹo nào. Và nhìn bộ com lê này. Từ đầu tới chân, tôi không biết, bụi bặm hay là cái gì nữa. Cái của nợ gì thế này, phấn hoa à? Chúng ta không có cái của nợ này ở Manhattan. Nhìn ống tay áo này!”
“Anh đang làm gì ở đây?”, Sachs kinh ngạc hỏi.
“Thế cô nghĩ tôi đang làm gì? Lincoln không chắc anh ấy có thể tin tưởng hay không thể tin tưởng ai, bởi vậy anh ấy mới bảo tôi bay xuống đây và ngoắc tôi vào với cái tay cảnh sát Germain để canh chừng cho cô. Tôi hiểu là anh ấy cần giúp đỡ, vì thấy anh ấy không thể tin tưởng được Jim Bell và đám anh em gã.”
“Bell à?”, Sachs thì thầm.
“Lincoln nghĩ anh ấy đã chắp nối được toàn bộ câu chuyện. Anh ấy sẽ biết một cách chắc chắn ngay bây giờ. Nhưng có vẻ anh ấy đoán đúng, cái thằng em rể kia.” Dellray hất đầu chỉ Steve Farr.
“Hắn sắp sửa hạ được tôi”, Sachs nói.
Anh chàng mật vụ tủm tỉm cười: “Cô không phải chịu nguy hiểm một chút xíu nào, không đời nào. Tôi đã ngắm đầu ruồi vào chính giữa hai cái tai to tướng của thằng cha kia ngay khi cánh cửa sau vừa mở ra. Hắn mải ngắm vào mục tiêu là cô nên không để ý gì đến xung quanh cả”.
Dellray để ý thấy Mason đang ngờ vực quan sát mình. Anh chàng mật vụ cười to, nói với Sachs: “Anh bạn chúng ta ở đây không ưa cái kiểu của tôi lắm. Anh ta đã bảo tôi vậy”.
“Hẵng khoan”, Mason phản đối. “Tôi chỉ muốn nói...”
“Anh muốn nói tới các nhân viên của FBI, tôi cuộc là thế, Dellray ngắt lời.
Viên cảnh sát lắc đầu, giọng cộc cằn: “Tôi muốn nói tới dân miền Bắc”.
“Đúng đấy, anh ta không ưa dần miền Bắc đâu”, Sachs khẳng định.
Sachs và Dellray cười to. Nhưng Mason vẫn giữ vẻ nghiêm trang. Dù sao thì cũng không phải những khác biệt về văn hóa khiến anh ta nghiêm trang thế. Anh ta nói với Sachs: “Xin lỗi, nhưng tôi phải đưa cô vào lại phòng giam. Cô còn đang bị bắt giữ”.
Nụ cười của Sachs tắt dần, và cô nhìn lần nữa ánh nắng nhảy nhót trên bãi cỏ vàng úa bẩn thỉu. Cô hít vào lần nữa không khí nóng nực bên ngoài trời, rồi lại lần nữa. Cuối cùng, cô quay bước trở vào khu tạm giam lờ mờ tối.
16.06.2015
PHẦN 5: THỊ TRẤN VẮNG BÓNG TRẺ
CHƯƠNG 43
Dịch giả: Đinh Minh Hương
Nguồn: NXB Văn học
Nội dung thu gọn
"Anh đã giết Billy, đúng không?”, Rhyme hỏi Jim Bell.
Nhưng gã cảnh sát trưởng im lặng.
Nhà hình sự học tiếp tục: “Hiện trường vụ án chẳng được bảo vệ trong một tiếng rưỡi đồng hồ. Và, tất nhiên, Mason là sĩ quan cảnh sát đầu tiên có mặt tại đó. Tuy nhiên, anh đến đó trước anh ta. Anh không nhận được điện thoại từ Billy thông báo rằng Mary Beth đã chết và anh bắt đầu lo lắng, vì thế anh lái xe đến Bến tàu kênh Nước đen và phát hiện ra cô gái đã biến mất, còn Billy thì bị thương. Billy nói với anh việc Garrett đang đưa cô gái đi. Rồi anh xỏ găng tay cao su vào, cầm chiếc xẻng lên và giết chết thằng bé”.
Rốt cuộc, cơn giận dữ của gã cảnh sát trưởng cũng bùng ra qua lớp mặt nạ. “Tại sao anh đã nghi ngờ tôi?”
“Ban đầu, tôi quả có nghĩ tới Mason - chỉ ba chúng ta và Ben biết về ngôi nhà gỗ. Tôi đồ là anh ta đã gọi điện cho Culbeau và bảo hắn đến đó. Nhưng tôi hỏi Lucy và hóa ra Mason đã gọi điện cho cô ấy và bảo cô ấy đến đó - chỉ để đảm bảo rằng Amelia và Garrett sẽ không trốn thoát lần nữa. Rồi tôi phải suy nghĩ và tôi nhận ra lúc ở chỗ cối xay Mason đã cố gắng bắn Garrett. Bất cứ kẻ nào can dự vào cái âm mưu kia đều sẽ muốn hắn sống sót - giống như anh - để hắn còn dẫn anh đến chỗ Mary Beth. Tôi kiểm tra tình hình tài chính của Mason và được biết rằng anh ta sở hữu một ngôi nhà rẻ tiền và đang nợ nần đầm đìa với các tài khoản MasterCard và Visa. Không có kẻ nào đang đút lót anh ta. Không giống như anh và em rể anh, Bell ạ. Anh có ngôi nhà trị giá bốn trăm ngàn đô la và vô khối tiền mặt trong ngân hàng. Steve Farr thì có ngôi nhà trị giá ba trăm chín mươi ngàn và chiếc thuyền trị giá một trăm tám mươi ngàn. Chúng tôi đang xin lệnh của tòa án để được dòm vào cái két sắt của anh. Đang tự hỏi liệu chúng tôi sẽ tìm thấy bao nhiêu tiền.”
Rhyme tiếp tục: “Tôi hơi tò mò về lý do tại sao Mason lại hăng hái với việc tóm cổ Garrett đến thế nhưng anh ta có lý do xác đáng. Anh ta bảo tôi rằng anh ta khá tức tối khi anh nhận ghế cảnh sát trưởng - anh ta không thực sự hiểu tại sao vì anh ta có thành tích tốt hơn và thâm niên cao hơn. Anh ta nghĩ nếu tóm cổ được Thằng Bọ, Ban Giám đốc chắc chắn sẽ giao ghế cảnh sát trưởng cho anh ta khi nhiệm kỳ của anh kết thúc”.
“Toàn bộ cái trò diễn kịch khốn kiếp của anh...”, Bell lẩm bẩm. “Tôi cứ nghĩ anh chỉ tin tưởng vào các bằng chứng.”
Rhyme hiếm khi đấu khẩu với con mồi của mình. Tuy nhiên, anh vẫn bảo Bell: “Tôi những muốn sử dụng bằng chứng hơn. Nhưng đôi khi cũng phải ứng biến. Tôi không hẳn là kẻ hay tự ái như tất cả mọi người đều nghĩ đâu”.
Chiếc xe lăn Storm Arrow không phù hợp với phòng giam Amelia Sachs.
“Không có lối vào cho người què quặt à?”, Rhyme càu nhàu. “Đấy là một sự vi phạm Luật người khuyết tật.”
Sachs nghĩ anh đang sử dụng những lời lẽ hung hãn vì cô, anh muốn để cho cô thấy các tâm trạng quen thuộc. Nhưng cô không nói gì.
Do vấn đề chiếc xe lăn, Mason Germain gợi ý dùng phòng thẩm vấn. Sachs lê bước vào, đeo cả còng tay và còng chân. Viên cảnh sát đã khăng khăng yêu cầu việc ấy (cô, suy cho cùng, từng thu xếp một cuộc chạy trốn chính từ nơi này).
Ông luật sư từ New York đã tới. Ông ta tên là Solomon Geberth, đầu bạc. Là thành viên của luật sư đoàn New York, Massachusett và Washington DC, ông ta được tòa án Bắc Carolina chấp thuận cho cãi riêng cho trường hợp của Sachs. Thật lạ lùng, với khuôn mặt điển trai, lịch lãm và cử chỉ tác phong thậm chí còn lịch lãm hơn, ông ta dường như giống một vị luật sư miền Nam tao nhã bước ra từ tiểu thuyết của John Grisham hơn hẳn một chú chó bull<39> của luật sư đoàn Manhattan. Mái tóc cắt tỉa gọn gàng của ông ta xịt keo bóng loáng và bộ com lê Ý phẳng lỳ ngay cả với cái độ ẩm đáng kinh ngạc của Tanner's Corner.
Lincoln Rhyme ngồi giữa Sachs và luật sư của cô. Cô đặt bàn tay lên tay vịn chiếc xe lăn.
“Họ đã giới thiệu một công tố viên đặc biệt từ Raleigh”, Geberth trình bày. “Vì vụ tay cảnh sát trưởng với tay điều tra viên kia, tôi nghĩ họ không hoàn toàn tin tưởng McGuire. Dù sao thì ông ta cũng đã xem xét các chứng cứ và đã quyết định bãi bỏ mọi lời buộc tội Garrett.”
Vẻ mặt Sachs xao động trước tin tức này. “Ông ta đã bác bỏ?”
Geberth nói: “Garrett thừa nhận việc đánh Billy, và tưởng mình đã giết chết nó. Nhưng Lincoln đoán đúng. Kẻ giết chết thằng bé kia là Bell, và thậm chí nếu họ buộc cậu ta tội tấn công người khác thì hành động của Garrett rõ ràng cũng là hành động tự vệ. Viên cảnh sát kia, Ed Schaeffer ấy? Cái chết của ông ta được kết luận là tai nạn.”
“Việc bắt cóc Lydia Johansson thì sao?”
“Khi cô ta nhận ra rằng Garrett chưa bao giờ có ý định làm hại mình, cô ta quyết định rút đơn kiện. Mary Beth cũng vậy. Mẹ cô này lại không muốn, tuy nhiên các vị nên biết chuyện cô gái đã tranh cãi với mẹ. Cuộc tranh cãi đó khá kịch liệt, tôi phải công nhận như thế.”
“Thế là cậu ta được tự do? Garrett ấy?”, Sachs hỏi, ánh mắt cắm xuống sàn.
“Họ sẽ thả cậu ta ra sau ít phút nữa”, Geberth bảo cô. Rồi ông ta nói: “Được rồi, vấn đề là như thế này, Amelia: ông ủy viên công tố giữ quan điểm rằng, dù Garrett hóa ra không phải kẻ tội phạm nghiêm trọng, thì cô cũng đã mắc tội giúp đỡ một tù nhân bị bắt dựa trên căn cứ thỏa đáng chạy trốn và đã giết chết một sĩ quan cảnh sát trong lúc mắc tội này. Ông ủy viên công tố sẽ đòi buộc tội giết người cấp độ một, đồng thời sẽ thêm hai điểm buộc tội khác nữa: cũng đều là giết người - cố sát và ngộ sát - điểm này lại bao gồm làm chết người do bất cẩn và làm chết người do sơ suất trong khi thi hành nhiệm vụ”.
“Cấp độ một?”, Rhyme quát lên. “Đó là sự việc không hề có dự tính trước, là một tai nạn! Hãy vì Chúa.”
“Đây chính là điều tôi sẽ cố gắng chứng minh tại tòa”, Geberth nói. “Rằng viên cảnh sát kia, cái người đã bất ngờ vồ lấy cô, là một phần nguyên nhân khiến cô nổ súng. Nhưng tôi đảm bảo họ sẽ buộc cô tội làm chết người do bất cẩn. Thực tế thì chắc chăn sẽ như vậy.”
“Cơ hội được trắng án ra sao?”, Rhyme hỏi.
“Ít lắm. Nhiều nhất là mười, mười lăm phần trăm. Tôi xin lỗi, nhưng tôi bắt buộc phải khuyên cô chấp nhận một thỏa thuận điều đình nhận tội.”
Sachs có cảm giác bị tống một quả đấm vào ngực. Cô nhắm mắt lại và khi thở ra cứ như thể linh hồn cô đã rời khỏi thể xác cô vậy.
“Lạy Chúa”, Rhyme lẩm bẩm.
Sachs nghĩ tới Nick, bạn trai cũ của cô. Cô nhớ, khi bị bắt vì tội cướp xe tải và nhận lại quả, anh ta đã từ chối một thỏa thuận điều đình nhận tội, liều đứng trước một bồi thẩm đoàn. Anh ta bảo cô: “Việc này giống như câu cha em hay nói ấy, Aimees - khi mình hành động người ta không thể tóm được mình. Được ăn cả ngã về không”.
Bồi thẩm đoàn mất mười tám phút để kết tội Nick. Anh ta vẫn đang ngồi tù ở New York.
Sachs nhìn cái ông Geberth mặt mũi nhẵn nhụi. Cô hỏi: “Nếu có thương lượng, ủy viên công tố sẽ đòi buộc tội gì?”.
“Ông ta chưa cho ý kiến. Nhưng có thể là tội cố sát - nếu cô chịu ngồi tù. Theo tôi, tám đến mười năm. Tuy nhiên, tôi phải nói với cô rằng ở Bắc Carolina này sẽ là ngồi tù. Ở đây không có khu an dưỡng đâu.”
Rhyme làu bàu: “Đấu với mười lăm phần trăm cơ hội trắng án”.
Geberth nói: “Đúng vậy”. Rồi ông luật sư thêm: “Cô phải hiểu rằng không có điều kỳ diệu nào ở đây đâu, Amelia. Nếu chúng ta ra tòa, công tố viên sẽ chứng minh cô là một nhân viên thực thi pháp luật chuyên nghiệp, một xạ thủ vô địch, và bồi thẩm đoàn sẽ khó có thể chấp nhận việc nổ súng là chẳng may”.
Luật lệ bình thường không áp dụng đối với bất cứ ai ở phía bắc sông Paquo. Cả chúng tôi lẫn bọn họ. Anh có thể thấy chính anh nhả đạn tnrớc khi anh đọc cho người ta biết về các quyền của người ta và điều đó hoàn toàn không vấn đề gì cả.
Ông luật sư nói: “Nếu điều này xảy ra, họ có thể buộc cô tội giết người cấp độ một và cô sẽ lĩnh án hai mươi năm”.
“Hoặc tử hình”, Sachs lẩm bẩm.
“Phải, đây là một khả năng. Tôi không thể nói với cô là không có khả năng đó.”
Vì lẽ nào đấy, cái hình ảnh xuất hiện trong tâm trí Sachs vào khoảnh khắc này là hình ảnh gia đình chim ưng làm tổ bên ngoài ô cửa sổ ngôi nhà của Lincoln Rhyme ở Manhattan: con trống, con mái, và con con. Cô nói: “Nếu tôi xin nhận tội ngộ sát, tôi sẽ phải ngồi tù bao lâu?”.
“Chắc sáu, bảy năm. Không có chuyện cam kết để được tha đâu.”
Anh và em, Rhyme.
Sachs hít sâu vào. “Tôi sẽ xin nhận tội.”
“Sachs...”, Rhyme cất lời.
Nhưng cô nhắc lại với Geberth: “Tôi sẽ xin nhận tội”.
Ông luật sư đứng lên. Ông ta gật đầu. “Tôi sẽ gọi cho ủy viên công tố ngay bây giờ, xem liệu ông ta có chấp thuận không. Có tin tức gì, tôi sẽ thông báo ngay.” Gật đầu chào Rhyme, ông luật sư đi ra.
Mason liếc nhìn gương mặt Sachs. Anh ta đứng lên và bước về phía cửa, đôi giày cao cổ dậm cồm cộp. “Tôi sẽ để hai người nói chuyện vài phút. Tôi không phải khám xét anh chứ, Lincoln?”
Rhyme mỉm cười mệt mỏi: “Tôi chẳng có vũ khí gì, Mason”.
Cánh cửa đóng sập lại.
“Thật là một mớ bòng bong, Lincoln”, Sachs nói.
“Ừm, Sachs. Đừng gọi tên riêng.”
“Tại sao không?”, Sachs hoài nghi hỏi, gần như là thì thầm. “Xui xẻo à?”
“Có thể.”
“Anh đâu thuộc loại mê tín dị đoan. Hay ít nhất thì anh vẫn luôn luôn bảo em như thế.”
“Không mê tín lắm. Nhưng đây là một chốn đáng sợ.”
Tanner’s Corner... Thị trấn vắng bóng trẻ.
“Anh đáng lẽ phải nghe em”, Rhyme nói. “Em đã xác định đúng về Garrett. Anh đã sai lầm. Anh chỉ nhìn vào các chứng cứ và hoàn toàn sai lầm.”
“Nhưng em cũng không biết rằng em đúng. Em không biết gì cả. Em chỉ có linh cảm và em hành động thôi.”
Rhyme nói: Bất kể chuyện gì xảy ra, Sachs, anh sẽ không đi đâu cả”. Anh hất đầu chỉ xuống chiếc Storm Arrow và bật cười. “Anh không đi đâu xa lắm được thậm chí nếu anh có muốn đi. Còn em, em sẽ đi, một ngày nào đó. Anh sẽ ở đây đợi em ra tù.”
“Lời lẽ thôi, Rhyme”, Sachs nói. “Chỉ là lời lẽ thôi... Cha em cũng bảo ông sẽ không đi đâu cả. Một tuần sau thì căn bệnh ung thư đưa ông đi.”
“Anh quá bướng bỉnh trước cái chết.”
Nhưng anh không quá bướng bỉnh để tình trạng cơ thể đượckhá hơn, Sachs nghĩ, để gặp một ai đó khác, để đi tiếp và bỏ lại em đằng sau.
Cánh cửa thông sang phòng thẩm vấn mở ra. Garrett đứng ở ngưỡng cửa, Mason đứng đằng sau cậu ta. Hai bàn tay cậu thiếu niên, không còn bị còng nữa, giơ ra phía trước, khum lại.
“Này”, Garrett nói thay lời chào. “Xem tôi tìm thấy cái gì này. Nó ở trong phòng giam của tôi.” Cậu ta mở hai bàn tay và một con côn trùng nhỏ bay ra. “Đó là một con bướm sư tử. Nó thích tìm hút mật hoa nữ lang. Người ta không hay thấy chúng bên trong nhà đâu. Khá thú vị.”
Sachs mỉm cười yếu ớt, nhận niềm thích thú từ cặp mắt đầy ánh nhiệt tình của cậu thiếu niên. “Garrett, có một việc tôi muốn cậu biết.”
Cậu ta bước đến gần hơn, nhìn xuống cô.
“Cậu nhớ những gì cậu đã nói trong ngôi nhà lưu động chứ? Khi cậu nói chuyện với bố cậu ngồi trên chiếc ghế trống?”
Garrett do dự gật đầu.
“Cậu đã nói cậu cảm thấy đau khổ biết bao khi ông không muốn cậu lên xe buổi tối hôm ấy.”
“Tôi nhớ.”
“Nhưng cậu biết tại sao ông không muốn cậu... Ông đã cố gắng cứu tính mạng cậu. Ông biết trong xe có thuốc độc và cả nhà sắp chết. Nếu cậu lên xe với cả nhà cậu cũng sẽ chết. Và ông không muốn điều đó.” Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
“Tôi nghĩ là tôi biết”, Garrett nói với giọng thiếu chắc chắn và Amelia Sachs đồ rằng viết lại quá khứ của người ta là một việc không có mấy hy vọng.
“Hãy luôn luôn nhớ như thế,”
“Tôi sẽ nhớ.”
Sachs nhìn con bướm đêm bé tí, màu be, đang bay xung quanh phòng thẩm vấn. “Cậu có để lại con vật nào trong phòng giam cho tôi không? Để bầu bạn?”
“Có, tôi có để lại. Một đôi bọ rùa – tên thật của chúng là bọ hung đốm. Một con rầy và một con ruồi giả ong. Cách chúng bay hay lắm. Cô có thể quan sát chúng hàng tiếng đồng hồ liền.” Garrett ngừng lại. “Nói chung, tôi xin lỗi vì đã nói dối cô. Vấn đề là, nếu không thì tôi không bao giờ thoát ra được và không thể nào cứu Mary Beth được.”
“Không sao đâu, Garrett.”
Cậu ta nhìn Mason. “Bây giờ tôi có thể đi chứ?”
“Cậu có thể.”
Garrett bước ra phía cửa, quay lại và nói với Sachs: “Tôi sẽ tới, nói chung, sẽ thường xuyên tới thăm cô. Nếu được.”
“Tôi sẽ rất vui.”
Garrett bước ra ngoài, và qua cánh cửa mở Sachs có thể trông thấy cậu ta bước tới một chiếc SUV. Đó là xe của Lucy Kerr. Sachs trông thấy Lucy xuống xe, mở cửa cho cậu ta - giống như một bà mẹ đón đứa con trai sau buổi tập đá bóng. Cánh cửa nhà giam đóng lại, cắt đứt cái khung cảnh gia đình này. Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Và chẳng mấy chốc cô đã ở trong nỗi cô độc này.
***
Ra khỏi Tanner's Corner, nơi con đường vẫn còn hai làn đường 112 có một khúc ngoặt, gần sông Paquenoke. Ngay bên lề đường, mọc um tùm những đám lau, lách, chàm, và những khóm mao hương cao khoe hoa đỏ rực rỡ như màu cờ.
Đám cây cỏ này tạo thành góc vườn yên tĩnh, chỗ đỗ xe ưa thích của các cảnh sát quận Paquenoke. Họ nhấm nháp trà đá và nghe đài trong lúc chờ đợi khẩu súng bắn tốc độ ghi nhận một tốc độ năm mươi tư dặm một giờ hoặc hơn thế. Rồi họ phóng xe trên quốc lộ đuổi theo, bất ngờ tóm lấy tay tài xế chạy quá tốc độ cho phép và bổ sung thêm chừng trăm đô la vào kho bạc quận.
Hôm nay, Chủ nhật, khi chiếc SUV Lexus đi qua đoạn đường này, đồng hồ trên khẩu súng bắn tốc độ của Lucy chỉ một tốc độ cho phép, bốn mươi tư dặm một giờ. Nhưng cô vẫn vào số chiếc xe công vụ, bật cái đèn xoay xanh đỏ trên nóc xe và lao đuổi theo chiếc SUV.
Cô tiến đến gần chiếc Lexus, quan sát nó kỹ lưỡng. Đã từ lâu, cô biết cách kiểm tra gương chiếu hậu của chiếc xe cô định yêu cầu dừng lại. Cứ nhìn vào mắt người lái xe là đã có thể cảm thấy được khá chắc chắn loại tội trạng khác mà họ đang phạm phải, nếu quả là như vậy, ngoài tội chạy quá tốc độ cho phép hoặc để đèn hậu bị vỡ. Ma túy, đánh cắp vũ khí, uống rượu. Có thể cảm thấy được mức độ nguy hiểm của việc yêu cầu dừng xe. Bây giờ cô đang trông thấy ánh mắt người đàn ông lướt qua tấm gương, liếc nhìn cô không một chút tội lỗi hay lo lắng.
Ánh mắt an toàn...
Nó khiến cơn giận dữ trong Lucy sôi sục hơn và cô phải hít thở mạnh để kiềm chế.
Chiêc ô tô to lớn trờ lên lề đường đầy bụi và Lucy tiến đến đỗ đằng sau. Theo như quy định thì Lucy yêu cầu dừng xe là để kiểm tra giấy tờ, nhưng cô chẳng bận tâm tới những thứ đó. Không quy định nào của Cơ quan Quản lý Xe gắn máy khiến cô quan tâm. Cô mở cửa xe bằng hai bàn tay run run và bước ra ngoài.
Ánh mắt người đàn ông bây giờ đưa sang tấm gương bên thành xe, tiếp tục lạnh lùng quan sát cô. Nó thể hiện đôi chút ngạc nhiên, chú ý, vì cô đang không mặc đồng phục - chỉ quần bò và sơ mi lao động - tuy cô có đeo súng bên hông. Một cảnh sát đang không trong giờ làm nhiệm vụ yêu cầu dừng một chiếc xe không chạy quá tốc độ cho phép nghĩa là thế nào.
Henry Davett kéo kính cửa sổ xe xuống.
Lucy Kerr nhìn vào bên trong, cái nhìn vượt qua Davett. Ngồi ở ghế hành khách phía trước là một phụ nữ ngoài năm mươi tuổi. Mái tóc vàng xịt keo khô se cho thấy bà ta chắc chăm đi gội đầu ngoài tiệm. Cổ tay, tai và ngực bà ta lóng lánh kim cương. Một cô con gái tuổi thiếu niên ngồi đằng sau, lật xem các hộp đựng đĩa CD, thầm thưởng thức thứ âm nhạc mà cha cô không bao giờ nghe vào ngày Chủ nhật - ngày nghỉ ngơi và thờ phụng đức Chúa.
“Sĩ quan Kerr”, Davett nói. “Có vấn đề gì thế?”
Nhưng Lucy có thể trông thấy trong ánh mắt ông ta, bây giờ thì không còn là qua gương nữa, rằng ông ta biết chính xác vấn đề là gì.
Và họ vẫn giữ vẻ vô tội, bình tĩnh, như khi Davett trông thấy ánh đèn xanh đỏ xoay trên nóc chiếc Crown Victoria của cô.
Cô không kiềm chế được cơn giận dữ và quát lên: “Xuống xe đi, Davett”.
“Anh yêu, anh đã làm chuyện gì?”
“Có cảnh sát, việc này là sao?”, Davett thở dài hỏi.
“Xuống xe. Mau.” Lucy cho tay vào bên trong, bật khóa cửa xe.
“Cô ta có thể làm thế ư, anh yêu? Cô ta có thể…”
“Im đi, Edna.”
“Được rồi, tôi xin lỗi.”
Lucy giật mạnh cửa xe. Davett tháo dây an toàn và bước ra lề đường đầy bụi.
Một chiếc xe rờ moóc phóng qua, làm trùm bụi lên khắp người họ. Davett khó chịu nhìn những hạt đất sét Carolina xám xịt đậu xuống chiếc áo vét màu xanh da trời. “Gia đình tôi và tôi bị muộn giờ ăn trưa rồi. Tôi không nghĩ…”
Lucy tóm cánh tay ông ta, lôi ông ta ra khỏi lề đường, đứng vào bên đám lúa trời và cỏ nến mọc cao. Một dòng suối nhỏ, là một nhánh của sông Paquenoke, chảy bên cạnh đường.
Davett cường điệu nhắc lại: “Việc này là sao?”
“Tôi đã biết tất cả.”
“Thế à, sĩ quan Kerr? Cô đã biết tất cả à? Là những gì vậy?”
“Chất độc đó, những vụ án mạng, con kênh đào…”
Davett nhẹ nhàng nói: “Tôi chưa bao giờ có một chút quan hệ trực tiếp nào với Jim Bell hay bất cứ ai ở Tanner’s Corner. Nếu có những thằng ngu rồ dại nào đấy trong số nhân viên của tôi đi thuê những thằng ngu rồ dại khác làm những việc phi pháp, thì đó cũng đâu phải lỗi của tôi chứ. Và nếu điều đó đã xảy ra, tôi sẽ hợp tác với nhà chức trách trăm phần trăm”.
Không bối rối trước câu đáp trả khéo léo của Davett, Lucy nói giọng đe dọa: “Ông sẽ chìm cùng với Bell và thằng em rể hắn”.
“Tất nhiên tôi sẽ không sao cả. Không có gì liên hệ tôi với bất cứ tội ác nào. Không nhân chứng. Không tài khoản, không chuyển tiền, không bằng chứng về bất cứ việc làm sai trái nào. Tôi là nhà sản xuất các sản phẩm hóa dầu - chất tẩy, nhựa đường, và một số loại thuốc diệt côn trùng.”
“Thuốc diệt côn trùng bất hợp pháp.”
“Sai”, Davett gay gắt đáp. “Cơ quan Bảo vệ Môi trường vẫn cho phép sử dụng toxaphene tại Mỹ trong một số trường hợp. Và nó hoàn toàn không bất hợp pháp tại hầu hết các nước Thế giới thứ Ba. Hãy chịu khó đọc, cô cảnh sát: nếu không có thuốc diệt côn trùng, bệnh sốt xuất huyết, bệnh viêm não, nạn đói... sẽ giết chết hàng trăm nghìn người mỗi năm và…”
“... và khiến những người tiếp xúc với nó mắc chứng ung thư, mất khả năng sinh sản, bị tổn thương gan, và…
Davett nhún vai. “Hãy cho tôi thấy các nghiên cứu đi, cảnh sát Kerr. Hãy cho tôi thấy các nghiên cứu chứng minh điều ấy.”
“Nếu nó vô hại đến thế thì tại sao ông phải thôi vận chuyển bằng xe tải? Tại sao ông phải chuyển sang vận chuyển bằng xà lan?”
“Tôi không thể đưa nó đến cảng bằng bất cứ cách nào khác - vì có những quận và thị trấn thích a dua a tòng đã cấm vận chuyển một số loại hóa chất mà họ không biết thông tin thực sự về chúng. Và tôi không lấy đâu ra thời gian để thuê đám vận động hành lang tác động thay đổi luật.”
“Chà, tôi cuộc rằng Cơ quan Bảo vệ Môi trường sẽ quan tâm tới việc ông đang làm ở đây.”
“Ồ, xin mời”, Davett khinh khỉnh nói. “Cơ quan Bảo vệ Môi trường ấy à? Hãy bảo họ đến. Tôi sẽ cho cô số điện thoại của họ. Nếu họ có đến thăm nhà máy nhé, thì họ cũng sẽ tìm thấy toxaphene ở mức độ cho phép khắp xung quanh Tanner’s Corner này.”
“Có thể ở mức độ cho phép nếu xét riêng nước, riêng không khí, riêng các sản vật địa phương... Nhưng nếu tất cả những thứ đó kết hợp lại với nhau? Nếu một đứa trẻ uống một cốc nước lấy từ cái giếng cha mẹ nó đào, rồi chơi trên cỏ, rồi ăn một trái táo hái từ một vườn quả địa phương, rồi...”
Davett nhún vai. “Luật pháp quy định rõ ràng, cảnh sát Kerr. Nếu cô không thích chúng, hãy viết thư gửi ông nghị bà nghị của cô.”
Cô tóm ve áo Davett, gầm lên: “Ông không hiểu. Ông sắp sửa phải vào tù.”
Davett giật áo ra, thì thầm hằn học: “Không, cô mới không hiểu, cô sĩ quan. Cô rất không hiểu. Tôi rất, rất hiểu việc tôi làm. Tôi không phạm phải lỗi lầm nào cả”. Ông ta liếc nhìn đồng hồ đeo tay. “Bây giờ tôi phải đi.”
Davett bước trở về chỗ chiếc SUV, vuốt vuốt mái tóc đang thưa dần. Mồ hôi khiến nó thẫm màu và ẹp xuống.
Ông ta trèo vào xe, đóng sầm cánh cửa lại.
Lucy bước tới phía người lái khi ông ta bắt đầu nổ máy. “Hẵng khoan”, cô nói.
Davett liếc nhìn Lucy. Nhưng người nữ cảnh sát phớt lờ ông ta. Ánh mắt cô đang hướng vào những hành khách của ông ta. “Tôi muốn mẹ con bà trông thấy cái việc mà Henry đã làm.” Hai bàn tay khỏe mạnh giật bung vạt áo sơ mi. Người phụ nữ trong xe há hốc mồm nhìn các vết sẹo màu hồng ở vị trí trước đây là bộ ngực cô. Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
“Ôi, xin hãy thôi đi.” Davett lẩm bẩm, đưa ánh mắt qua chỗ khác.
“Cha...”, cô con gái sững sờ thì thào. Bà mẹ cứ nhìn chằm chằm, không thốt lên lời nào được.
Lucy nói: “Ông bảo ông không phạm phải lỗi lầm nào ư, Davett?... Ông sai rồi. Ông đã gây ra việc này”.
Gã đàn ông gài số xe, đánh xi nhan xin rẽ, kiểm tra gương quan sát điểm mù, rồi từ từ cho xe ra quốc lộ.
Lucy đứng đó hồi lâu, nhìn chiếc Lexus đi xa dần. Cô lục túi quần lôi ra kim băng cài lại áo. Cô đứng dựa vào xe mình hồi lâu, cố gắng không khóc, rồi tình cờ cô nhìn xuống, để ý thấy ở vệ đường một bông hoa nhỏ có màu đỏ hơi hung hung. Cô nheo mắt. Nó là một bông lan hài hồng, thuộc họ phong lan. Những bông hoa trông giống những chiếc hài tí hon. Đây là loài hiếm gặp ở quận Paquenoke và cô chưa bao giờ thấy cây lan hài nào dễ thương như cây này. Sau năm phút, bằng cần gạt tuyết trên kính chắn gió, cái cây đã được cô đánh lên và được đặt an toàn vào cái cốc cao của chuỗi cửa hiệu 7-Eleven<40>, thứ bia mang hương vị rễ cây phải hy sinh cho vẻ đẹp khu vườn của Lucy Kerr.
chú Thích:
<39> Chó bull: giống chó đầu to, cổ ngắn, mập, khỏe, can đảm.
<40> 7-Eleven có nghĩa là 7-Mười một - một hệ thống cửa hiệu đa quốc gia, ban đầu mở cửa từ bảy giờ sáng đến mười một giờ đêm.
16.06.2015
PHẦN 5: THỊ TRẤN VẮNG BÓNG TRẺ
CHƯƠNG 44
Dịch giả: Đinh Minh Hương
Nguồn: NXB Văn học
Nội dung thu gọn
Tấm biển gắn trên một bức tường tòa án giải thích rằng tên tiểu bang bắt nguồn từ từ Carolus trong tiếng Latin, có nghĩa là Charles trong tiếng Anh. Vua Charles I đã ban giấy cấp đất để thiết lập nên thuộc địa này.
Carolina...
Amelia Sachs lại cứ tưởng tên tiểu bang được đặt theo tên một nữ hoàng hay một công nương nào đó, Carolina. Sinh ra và lớn lên ở Brooklyn, cô không mấy quan tâm, cũng không mấy hiểu biết, về hoàng tộc.
Bây giờ thì cô đang ngồi giữa hai người lính gác trên chiếc ghế băng trong tòa án, tay vẫn bị còng. Tòa nhà bằng gạch đỏ lâu đời, sàn lát đá cẩm thạch và gỗ gụ sẫm màu. Những người đàn ông nghiêm khắc mặc com lê đen, những vị thẩm phán hoặc thống đốc, cô đồ là thế, từ những bức tranh sơn dầu nhìn xuống cô, như thể họ biết cô có tội. Không có máy điều hòa nhiệt độ, nhưng nhờ kỹ thuật công trình hiệu quả của thế kỷ XVIII, những làn gió nhẹ và bóng tối khiến chốn này đâm mát mẻ.
Fred Dallray thong thả đi tới chỗ cô. “Xin chào - cô muốn cà phê hay thứ gì không?”
Người lính gác bên tay trái vừa bắt đầu “Không nói chuyện với...” thì chiếc thẻ nhân viên Bộ Tư pháp đã cắt đứt lời nhắc nhở.
“Không, Fred. Lincoln đâu?”
Đã gần chín rưỡi.
Không biết. Cô biết cái tay đó mà - đôi khi anh ta cứ bỗng dưngxuất hiện thôi. Đối với một người không đi lại được thì anh ta lại lang thang chỗ nọ chỗ kia nhiều hơn bất cứ ai khác tôi từng biết đấy,”
Lucy và Garrett cũng chưa thấy tới.
Sol Geberth, mặc bộ com lê màu xám trông đắt tiền, bước đến chỗ Sachs. Người lính gác bên tay phải nhanh chóng đứng lên nhường cho ông luật sư ngồi xuống. “Xin chào, Fred.” Ông luật sư nói với ông mật vụ.
Dellray gật đầu đáp lại, nhưng lạnh nhạt, và Sachs suy luận rằng, cũng như với Rhyme, ông luật sư bào chữa này hẳn từng cãi trắng án cho một số đối tượng bị ông mật vụ tóm cổ.
“Đã thương lượng rồi”, Geberth bảo Sachs. “Công tố viên đồng ý với tội ngộ sát - ngoài ra sẽ không có thêm điểm buộc tội nào. Năm năm. Không có chuyện cam kết để được tha.”
Năm năm...
Ông luật sư tiếp tục: “Hôm qua tôi chưa nghĩ tới một khía cạnh của việc này”.
“Khía cạnh gì vậy?”, Sachs hỏi, cố gắng phán đoán qua vẻ mặt Geberth xem cái vấn đề mới nảy sinh đó phức tạp tới mức nào.
“Vấn đề là cô là một cảnh sát.”
“Điều ấy có liên quan gì?”
Gerberth chưa kịp nói thì Dellray đã nói trước: “Cô là một sĩ quan cảnh sát. Một người vốn thuộc hệ thống này”.
Khi Sachs vẫn chưa hiểu, người nhân viên mật vụ giải thích: “Thuộc hệ thống nhà tù này. Cô sẽ phải được cách ly. Nếu không cô sẽ không tồn tại nổi lấy một tuần. Hoàn cảnh sẽ khắc nghiệt đấy Amelia. Sẽ hết sức khắc nghiệt đấy.”
“Nhưng có ai biết tôi là cảnh sát đâu.”
Dellray cất tiếng cười khẽ. “Cho tới lúc cô được phát bộ đồng phục tù nhân bằng nỉ và lanh thì bọn họ sẽ biết không sót thông tin nào về cô cả.”
“Tôi chưa từng tóm cổ ai dưới này. Tại sao họ lại bận tâm chuyện tôi là cảnh sát chứ?”
“Cô từ đâu đến không tạo ra một mảy may khác biệt nào”, Dellray vừa nói vừa nhìn Geberth, ông này gật đầu khẳng định. “Cô tuyệt đối sẽ không được giam chung.”
“Vậy, về cơ bản, sẽ là năm năm cô độc.”
“Tôi e là thế, Geberth nói.
Sachs nhắm mắt lại, cảm thấy cơn buồn nôn lan khắp người,
Năm năm không xê dịch, năm năm của nỗi hãi sợ trong một không gian đóng kín, năm năm của ác mộng...
Và, là một kẻ từng bị kết án, làm sao cô có thể nghĩ đến chuyện làm mẹ? Sự tuyệt vọng khiến cô nghẹt thở.
“Thế nào?”, ông luật sư hỏi. “Sẽ thế nào đây ?”
Sachs mở mắt ra. “Tôi chấp nhận.”
Căn phòng đông đúc. Sachs trông thấy Mason Germain và một vài cảnh sát khác. Hai ông bà nét mặt nghiêm trang, mắt đỏ hoe, có lẽ là cha mẹ Jesse Corn, ngồi ở hàng ghế phía trước. Sachs vô cùng muốn nói điều gì đó với họ, nhưng ánh mắt khinh bỉ của họ khiến cô câm lặng. Cô chỉ trông thấy hai gương mặt nhìn cô vẻ tử tế: Mary Beth McConnell và một phụ nữ dáng nặng nề có lẽ là mẹ cô gái. Không thấy Lucy Kerr đâu. Cũng không thấy Rhyme. Cô cho rằng anh không lòng nào chứng kiến cảnh cô bị dẫn ra trong xiềng xích. Ờ, không sao, cô cũng chẳng muốn gặp anh trong hoàn cảnh này.
Nhân viên chấp hành của tòa án dẫn Sachs đến bàn luật sư bào chữa. Anh ta không tháo còng cho cô. Sol Geberth ngồi bên cạnh cô.
Họ đứng dậy khi vị thẩm phán bước vào, và người đàn ông dáng khẳng khiu khoác áo choàng màu đen rộng thùng thình an tọa bên chiếc bàn cao. Ông ta dành vài phút xem qua các tài liệu, trao đổi với người thư ký của mình. Cuối cùng, ông ta gật đầu, và người thư ký tuyên bố: “Phiên tòa xử vụ Người Dân bang Bắc Carolina đòi khởi tố Amelia Sachs”.
Vị thẩm phán gật đầu với công tố viên đến từ Raleigh. Người đàn ông cao, tóc bạc đứng dậy. “Thưa ngài thẩm phán, bị cáo và bang đã đi đến một thỏa thuận điều đình nhận tội, theo đó thì bị cáo đồng ý nhận tội giết người cấp độ hai đối với cái chết của cảnh sát Jesse Randolph Corn. Bang bác bỏ tất cả các tội khác và đề nghị mức án năm năm tù, không có cam kết để được tha hoặc giảm án.” Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
“Cô Sachs, cô đã bàn bạc về thỏa thuận này với luật sư của cô chưa?”
“Đã, thưa ngài thẩm phán.”
“Và ông ấy đã cho cô biết rằng cô có quyền phản đối nó để được đưa ra xét xử chưa?”
“Thưa đã.”
“Và cô hiểu là với việc chấp nhận thỏa thuận nay, cô sẽ phải nhận tội giết người?”
“Vâng.”
“Cô tự nguyện đi đến quyết định?”
Sachs nghĩ tới cha cô, tới Nick. Và tới Lincoln Rhyme. “Vâng.”
“Rất tốt. Cô có ý kiến như thế nào trước tội giết người cấp độ hai được buộc cho cô?”
“Tôi nhận tội, thưa ngài thẩm phán.”
“Theo đề nghị của bang, thỏa thuận điều đình nhận tội được đưa ra xem xét và tôi có mặt tại đây kết án cô...”
Hai cánh cửa bọc da màu đỏ mở thông ra hành lang bị đẩy mạnh vào bên trong và với tiếng rít chói tai, chiếc xe lăn của Lincoln Rhyme lựa chiều lăn vào. Một nhân viên chấp hành cố gắng mở hai cánh cửa ra cho chiếc Storm Arrow, nhưng Rhyme có vẻ vội vã và cứ thế lao qua. Một bên cánh cửa đập vào tường đánh sầm. Lucy Kerr theo sau anh.
Vị thẩm phán ngẩng nhìn, sẵn sàng quở trách kẻ xâm phạm. Khi ông ta trông thấy chiếc xe lăn, ông ta - giống như phần lớn những người khác - rút lui vào cái thái độ nhã nhặn khôn khéo mà Rhyme vốn vẫn khinh miệt, không nói gì cả. Ông ta quay lại phía Sachs. “Tôi có mặt tại đây kết án cô năm năm...”
Rhyme nói: “Hãy tha lỗi cho tôi, ngài thẩm phán. Tôi cần trao đổi với bị cáo và luật sư của cô ấy một phút”.
“Chà”, viên thẩm phán gầm gừ. “Chúng tôi đang tiến hành công việc. Anh có thể trao đổi với cô ấy sau.”
“Với tất cả sự trân trọng, thưa ngài thẩm phán”, Rhyme đáp lời. “Tôi cần nói chuyện với cô ấy bây giờ.” Giọng anh cũng gầm gừ, nhưng âm lượng lớn hơn nhiều so với giọng thẩm phán.
Giống hệt như những ngày tháng cũ, lại ở trong một phòng
Phần lớn mọi người nghĩ công việc duy nhất mà các nhà hình sự học tiến hành là tìm ra và phân tích chứng cứ. Nhưng khi Lincoln Rhyme còn phụ trách bộ phận khám nghiệm của Sở Cảnh sát New York - bộ phận Điều tra và Nguồn lực - thời gian anh ra làm chứng trước tòa cũng gần bằng thời gian anh ở trong phòng thí nghiệm. Anh từng là một chuyên gia làm chứng. (Blaine, vợ cũ của anh, hay nhận xét rằng anh thích biểu diễn trước mọi người - trong đó có cả cô ta - hơn tương tác với họ.) Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Rhyme thận trọng điều khiển chiếc xe lăn đến sát dãy chấn song ngăn giữa các bàn của luật sư và khu vực dành cho cử tọa trong phòng xử án Tòa án quận Paquenoke. Anh nhìn Amelia Sachs và hình ảnh trước mắt làm tan nát trái tim anh. Sau ba ngày bị giam, cô đã sút cân nhiều, khuôn mặt trở nên vàng vọt. Mái tóc đỏ bẩn thỉu được búi lên - cô hay làm thế khi ở các hiện trường vụ án để tránh cho tóc quệt vào chứng cứ, kiểu tóc này khiến gương mặt bình thường vốn xinh đẹp của cô trông nghiêm nghị và mệt mỏi. Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Geberth bước tới chỗ Rhyme, khom người xuống. Nhà hình sự trao đổi với ông ta mấy phút. Cuối cùng, Geberth gật đầu và đứng thẳng dậy. “Thưa ngài thẩm phán, tôi ý thức đưọc rằng đây là phiên tòa có liên quan đến thỏa thuận điều đình nhận tội. Nhưng tôi xin nêu một đề xuất đặc biệt. Một số bằng chứng mới đã xuất hiện...”
“Những bằng chứng mà ông có thể đưa ra tại phiên tòa xét xử, nếu thân chủ của ông quyết định khước từ thỏa thuận điều đình nhận tội”, thẩm phán nói gay gắt.
“Tôi không đề xuất việc đưa ra trước tòa bất cứ bằng chứng nào cả. Tôi chỉ muốn bang nhà biết đến bằng chứng này và thử xem liệu người đồng nghiệp đáng kính của tôi đây có đồng ý cân nhắc tới nó hay không thôi.”
“Với mục đích gì?”
“Có thể để thay đổi các tội buộc cho thân chủ tôi.” Geberth nhũn nhặn nói thêm. “Điều có thể khiến danh sách những vụ kiện chờ xét xử của ngài thẩm phán ngắn bớt lại một chút.”
Thẩm phán đảo mắt, cho thấy giọng điệu khéo léo của dân Yankee cũng có tác dụng. Tuy nhiên, ông ta vẫn liếc nhìn công tố viên và hỏi: “Thế nào?”.
Công tố viên hỏi Geberth: “Bằng chứng loại gì? Một nhân chứng mới à?”.
Rhyme không thể tự kiềm chế lâu hơn nữa. “Không”, anh nói. “Vật chứng.”
“Ông là ông Lincoln Rhyme mà tôi đã nghe nói tới?”, viên thẩm phán hỏi.
Cứ như thể có đến hai nhà hình sự học què quặt đến tiến hành công việc ở cái bang Bắc Carolina này không bằng.
“Vâng, là tôi.”
Công tố viên hỏi: “Bằng chứng đó đâu?”.
“Đang được bảo quản ở chỗ làm việc của tôi, văn phòng cảnh sát trưởng quận Paquenoke”, Lucy nói.
Thẩm phán hỏi Rhyme: “Ông sẽ đồng ý cung cấp lời khai, sau khi tuyên thệ trước tòa chứ?”
“Tất nhiên.”
“Ông có đồng ý không, luật sư?”, thẩm phán hỏi công tố viên.
“Tôi đồng ý, thưa ngài thẩm phán, nhưng nếu đây chỉ là chiến thuật hoặc bằng chứng rốt cuộc hóa ra vô nghĩa, tôi sẽ buộc ông Rhyme tội can thiệp vào phiên tòa.”
Thẩm phán suy nghĩ một lát rồi nói: “Xin lưu ý, đây không thuộc về phần xét xử. Tòa chỉ linh hoạt cho phép các bên được đưa ra lời khai trước khi xét xử. Việc kiểm tra bằng chứng sẽ được tiến hành tuân theo Quy định về Tố tụng Hình sự của bang Bắc Carolina. Hãy tuyên thệ đi”.
Rhyme đỗ xe lăn trước bàn thẩm phán. Khi viên thư ký cầm cuốn Kinh thánh ngập ngừng tiến đến, Rhyme nói: Không, tôi không nhấc bàn tay phải lên được”. Rồi anh đọc: “Tôi xin long trọng thề rằng lời khai của tôi là đúng sự thực”. Anh cố gắng tìm ánh mắt Sachs, nhưng cô đang đăm đăm nhìn xuống sàn phòng xử án trang trí theo kiểu ghép mảnh đã phai màu.
Geberth đi ra phía trước phòng xử án. “Ông Rhyme hãy khai họ tên, địa chỉ và nghề nghiệp của ông.”
“Lincoln Rhyme, ở số 345 đường Tây Công viên Trung Tâm thành phố New York. Tôi là một nhà hình sự học.”
“Nghĩa là một nhà khoa học khám nghiệm, đúng không?”
“Phần nào nhiều hơn thế, nhưng khám nghiệm là phần lớn công việc tôi làm.”
“Và quan hệ của ông đối với bị cáo Amelia Sachs?”
“Cô ấy là trợ lý và đối tác của tôi trong nhiều cuộc điều tra hình sự.”
“Và lý do ông đến Tanner’s Corner?”
“Chúng tôi hỗ trợ Cảnh sát trưởng James Bell và văn phòng cảnh sát trưởng quận Paquenoke. Điều tra vụ sát hại Billy Stail cũng như các vụ bắt cóc Lydia Johansson và Mary Beth McConnell.”
Geberth hỏi: “Bây giờ, ông Rhyme, ông nói là ông có bằng chứng mới về vụ án này?”.
“Vâng, tôi có.”
“Bằng chứng là gì?”
“Sau khi chúng tôi biết Billy Stail đã đến Bến tàu kênh Nước đen với mục đích giết Mary Beth McConnell, chúng tôi bắt đầu phỏng đoán lý do để hắn làm việc này. Và tôi đi tới kết luận rằng hắn được trả tiền. Hắn...”
“Tại sao ông nghĩ hắn được trả tiền?”
“Lý do tại sao quá rõ ràng”, Rhyme làu bàu. Anh vốn hầu như không có chút kiên nhẫn nào đối với những câu hỏi không thích hợp và Gerberth đang đi chệch khỏi kịch bản của anh.
“Hãy cho chúng tôi cùng biết, nếu có thể.”
“Billy không có bất cứ kiểu quan hệ lãng mạn nào với Mary Beth. Hắn không tham gia vào vụ sát hại gia đình nhà Garrett Hanlon. Hắn thậm chí không biết cô gái. Bởi vậy hắn không có động cơ nào để giết cô ta trừ động cơ tiền bạc.”
“Hãy tiếp tục.”
“Dù là kẻ nào thuê hắn thì kẻ ấy cũng không định trả bằng séc, tất nhiên, mà bằng tiền mặt. Cảnh sát Lucy Kerr đã tới nhà cha mẹ Billy Stail và được phép khám xét phòng hắn. Cô ấy đã phát hiện ra mười nghìn đô la giấu dưới nệm giường.”
“Chi tiết này có...”
“Tại sao ông không để tôi trình bày cho hết câu chuyện nhỉ?”, Rhyme hỏi luật sư.
Thẩm phán nói: “Đúng đấy, ông Rhyme. Tôi nghĩ là luật sư đã thực hiện đủ các bước chuẩn bị cơ bản”.
“Với sự hỗ trợ của sĩ quan Kerr, tôi tiến hành kiểm tra dấu vân tay ở mặt trên và mặt dưới các xấp tiền. Tôi tìm thấy tổng cộng sáu mươi mốt dấu vân tay dạng ẩn. Ngoài dấu vân tay của Billy, hai trong số các dấu vân tay đó tỏ ra là của một người có liên quan đến vụ án này. Cảnh sát Kerr nhận được thêm một lệnh khám xét nữa đối với nhà đối tượng ấy.”
“Ông cũng tham gia khám xét chứ?”, viên thẩm phán hỏi.
Rhyme trả lời với sự kiên nhẫn ép buộc: “Không, tôi không tham gia. Tôi không thể làm được việc ấy. Nhưng tôi chỉ đạo cuộc khám xét, còn người thực hiện là cảnh sát Kerr. Bên trong ngôi nhà, cô ấy tìm thấy hóa đơn mua một chiếc xẻng giống hệt món vũ khí giết người kia, và tám mươi ba nghìn đô la tiền mặt gói bằng thứ giấy giống hệt thứ giấy gói hai xấp tiền ở nhà Billy Stail”.
Vẫn hay gây ấn tượng mạnh như vậy, Rhyme để dành những gì kịch tính nhất cho tới phút chót. “Cảnh sát Kerr cũng tìm thấy các mảnh xương ở khu vực tổ chức tiệc thịt nướng đằng sau ngôi nhà. Các mảnh xương này phù hợp với xương gia đình nhà Garrett Hanlon.”
“Đó là nhà ai vậy?”
“Cảnh sát Jesse Corn.”
Câu trả lời này làm dậy lên tiếng rì rầm từ các dãy ghế của phòng xử án. Công tố viên vẫn không tỏ ra bối rối nhưng ngồi hơi thẳng lên, đôi giày di qua di lại trên mặt sàn lát đá, thì thầm trao đổi với mấy người đồng nghiệp. Họ cân nhắc những hàm ý của sự tiết lộ này. Dưới khu vực dự khán, cha mẹ Jesse Corn quay sang nhìn nhau, ánh mắt đầy sững sờ. Mẹ anh ta lắc đầu, bật khóc.
“Chính xác là ông đang đi tới đâu, ông Rhyme?”, viên thẩm phán hỏi.
Rhyme kiềm chế không nói với thẩm phán rằng cái đích đã quá rõ ràng. Anh trả lời: “Thưa ngài thẩm phán, Jesse Corn là một trong số những kẻ cùng Jim Bell và Steve Farr âm mưu sát hại gia đình nhà Garrett Hallon cách đây năm năm, rồi lại định giết Mary Beth McConnell hôm trước”.
Ồ, phải, chính trong lòng thị trấn này là mấy cái tổ ong bắp cày.
Thẩm phán dựa người vào lưng ghế. “Điều này không liên quan gì đến tôi. Hai vị tự giao đấu.” Ông ta hất đầu về phía Geberth, rồi về phía công tố viên. “Hai vị có năm phút, sau đó hoặc là cô ta chấp nhận thỏa thuận điều đình nhận tội hoặc là tôi sẽ cấp giấy tại ngoại hậu cứu và sắp xếp lịch xét xử.”
Công tố viên nói với Geberth: “Như thế không có nghĩa cô ta không giết chết Jesse. Thậm chí nếu Corn đã là một kẻ đồng mưu thì anh ta vẫn là nạn nhân của việc giết người”.
Lúc này, cái ông miền Bắc kia bắt buộc phải đảo mắt. “Ồ, thôi nào.” Geberth nói gay gắt, như thể công tố viên là đứa học trò chậm hiểu. “Điều có nghĩa ở đây là Corn đã hành động vượt quá quyền hạn của một nhân viên thực thi pháp luật và khi anh ta tấn công Garrett anh ta trở thành kẻ tội phạm, được trang bị vũ khí, nguy hiểm. Jim Bell đã thừa nhận rằng bọn họ dự định tra tấn thằng bé để moi lấy lời khai về nơi thằng bé đang giữ Mary Beth. Tới khi bọn họ tìm thấy cô gái rồi thì Corn sẽ ở ngay đây phối hợp với Culbeau và mấy gã kia thủ tiêu Lucy Kerr cũng như hai cảnh sát còn lại.”
Thẩm phán chậm rãi quét ánh mắt từ trái sang phải trong lúc theo dõi trận tennis vô tiền khoáng hậu này.
Công tố viên nói: “Tôi chỉ có thể tập trung vào tội phạm trong tầm tay. Việc Jesse Corn có ý đồ giết ai hay không không thành vấn đề”.
Geberth chậm rãi lắc đầu. Ông luật sư bảo thư ký tòa: “Chúng tôi tạm thời dừng cung khai. Điểm này đừng đưa chính thức vào văn bản”. Rồi ông ta bảo công tố viên: “Mục đích của vụ kiện là gì? Khi chính Corn là kẻ sát nhân”.
Rhyme cũng nói với công tố viên: “Ông đưa việc này ra xét xử và theo ông thì bồi thẩm đoàn sẽ có cảm giác ra sao khi chúng tôi chứng minh rằng nạn nhân là một cảnh sát biến chất đã lập kế hoạch tra tấn một thằng bé vô tội để tìm thấy một cô gái trẻ, rồi thủ tiêu cô?”.
Geberth tiếp tục: “Ông không muốn danh sách những kẻ bị ông bắt giữ chỉ đến đây thôi chứ? Ông đã có Bell, ông đã có em rể hắn, tay điều tra viên...”.
Trước khi công tố viên kịp phản đối lần nữa, Rhyme ngẩng nhìn ông ta, nói giọng nhẹ nhàng: “Tôi sẽ giúp đỡ ông”.
“Cái gì?”, công tố viên hỏi.
“Ông biết kẻ nào đứng đằng sau toàn bộ câu chuyện này, phải không? Ông biết kẻ nào giết hại nửa số cư dân của Tanner’s Corner chứ?”
“Henry Davett”, công tố viên đáp. “Tôi đã đọc hồ sơ và các lời khai.”
Rhyme hỏi: “Và việc khởi tố ông ta thì như thế nào?”.
“Không dễ dàng. Không có bằng chứng gì. Không có gì để kết nối ông ta với Bell hay với bất cứ ai ở thị trấn. Ông ta sử dụng trung gian và tất cả đều đang gây cản trở hoặc nằm ngoài quyền hạn xét xử của chúng tôi.”
“Nhưng...”, Rhyme nói, “Ông muốn tóm được ông ta - trước khi có thêm những người chết vì ung thư chứ? Trước khi có thêm những đứa trẻ bị ốm rồi tự tử? Trước khi có thêm những đứa trẻ chào đời mang dị tật bẩm sinh?”.
“Tất nhiên là tôi muốn.”
“Thế thì ông cần tôi. Ông sẽ không tìm thấy ở bất cứ đâu trong bang này một nhà hình sự học có thể hạ gục Davett. Tôi có thể.” Rhyme liếc nhìn Sachs. Anh có thể trông thấy những giọt lệ trong mắt cô. Anh biết ý nghĩ duy nhất trong đầu óc cô lúc này là, dù cô có phải ngồi tù hay không, thì cô cũng đã không giết chết một người vô tội.
Công tố viên thở dài thườn thượt. Rồi ông ta gật đầu. Vội vã, y như thể sợ mình sẽ có thể thay đổi ý kiến, ông ta nói: “Đồng ý thương lượng”. Ông ta nhìn về phía chủ tọa. “Thưa ngài thẩm phán, trong vụ Người Dân bang Bắc Carolina đòi khởi tố Amelia Sachs, bang xin rút tất cả các lời buộc tội.”
“Tòa chấp thuận”, vị thẩm phán đã ngán ngẩm tuyên bố.
“Bị cáo được tự do. Vụ tiếp theo.” Ông ta thậm chí chẳng buồn gõ búa.
16.06.2015
PHẦN 5: THỊ TRẤN VẮNG BÓNG TRẺ
CHƯƠNG 45
Dịch giả: Đinh Minh Hương
Nguồn: NXB Văn học
Nội dung thu gọn
"Anh không biết liệu em có đến hay không”, Lincoln Rhymenói.
Thực tế là anh ngạc nhiên.
“Lúc trước em cũng không chắc chắn mình có đến hay không”, Sachs đáp.
Họ đang ở trong căn phòng bệnh viện của trung tâm y khoa ở Avery.
Rhyme nói: “Anh vừa quay lại đây sau khi lên thăm Thom trên tầng năm. Việc đó khá kỳ cục - anh lại di chuyển được hơn cậu ấy”.
“Anh ấy thế nào?”
“Cậu ấy sẽ khỏe. Một hoặc hai ngày nữa cậu ấy sẽ ra viện. Anh bảo cậu ấy rằng cậu ấy sắp sửa nhìn nhận các phương pháp vật lý trị liệu dưới một góc độ khác. Cậu ấy không hề cười.”
Người phụ nữ Guatemala dịu dàng - nhân viên điều dưỡng tạm thời cho Rhyme - ngồi trong góc phòng, đan một chiếc khănchoàng màu vàng và đỏ. Chị ta dường như sẽ vượt qua được những cơn tức tối của Rhyme, tuy anh đinh ninh đó là vì chị takhông thông thạo tiếng Anh đủ để hiểu hết những lúc bị anh mỉa mai và xúc phạm.
“Em biết đấy, Sachs”, Rhyme nói. “Khi anh biết tin em cướpGarrett ra khỏi khu tạm giam, anh đã phân vân rằng em làm vậycốt để anh có cơ hội suy nghĩ lại về việc phẫu thuật.”
Đôi môi đẹp như của Julia Roberts nở một nụ cười. “Có thể là có phần nào như thế.”
“Vậy bây giờ em đến đây để thuyết phục anh hoãn phẫu thuật?”
Sachs đứng dậy khỏi chiếc ghế dựa và bước tới chỗ cửa sổ. “Khung cảnh đẹp thật.”
“Thanh bình, phải không? Vòi phun nước và khu vườn. Cây cối. Anh không biết là loài nào với loài nào.”
“Lucy có thể nói cho anh nghe. Cô ấy am hiểu về cây cối cũng giống như Garrett am hiểu về lũ bọ. Xin lỗi, côn trùng. Bọ chỉ là một loại côn trùng... Không, Rhyme, em đến đây không phải để thuyết phục anh hoãn phẫu thuật. Em đến đây để ở bên cạnh anh, để có mặt trong phòng hồi sức khi anh tỉnh dậy.”
“Con tim thay đổi à?”
Sachs quay sang Rhyme. “Khi Garrett và em đang bỏ chạy, cậu ta đã nói với em về một điều cậu ta đọc được từ cuốn sách đó. Cuốn Thế giới thu nhỏ.” Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
“Anh có sự tôn trọng mới mẻ đối với lũ bọ hung sau khi đọc cuốn sách đó.”
“Cậu ta đã chỉ cho em xem một đoạn. Đó là đoạn liệt kê các đặcđiểm của sinh vật. Một trong số các đặc điểm ấy là những sinh vật lành mạnh luôn luôn nỗ lực để phát triển và thích nghi với môi trường xung quanh. Em nhận ra đó là việc anh phải làm, Rhyme - tiến hành cuộc phẫu thuật này. Em không thể can thiệp.”
Lát sau, anh nói: “Anh biết nó sẽ không giết chết anh đâu, Sachs ạ. Nhưng bản chất công việc chúng ta làm là gì? Đó là nhữngchiến thắng bé nhỏ. Chúng ta tìm thấy một cái sợi ở chỗ này, một phần của dấu vân tay dạng ẩn ở chỗ kia, vài hạt cát có thể dẫn đến nhà một tên sát nhân. Đó là tất cả những gì anh theo đuổi ở đây - một sự cải thiện bé nhỏ. Anh sẽ không trèo ra khỏi chiếc xe lăn này được, anh biết điều ấy. Nhưng anh cần một chiến thắng bé nhỏ”. Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Có thể là cơ hội được thực sự nắm bàn tay em.
Sachs cúi xuống, hôn Rhyme nồng nhiệt rồi cô ngồi lên giường.
“Vẻ mặt ấy là thế nào, Sachs? Em trông hơi bẽn lẽn.”
“Về cái đoạn trong cuốn sách của Garrett à?”
“Phải.”
“Có một đặc điểm nữa của sinh vật mà em đã muốn nhắc tới.”
“Đặc điểm gì?”, Rhyme hỏi.
“Tất cả các loài sinh vật đều nỗ lực để duy trì nòi giống.”
Rhyme làu bàu: “Phải chăng anh cảm nhận được một thỏathuận điều đình ở đây? Một kiểu thương lượng?”.
Sachs trả lời: “Có thể chúng ta sẽ có một số chuyện để nói khichúng ta quay lại New York”.
Một y tá xuất hiện trên ngưỡng cửa. “Tôi phải đưa ông sang phòng tiền phẫu, ông Rhyme. Ông đã sẵn sàng lên xe chưa?”
“Ồ, chắc chắn là tôi đã sẵn sàng...” Rhyme quay lại với Sachs. “Tất nhiên, chúng ta sẽ nói chuyện.”
Cô hôn anh lần nữa và siết chặt bàn tay trái của anh, nơi anh có thể, dù chỉ mơ hồ, cảm thấy được áp lực ở ngón đeo nhẫn.
Hai người phụ nữ ngồi sát bên cạnh nhau trong luồng ánh nắng đặc quánh.
Hai cái cốc giấy đựng thứ cà phê chả ra gì do máy bán hàng tự động pha đặt trước mặt họ, trên chiếc bàn màu da cam đầy các vết cháy màu nâu có từ thuở người ta còn được phép hút thuốc trong bệnh viện.
Amelia Sachs liếc nhìn Lucy Kerr đang ngồi vươn người về phía trước, hai bàn tay chắp lại với nhau, vẻ ơ thờ.
“Có chuyện gì thế?”, Sachs hỏi Lucy. “Chị không sao chứ?”
Người nữ cảnh sát lưỡng lự, rồi rốt cuộc nói: “Khoa ung bướu ở chái nhà tiếp theo đằng kia. Tôi đã điều trị hàng tháng trời tại đó. Trước và sau khi phẫu thuật”. Lucy lắc đầu. “Tôi chưa bao giờ kể cho ai nghe chuyện này, nhưng vào ngày lễ Tạ ơn sau khi Buddyrời bỏ tôi, tôi đã đến đây. Đến thăm thôi. Uống cà phê và ăn bánhsandwich nhân cá ngừ với các y tá. Như thế có kỳ cục không? Tôi có thể đến thăm cha mẹ và đám anh chị em họ ở Raleigh, ăn gà tây và thịt nhồi. Hoặc đến thăm vợ chồng chị gái tôi ở Martinsville - cha mẹ của Ben ấy. Nhưng tôi lại muốn đến đây, nơi tôi cảm thấy như nhà mình. Điều mà tôi chắc chắn không cảm thấy khi ở trong chính ngôi nhà của tôi.”
Sachs nói: “Thời gian cha tôi sắp sửa qua đời, mẹ tôi và tôi trải qua ba kỳ lễ trong bệnh viện. Lễ Tạ ơn, lễ Giáng sinh và lễ mừng Năm mới. Cha tôi đã nói đùa. Ông nói chúng tôi phải đặt chỗ sớm cho lễ Phục sinh. Tuy nhiên, ông đã không sống được đến lúc ấy”.
“Mẹ cô vẫn còn chứ?”
“Ồ, vâng. Bà đi lại dễ dàng hơn tôi. Tôi thừa hưởng từ cha tôi chứng viêm khớp. Chắc chắn là thế.” Sachs suýt nói đùa rằng đó là lý do tại sao cô bắn súng cừ như vậy - để cô khỏi phải chạy đuổi theo các đối tượng. Nhưng rồi cô nghĩ tới Jesse Corn, thoáng hiện lại cái chấm tròn do viên đạn xuyên trên trán anh ta, và cô im lặng.
Lucy bảo: “Cô biết là anh ấy sẽ không sao đâu. Lincoln ấy mà”.
“Không, tôi không biết”, Sachs đáp.
“Tôi có linh cảm. Khi cô đã trải nghiệm nhiều như tôi - ý tôi là sự trải nghiệm trong bệnh viện - cô sẽ có linh cảm.”
“Tôi hiểu”, Sachs nói.
“Cô nghĩ sẽ mất bao lâu?”, Lucy hỏi.
Mãi mãi...
“Bốn tiếng đồng hồ, Tiến sĩ Weaver bảo vậy.”
Họ có thể nghe thấy từ đằng xa đoạn đối thoại xủng xoảng, gượng ép trong một bộ phim truyền hình. Văng vẳng có tiếng loa gọi một bác sĩ. Có tiếng chuông chùm. Tiếng cười.
Ai đó vội vã bước tới, rồi dừng lại.
“Chào hai chị.”
“Lydia”, Lucy mỉm cười nói. “Cô thế nào?”
Lydia Johansson. Sachs không nhận ra cô ta ngay vì cô ta mặc áo choàng và đội mũ trùm mầu xanh lá cây. Cô nhớ ra cô gái là y tá ở đây.
“Cô nghe nói chưa?”, Lucy hỏi. “Về việc Jim và Steve bị bắt ấy? Ai mà ngờ được?”
“Cả triệu năm cũng không ngờ được”, Lydia đáp. “Người ta đang bàn tán khắp thị trấn.” Rồi cô y tá hỏi Lucy: “Chị có hẹn kiểm tra lại à?”.
“Không. Hôm nay Rhyme sẽ lên bàn mổ. Xương sống. Chúng tôi là hai đội trưởng hoạt náo viên của ông ấy.”
“Chà, tôi chúc ông ấy mọi sự tốt lành”, Lydia bảo Sachs. “‘Cảm ơn cô.”
Cô gái to béo tiếp tục đi xuôi theo hành lang, vẫy tay chào rồiđẩy một cánh cửa.
“Một cô gái thật dịu dàng”, Sachs nói.
“Cô tưởng tượng được công việc đó không, làm y tá ở khoa ungbướu ấy? Khi tôi tiến hành phẫu thuật ngày nào cô gái cũng trực tại phòng bệnh. Vui vẻ hết mức có thể. Dũng cảm hơn cả tôi.”
Nhưng Lydia khác xa với suy nghĩ của Sachs. Cô ta nhìn đồng hồ treo tường. Mười một giờ sáng. Cuộc phẫu thuật sẽ được tiến hành bất cứ lúc nào kể từ lúc này.
Anh cố gắng cư xử tốt.
Y tá phòng tiền phẫu đang giải thích các thứ cho anh và LincolnRhyme gật đầu, nhưng họ đã tiêm vào người anh một mũi valiumvà anh chẳng còn tập trung chú ý nữa.
Anh muốn bảo người phụ nữ hãy yên lặng và cứ tiến hành công việc đi, nhưng anh nghĩ người ta nên cực kỳ giữ lễ độ đối với những người sắp sửa mổ banh cổ mình.
“Thế ư?”, Rhyme nói khi cô ta dừng lại. “Thú vị nhỉ.” Tuy nhiên, anh không hề xác định được cô ta vừa bảo anh điều gì.
Rồi một hộ lý tới và đẩy xe đưa Rhyme từ phòng tiền phẫu sang chính phòng mổ. Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Hai y tá chuyển anh từ xe đẩy sang bàn mổ. Một người đi về phía đầu đằng kia căn phòng và bắt đầu lấy các dụng cụ ra khỏi nồi hấp tiệt trùng.
Phòng mổ trông bình thường hơn Rhyme tưởng. Gạch ốp màu xanh lá cây quá quen thuộc, các thiết bị bằng thép không gỉ, các dụng cụ, ống nghiệm. Nhưng cũng có rất nhiều hộp bìa các tông. Và một cái đài. Anh định hỏi họ sẽ mở loại nhạc gì, tuy nhiên anh nhớ ra rằng anh sẽ được gây mê và không quan tâm đến chuyện nhạc nhẽo nữa.
“Khá là buồn cười”, Rhyme lơ mơ lẩm bẩm với một y tá đang đứng bên cạnh anh. Cô ta quay lại. Anh chỉ có thể trông thấy được đôi mắt cô ta phía bên trên khẩu trang.
“Gì cơ?”, cô ta hỏi.
“Họ sẽ mổ ở cái chỗ tôi cần được gây mê. Nếu tôi phải mổ ruột thừa thì họ có thể mổ mà không cần gây tê gì cả.”
“Điều đó khá là buồn cười, ông Rhyme.”
Anh bật tiếng cười ngắn ngủi, nghĩ: Như thế có nghĩa cô ta biết mình.
Rhyme đăm đăm nhìn lên trần nhà trong tâm trạng suy tư, mơ hồ. Lincoln Rhyme vốn vẫn chia người ta ra thành hai loại: loại đến và loại đi. Có những người thích thú chuyến đi hơn là khi đãđến đích. Anh, về bản chất, thuộc loại người đến - tìm thấy câu trả lời cho các câu hỏi khám nghiệm là mục tiêu của anh và anh thích thú việc đạt tới giải pháp hơn là quá trình tìm kiếm nó. Tuy nhiên, bây giờ, nằm ngửa đăm đăm nhìn lên chùm đèn mổ mạ crôm sáng loáng, anh cảm thấy hoàn toàn ngược lại. Anh thích được tồn tạitrong cái trạng thái hy vọng này hơn - tận hưởng cảm giác chờ đợi đầy hồi hộp.
Người bác sĩ gây mê, một phụ nữ Ấn Độ, đi vào và chọc kim tiêm vào cánh tay Rhyme, chuẩn bị thuốc, đổ nó vào cái ống nối với kim tiêm. Chị ta có đôi bàn tay rất khéo léo.
“Ông sẵn sàng ngủ một giấc chưa?”, chị ta hỏi với giọng nhẹ nhàng, trầm bổng.
“Sẵn sàng lắm rồi”, Rhyme lẩm bẩm.
“Khi tôi tiêm mũi thuốc này tôi sẽ yêu cầu ông đếm ngược lại từ một trăm. Ông sẽ thiếp đi lúc nào không biết.”
“Kỷ lục là bao nhiêu?”, Rhyme hỏi đùa.
“Việc đếm ngược ấy à? Có một ông, to béo hơn ông nhiều, đếm được tới bảy mươi chín.”
“Tôi sẽ cố gắng đếm tới bảy mươi chín.”
“Nếu ông làm được điều đó phòng mổ này sẽ mang tên ông”, chị ta tỉnh bơ đáp.
Rhyme quan sát chị ta bơm một ống truyền chất lỏng trongsuốt. Chị ta quay đi nhìn màn hình kiểm tra. Rhyme bắt đầu đếm: “Một trăm, chín mươi chín, chín mươi tám, chín mươi bảy...”.
Cô y tá kia, cái cô đã gọi anh bằng tên, khom người xuống. Cô ta nói thấp giọng: “Xin chào”.
Giọng điệu nghe khác thường.
Rhyme liếc nhìn cô ta.
Cô ta tiếp tục: “Tôi là Lydia Johansson. Nhớ tôi chứ?”. Trước khi Rhyme kịp nói rằng tất nhiên anh nhớ, cô ta đã nói thêm bằng giọng thì thào đầy đen tối: “Jim Bell nhờ tôi chuyển lời vĩnh biệt ông”.
“Không!”, Rhyme lẩm bẩm.
Người bác sĩ gây mê, vừa nhìn màn hình kiểm tra vừa nói: “Được rồi. Cứ thư giãn nhé. Mọi chuyện sẽ tốt đẹp”.
Ghé sát miệng vào tai Rhyme, Lydia thì thầm: “Ông không thắc mắc tại sao Jim và Steve Farr lại biết được những người nào đã mắc chứng ung thư à?”.
“Không! Dừng lại!”
“Tôi cung cấp cho Jim tên của họ, để Culbeau có thể đảm bảo rằng họ sẽ gặp tai nạn này khác. Jim Bell là bạn trai của tôi. Chúng tôi quan hệ với nhau nhiều năm nay rồi. Anh ấy là người sai tôi tới Bến tàu kênh Nước đen sau khi Mary Beth bị bắt cóc. Buổi sáng hôm đó tôi tới đặt hoa và loanh quanh canh chừng xem liệuGarrett có ló mặt không. Tôi sẽ nói chuyện với hắn để Jesse và Ed Schaeffer có cơ hội tóm hắn - Ed cũng trong hội chúng tôi. Rồi họ sẽ ép hắn khai nơi Mary Beth đang ở. Nhưng chẳng ai ngờ hắn lạibắt cóc tôi.”
Ồ, phải, chính trong lòng thị trấn này là mấy cái tổ ong bắp cày.
“Dừng lại!”, Rhyme kêu lên. Nhưng giọng anh chỉ còn là lẩm bẩm.
Người bác sĩ gây mê nói: “Đã được mười lăm giây. Có thể rốt cuộc ông sẽ phá vỡ kỷ lục. Ông đang đếm đấy chứ? Tôi khôngnghe thấy tiếng ông đếm”.
“Tôi sẽ ở ngay đây”, Lydia vuốt ve trán Rhyme, bảo. “Ông biết đấy, rất nhiều thứ có thể trục trặc trong lúc tiến hành phẫu thuật. Ống truyền oxy bị xoắn, thuốc bị nhầm liều. Ai mà biết được? Chúng có thể giết chết ông, có thể đẩy ông rơi vào hôn mê. Nhưng chắc chắn ông sẽ không thể ra cung cấp lời chứng được.”
“Khoan”, Rhyme hổn hển. “Khoan!”
“Ha.” Bác sĩ gây mê vừa nói vừa cười to, ánh mắt vẫn chăm chú vào màn hình kiểm tra. “Hai mươi giây. Tôi cho rằng ông sẽ thắng cuộc đấy, ông Rhyme.”
“Không, tôi không cho rằng ông sẽ thắng cuộc đâu.” Lydia thì thào và từ từ đứng dậy trong lúc Rhyme trông thấy căn phòng chỉ còn là một màu xám, rồi chỉ còn là một màu đen ngòm.
16.06.2015
PHẦN 5: THỊ TRẤN VẮNG BÓNG TRẺ
CHƯƠNG 46
Dịch giả: Đinh Minh Hương
Nguồn: NXB Văn học
Nội dung thu gọn
Đây thực sự là một trong những chốn đẹp nhất trên thế giới này, Amelia Sachs tự nhủ. Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Một trong những chốn đẹp nhất để làm nghĩa trang.
Công viên Tưởng niệm Tanner’s Corner, nằm trên đỉnh những quả đồi nhấp nhô, nhìn xuống sông Paquenoke cách mấy dặm ở phía dưới. Thậm chí vào hẳn bên trong còn thấy nó đẹp hơn là nhìn từ ngoài đường, như lần đầu tiên Sachs nhìn khi ngồi trên xe từ Avery tới.
Nheo mắt vì nắng, cô nhận ra cái dải nước lấp lánh của con kênh đào Nước đen nhập vào dòng sông. Nhìn từ đây, thậm chí dải nước đen thẫm, ô nhiễm, từng mang biết bao đau khổ đến cho biết bao nhiêu người, trông cũng hiền lành, duyên dáng.
Sachs đứng cùng một nhóm nhỏ bên trên một miệng huyệt. Bình tro đang được một nhân viên nhà xác hạ xuống. AmeliaSachs đứng cạnh Lucy Kerr. Garrett Hanlon đứng gần họ. Phía bên kia miệng huyệt là Mason Germain đứng cùng anh chàng Thom chống gậy, mặc sơ mi và chiếc quần miễn chê. Anh chàng đeo nơ bướm đỏ rực rỡ, nhìn có vẻ phù hợp mặc dù là trong cái thời điểm nghiêm trang này.
Fred Dellray diện bộ com lê đen cũng có mặt, đứng tách ra một mình, trầm tư - như thể đang nhớ lại một đoạn từ một trongnhững cuốn sách triết học anh ta vốn vẫn ưa đọc. Trông anh ta sẽ giống một đức cha của tổ chức Dân tộc Hồi giáo nếu anh ta mặc sơ mi trắng thay cho sơ mi màu vỏ chanh với các chấm tròn to tướng màu vàng.
Không có mục sư làm lễ, tuy đây là vùng quê mộ đạo và nếu định gọi mục sư đến phục vụ đám tang thì gọi được cả tá. Ông giám đốc nhà xác lúc này liếc nhìn nhóm người đang tập trung tại đây, hỏi xem có ai muốn phát biểu điều gì không. Và khi tất cả đềuđưa mắt sang xung quanh tìm kiếm kẻ tình nguyện thì Garrettthọc tay vào túi chiếc quần rộng thùng thình lôi ra cuốn sách đã nhàu nát, cuốn Thế giới thu nhỏ.
Bằng giọng ngập ngừng, cậu thiếu niên đọc: “Có những người cho rằng không tồn tại một sức mạnh siêu phàm, nhưng nỗi hoài nghi của người ta thực sự bị thử thách khi người ta nhìn vào thế giới côn trùng, cái thế giới được vinh dự vì sở hữu biết bao nhiêu đặc điểm đáng kinh ngạc: những đôi cánh mỏng tới mức dường như khó có thể được hình thành từ bất cứ vật liệu sống nào, những cơ thể không có lấy một miligam trọng lượng thừa, những bộ dò tốc độ gió chính xác đến từng dặm một giờ, dáng đi hiệu quả tới mức các kỹ sư cơ khí đã bắt chước để chế tạo rô bốt và quan trọng hơn hết, là khả năng tồn tại đáng kinh ngạc của côn trùng trước sự chống lại ghê gớm của loài người, các loài săn mồi và điều kiện thời tiết. Trong những khoảnh khắc tuyệt vọng, chúng ta có thể trông đợi vào sự thông minh và tính kiên trì của những sinh vật kỳ diệu này, tìm thấy nguồn an ủi và khôi phục lại niềm tin bị đánh mất”.
Garrett ngẩng lên, gập cuốn sách lại, bối rối búng móng tay. Cậu ta nhìn Sachs và hỏi: “Cô, nói chung, muốn nói điều gì không ạ?”.
Nhưng cô chỉ lắc đầu. Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Không ai khác phát biểu và vài phút sau mọi người rời khỏi ngôi mộ, tha thẩn đi ngược lên quả đồi theo một lối mòn quanh co. Trước khi họ leo lên được đến đỉnh đồi có con đường dẫn tới khu vực picnic nhỏ, đội công nhân nghĩa trang đã bắt đầu dùng máy xúc lấp ngôi mộ. Sachs thở nặng nhọc trong lúc họ leo lên đỉnh đồi rợp bóng cây gần bãi đỗ xe.
Cô nhớ lại câu nói của Lincoln Rhyme:
Đâu phải một nghĩa trang xấu xí. Mình không ngại nếu được chôn cất tại một nơi như thế này.
Sachs dừng bước lau mồ hôi chảy trên mặt và lấy lại hơi thở. Cái nóng của Bắc Carolina sẽ vẫn tiếp tục gay gắt. Tuy nhiên,Garrett xem chừng không để ý gì đến nhiệt độ. Cậu ta chạy vượt qua cô và bắt đầu lôi các túi thực phẩm từ đằng sau chiếc Broncocủa Lucy ra.
Đây không hẳn là thời gian hay địa điểm cho một cuộc picnicnhưng, Sachs nghĩ, để tưởng nhớ những người đã khuất, theo một cách nào đó, thì món gà trộn và dưa hấu cũng tốt y như bất cứ cái gì khác.
Cả rượu Scotch nữa, tất nhiên. Sachs thọc tay vào mấy chiếc túi mua hàng và rốt cuộc tìm thấy chai Macallan mười tám năm. Cô rút cái nút li-e ra với một tiếng bốp khe khẽ.
“A, âm thanh yêu thích của tôi”, Lincoln Rhyme nói.
Anh đang đến bên cạnh Sachs, cẩn thận lái chiếc xe lăn trên nền cỏ không bằng phẳng. Sườn đồi dẫn xuống chỗ ngôi mộ kia quádốc đối với chiếc Storm Arrow, nên anh phải đợi tại bãi đỗ xe trên này. Từ đỉnh đồi, anh đã quan sát mọi người chôn cất bình tro hỏa táng chỗ xương Mary Beth phát hiện được ở Bến tàu kênh Nước đen - hài cốt của gia đình nhà Garrett.
Sachs rót rượu Scotch vào cốc Rhyme, cắm cho anh một ống hút dài. Cô cũng rót cho mình một ít rượu. Những người khác đều uống bia.
Rhyme nói: “Món ‘trăng sáng’ thật chẳng ra thể thống gì cả,Sachs ạ. Bằng mọi giá hãy tránh xa nó. Thứ này ngon hơn nhiều. Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Sachs nhìn xung quanh: “Cái chị người của bệnh viện đâu nhỉ?Chị nhân viên điều dưỡng ấy?”.
“Chị Ruiz ấy à?”, Rhyme lẩm bẩm, “Vô vọng rồi. Chị ta bỏ việc rồi. Để lại anh bơ vơ.”
“Bỏ việc ấy à?”, Thom nói. “Có mà anh khiến chị ta phát điên. Chị ta hẳn đã bị anh sa thải.”
“Tôi từng là một ông thánh đấy”, nhà hình sự học quát.
“Nhiệt độ của anh thế nào?”. Thom hỏi.
“Tốt”, Rhyme làu bàu. “Của cậu thì sao?”
“Có lẽ hơi cao một chút nhưng tôi không có vấn đề về huyết áp.”
“Không có, nhưng cậu có một cái lỗ đạn trong người.”
Anh chàng phụ tá khăng khăng: “Anh nên…”
“Tôi đã bảo tôi ổn.”
“... lui vào bóng râm hơn một chút.”
Rhyme càu nhàu phàn nàn chuyện mặt đất không bằng phẳng nhưng anh cuối cùng cũng điều khiển cho xe lui vào bóng râm hơn.
Garrett cẩn thận bày đồ ăn, đồ uống và khăn giấy lên chiếc bàn dài dưới gốc cây.
“Anh thế nào?”, Sachs thì thào hỏi Rhyme, “Và trước khi anh lại làu bàu với cả em nữa, em sẽ không nói chuyện nóng nực gì đâu.”
Anh nhún vai - cử chỉ này, một lời làu bàu câm lặng, ý muốnnói: tôi ổn.
Nhưng thực tế thì anh không ổn. Một thiết bị kích thích dây thần kinh hoành bằng dòng điện giúp phổi anh hoạt động. Anhghét cái thiết bị này - anh đã dần dần thôi phải phụ thuộc vào nó từ vài năm trước - nhưng bây giờ rõ ràng là anh cần đến nó. Cách đây hai ngày, trên bàn mổ, Lydia Johansson suýt khiến anh ngừng thở vĩnh viễn.
Trong phòng chờ của bệnh viện, sau khi Lydia chào tạm biệt Sachs và Lucy, Sachs để ý thấy cô y tá biến mất qua ô cửa có biển đề KHOA GIẢI PHẪU THẦN KINH. Sachs đã hỏi: “Chị bảo cô ấy làm việc tại khoa ung bướu, đúng không nhỉ?”.
“Đúng.”
“Thế thì cô ấy đang làm gì đằng kia?”
“Có thể là ghé qua chào Lincoln”, Lucy phỏng đoán.
Nhưng Sachs không cho rằng y tá lại đến thăm xã giao bệnhnhân chuẩn bị được phẫu thuật.
Rồi cô nghĩ: Lydia vốn vẫn có cơ hội biết về các chẩn đoán ung thư đối với những người từ Tanner’s Corner đến khám bệnh. Tiếp theo, cô lại nhớ ra là một kẻ nào đó đã cung cấp thông tin về các bệnh nhân ung thư cho Bell - ba người ở Bến tàu kênh Nước đen bị Culbeau và đồng bọn giết chết. Còn ai hữu ích hơn một y tá làm việc tại khoa ung bướu chứ? Điều này khó có thể tin nổi, nhưng Sachs vẫn nói với Lucy và người nữ cảnh sát rút điện thoại di động ra thực hiện cuộc gọi khẩn cấp tới hãng điện thoại. Bộ phận an ninh của họ đã khôi phục lại tỉ mỉ các cuộc gọi của Jim Bell. Có hàng trăm cuộc gọi tới máy Lydia và từ máy cô ta tới.
“Cô ta định giết chết anh ấy!”, Sachs kêu lên. Và hai người phụ nữ, một đã rút súng ra, chạy ào vào phòng mổ - chẳng khác nàomột cảnh trong bộ phim truyền hình đầy kịch tính ER<41> - đúng lúc Tiến sĩ Weaver chuẩn bị đưa dao rạch.
Lydia hốt hoảng và, trong lúc cố gắng chạy trốn, hoặc cố gắng thực hiện việc Bell yêu cầu, đã giật ống dẫn oxy ra khỏi cổ họngRhyme trước khi hai người phụ nữ kịp khuất phục được cô ta. Vì chấn động này và vì ảnh hưởng của quá trình gây mê, Rhymengừng thở. Nhờ Tiến sĩ Weaver, anh tỉnh lại nhưng, sau đó, anh thở kém hơn bình thường nên phải quay lại với thiết bị xung điện.
Thế đã đủ tồi tệ. Tuy nhiên, điều tồi tệ hơn là, trước sự giận dữ và ghê tởm của Rhyme, Tiến sĩ Weaver từ chối tiến hành phẫu thuật cho anh trong vòng ít nhất sáu tháng nữa - chừng nào mà chức năng thở của anh chưa hoàn toàn bình thường. Anh cố gắng năn nỉ, nhưng người bác sĩ phẫu thuật tỏ ra bướng bỉnh chẳng kém gì anh.
Sachs nhấp thêm một ngụm rượu Scotch.
“Em nói với Roland Bell chuyện ông em họ anh ấy rồi à?”.Rhyme hỏi.
Sachs gật đầu. “Anh ấy nhận tin tức này một cách khó khăn. Anh ấy bảo Jim vốn vẫn là con chiên ghẻ, nhưng anh ấy chưa bao giờ nghĩ hắn lại làm những việc như thế. Anh ấy khá choáng váng.” Cô nhìn về phía đông bắc. “Nhìn kìa”, cô nói. “Đằng kia kìa. Anh biết cái gì không?”
Cố gắng nhìn theo ánh mắt Sachs, Rhyme hỏi: “Em đang nhìn cái gì? Đường chân trời à? Hay một đám mây? Hay một chiếc máy bay? Khai sáng cho anh đi, Sachs”.
“Đầm lầy Sầu Thảm. Hồ Drummond ở đó.”
“Hấp dẫn nhỉ”, Rhyme mỉa mai.
“Cái hồ đầy ma”, Sachs nói thêm, giống một hướng dẫn viên du lịch.
Lucy bước tới, rót một ít rượu Scotch vào cốc giấy. Cô nhấm nháp, rồi nhăn mặt. “Kinh khủng. Y như vị xà phòng.” Cô mở chai Heineken.
Rhyme nói: “Mỗi chai giá tám mươi đô la đấy”.
“Thế thì đắt hơn xà phòng.”
Sachs quan sát Garrett lùa một vốc ngô chiên vào mồm rồi chạy ra bãi cỏ. Cô hỏi Lucy: “Quận có ý kiến gì chưa?”.
“Về việc làm mẹ nuôi thằng bé ấy à?”, Lucy hỏi. Rồi cô lắc đầu. “Không được chấp thuận. Chuyện sống đơn thân chẳng thành vấn đề. Vấn đề là nghề nghiệp của tôi. Cảnh sát. Ít thời gian ở nhà.”
“Họ thì biết cái gì?”, Rhyme cau có.
“Họ biết cái gì không quan trọng”, Lucy nói. “Quan trọng là họlàm gì. Garrett sẽ được ở với một gia đình trên Hobeth. Những con người tốt bụng. Tôi đã kiểm tra khá cẩn thận rồi.”
Việc đó thì Sachs chẳng nghi ngờ gì.
“Nhưng cuối tuần tới chúng tôi sẽ đi bộ việt dã.”
Gần đó, Garrett đang khe khẽ rẽ cỏ, rón rén đến gần một mẫu vật.
Khi Sachs quay lại, cô nhận ra Rhyme đã quan sát cách cô đăm đăm nhìn thằng bé.
“Gì thế?”, cô hỏi, chau mày trước vẻ ngại ngần của anh.
“Nếu có thể nói điều gì đó với một chiếc ghế trống, em sẽ nói điều gì, Sachs?”
Cô lưỡng lự giây lát. “Em nghĩ hiện tại thì em sẽ giữ điều đócho riêng mình, Rhyme.”
Bỗng nhiên, Garrett cười to và bắt đầu rẽ cỏ chạy. Cậu ta đuổi theo một con côn trùng, mà cậu ta trông thấy rất rõ, qua khoảngkhông bụi mù mịt. Cậu thiếu niên đuổi kịp, vươn tay tóm lấy conmồi, rồi lăn sõng soài ra đất. Lát sau, cậu ta đứng dậy, vừa chămchú nhìn vào hai lòng bàn tay khum khum vừa chậm rãi bước trở về chỗ bàn picnic.
“Đố biết cháu tìm thấy con gì này”, Garrett hét toáng.
“Đến cho bọn cô xem thử nào”, Amelia Sachs nói. “Cô muốnxem.”
Chú Thích:
<41> ER (viết tắt của Emergency Room): Phòng cấp cứu, tên một bộ phim truyền hình chiếu trên kênh NBC từ 1994 - 2009.