PHẦN 1: PHÍA BẮC SÔNG PAQUO
CHƯƠNG 11
Dịch giả: Đinh Minh Hương
Nguồn: NXB Văn học
Nội dung thu gọn
Họ theo lối mòn đi xuyên qua khu rừng, xung quanh toàn mùi dầu thông và hương thơm ngọt của một trong những thứ cây cỏ mà họ quệt phải. Lucy Kerr nhận ra đó là hương thơm của một loại dây nho.
Mắt chăm chú soi lối mòn trải trước mặt, trông chừng dây bẫy, cô bỗng dưng để ý rằng đã một lúc lâu rồi họ chẳng có nhìn thấy bất cứ dấu chân nào của Garrett và Lydia. Cô đập lên cổ, tưởng đó là một con bọ đang bò, nhưng hóa ra đó là một dòng mồ hôi đang chảy xuống gây cảm giác nhột nhột. Hôm nay, Lucy thấy thật bẩn thỉu. Những lúc khác – buổi tối hoặc ngày nghỉ - cô mê được ở ngoài trời, trong vườn nhà mình. Cứ về đến nhà sau ca làm việc tại Văn phòng Cảnh sát trưởng, cô lại mặc chiếc quần soóc kẻ ca rô đã bạc và áo phông, xỏ đôi giày chạy màu xanh lính thủy, ra chăm bẵm một trong ba mảnh vườn vây xung quanh ngôi nhà kiểu thuộc địa quét vôi màu xanh lá cây nhạt mà Bud hăm hở ký chia cho cô khi làm thủ tục ly dị, với tâm trạng của kẻ có lỗi. Lucy săn sóc các luống hoa tím cựa dài, lan nữ hài màu vàng tươi, địa lan, loa kèn màu da cam. Cô xới đất, bắc cho cây leo lên giàn mắt cáo, tưới nước và thì thầm động viên y như cô đang nói với những đứa con mà cô từng chắc chắn rằng cô và Buddy sẽ có cùng nhau một ngày nào đấy.
Thi thoảng, nhiệm vụ đưa cô vào vùng nội địa của Carolina, thức hiện một lệnh bắt hoặc điều tra xem tại sao chiếc Honda hay Toyota được giấu trong ga ra của một người nào đó tình cờ lại thuộc quyền sở hữu của một người khác, Lucy để ý thấy một cái cây non và khi đã giải quyết xong công việc, cô sẽ đánh nó đưa về nhà như đưa về một đứa trẻ bị bỏ rơi vậy. Theo cách này, cô đã đưa về một khóm ngọc trúc. Cả một khóm phục linh. Và bụi trinh nữ dễ thương dưới bàn tay săn sóc của cô đã cao sáu feet.
Ánh mắt Lucy bây giờ chỉ nhìn lướt những cây cỏ cô đang đi ngang qua trong cuộc truy đuổi căng thẳng: một cây cơm cháy, một cây nhựa ruồi, những khóm lau. Họ đi ngang qua một cây anh thảo thật đẹp, rồi đám cỏ nến và lúa dại – chúng cao hơn bất cứ ai trong đội tìm kiếm, có lá sắc như lưỡi dao. Và đây là một cây thuộc họ huyền sâm, loài thảo dược sống ký sinh, mà Lucy Kerr cũng biết với cái tên khác nữa: cỏ chổi. Cô liếc nhìn nó một cái, rồi lại quan sát lối mòn.
Lối mòn dẫn tới một quả đồi dốc đứng – một quả đồi toàn đá tảng cao chừng hai mươi feet. Lucy leo lên dễ dàng, nhưng đến đỉnh đồi thì cô dừng bước, suy nghĩ. Không, có cái gì đó không ổn ở đây.
Bên cạnh cô, Amelia Sachs cũng đã leo lên đến đỉnh đồi và đứng đợi. Một lát sau, Jesse và Ned xuất hiện. Jesse thở dốc, còn đối với Ned, một tay bơi lội và thường xuyên vận động ngoài trời, thì cuộc việt dã vừa rồi chẳng mùi mẽ gì.
“Sao thế?” Amelia thấy Lucy cau mày, hỏi.
“Khả năng này không hợp lý. Garrett không có lẽ lại đi đường này.”
“Chúng ta đã theo lối mòn kia, như ông Rhyme hướng dẫn”, Jesse nói. “Đó là rặng thông duy nhất chúng ta đi qua. Dấu chân của Garrett dẫn đến đường này mà.”
“Các dấu chân đã dẫn đến phía này. Nhưng một lúc lâu rồi chúng ta chẳng còn nhìn thấy gì nữa.”
“Sao chị nghĩ hắn không đi đường này?” Amelia hỏi.
“Hãy nhìn cây cỏ mọc ở đây”, Lucy chỉ tay. “Mỗi lúc một nhiều các loài thực vật vùng đầm lầy hơn. Và bây giờ đứng trên cao này, chúng ta có thể nhìn bao quát hơn – hãy xem đất đai đã trở nên lầy lội như thế nào. Nào, hãy suy nghĩ đi, Jesse. Theo lối này thì sẽ tóm được Garrett ở đâu? Chúng ta đang tiến thẳng đến đầm lầy Sầu Thảm.”
“Cái gì?”, Amelia hỏi Lucy. “Đầm lầy Sầu Thảm à?”
“Một đầm lầy mênh mông, một trong những đầm lầy lớn nhất bờ biển miền Đông”, Ned giải thích.
Lucy tiếp tục: “Không có gì che chắn ở đó, không nhà cửa, đường sá. Cách tốt nhất mà hắn có thể làm là lội sang Virginia, nhưng như thế thì mất hàng ngày trời.”
Ned Spoto bổ sung thêm: “Và vào thời gian này của năm, thuốc chống côn trùng không được sản xuất đủ để người ta tránh bị bọn chúng ăn gỏi. Chưa kể rắn rết.”
“Có chỗ nào xung quanh đây họ có thể ẩn nấp không? Hang động? Nhà cửa?” Sachs nhìn xung quanh.
Ned nói: “Không hang động. Có lẽ cũng có vài ngôi nhà cũ. Nhưng thực tế là mực nước ngầm đã thay đổi. Đầm lầy ngày càng tiến về phía này và nhiều ngôi nhà cũ bị ngập rồi. Lucy đúng đấy. Nếu Garrett đi đường này cũng có nghĩa là hắn đang đi vào ngõ cụt.”
Lucy nói: “Tôi nghĩ chúng ta phải quay lại.”
Cô tưởng Amelia sẽ xì một tiếng trước gợi ý này, những cô gái ấy đơn giản là rút điện thoại di động ra gọi. Cô nói vào điện thoại: “Bọn em đang ở trong rừng thông, Rhyme. Có một lối mòn nhưng bọn em chẳng thể tìm thấy bất cứ dấu hiện nào cho thấy Garrett đã đi theo lối mòn này. Lucy nhận định rằng việc hắn đã đi theo lối mòn này không hợp lý. Cô ấy bảo về phía đông bắc chỉ chủ yếu là đầm lầy. Chẳng có chỗ nào cho hắn đi cả.”
Lucy lên tiếng: “Tôi nghĩ hắn đi về phía tây. Hoặc phía nam, quay lại bên kia sông.”
“Theo lối đó hắn có thể tới Millerton”, Jesse gợi ý.
Lucy gật đầu. “Một số nhà máy xung quanh đó đã đóng cửa khi các công ty chuyển việc kinh doanh sang Mexico. Các ngân hàng tịch thu rất nhiều bất động sản thế chấp. Có hàng chục tòa nhà bỏ hoang cho hắn ẩn nấp.”
“Hoặc phía đông nam”, Jesse lại gợi ý. “Nếu là tôi, tôi sẽ đi theo hướng đó – theo đường 112 hay theo tuyến đường sắt. “Về phía ấy cũng có hàng lô nhà cửa và chuồng trại cũ.”
Amelia nhắc lại những lời này cho Rhyme.
Trong lúc ấy, Lucy Kerr tự nhủ thầm: Anh ta là một con người mới lạ lùng làm sao, bị tàn tật rất nặng mà vẫn rất tự tin. Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Nữ cảnh sát đến từ New York lắng nghe rồi cúp máy. “Lincoln bảo cứ tiếp tục đi. Các chứng cứ không cho thấy hắn đi theo những hướng kia.”
“Không phải là không có bất cứ cây thông nào về phía tây và phía nam sao”, Lucy nói gay gắt.
Nhưng cô gái tóc đỏ lắc đầu. “Điều đó nghe có thể hợp lý, tuy nhiên không phải là điều mà các chứng cứ chỉ ra. Chúng ta tiếp tục đi.” Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Ned và Jesse nhìn hai người phụ nữ, hết người này lại sang người kia. Lucy liếc qua bộ mặt Jesse và đọc được sự si mê kỳ cục, hiển nhiên anh ta sẽ chẳng ủng hộ cô. Cô cứng rắn bảo vệ ý kiến của mình: “Không. Tôi nghĩ chúng ta nên quay lại, thử xem chúng ta có thể tìm thấy chỗ họ đã rẽ khỏi lối mòn không.”
Amelia cúi đầu, đăm đăm nhìn thẳng vào mắt Lucy. “Tôi bảo chị điều này… Chúng ta có thể gọi cho Jim Bell nếu chị muốn.”
Một lời nhắc nhở về việc Jim đã tuyên bố rằng cái tay Rhyme chết tiệt ấy sẽ chịu trách nhiệm tiến hành điều tra và rằng anh ta cử Amelia chỉ huy đội tìm kiếm. Thật điên rồ - một người đàn ông và một người phụ nữ có lẽ từ trước tới nay chưa bao giờ ở Bắc Carolina, hai kẻ không biết gì về cư dân, đặc điểm địa lý khu vực này lại đi bảo những người đã sống ở đây cả đời phải làm công việc của họ như thế nào.
Tuy nhiên Lucy Kerr biết rằng mình đã ký hợp đồng làm một công việc mà, cũng giống trong quân đội, người ta vốn vẫn tuân thủ mệnh lệnh từ trên xuống dưới. “Được rồi”, cô tức tối lầm bầm. “Nhưng xin nhớ cho là tôi phản đối việc đi về hướng ấy. Nó không có nghĩa gì cả”. Cô quay người, tiếp tục bước đi theo lối mòn, bỏ những thành viên khác của đội lại đằng sau. Tiếng bước chân của cô đột ngột biến mất khi cô giẫm lên một lớp lá thông dày phủ trên lối mòn.
Điện thoại của Amelia đổ chuông và cô đi chậm lại trong lúc nhận cuộc gọi.
Lucy sải bước vội vã trên lớp lá thông dày, cố gắng kiềm chế nỗi tức giận. Garrett Hanlon không đời nào lại đi đường này. Thật lãng phí thời gian. Họ nên dẫn theo chó nghiệp vụ. Họ nên gọi cho Elizabeth City và xin máy bay trực thăng của cảnh sát bang. Họ nên…
Rồi mọi thứ xung quanh trở nên mờ ảo và Lucy ngã lộn nhào về phía trước, thét lên một tiếng ngắn – hai bàn tay vươn ra chống xuống đất. “Lạy Chúa!”
Lucy ngã đánh huỵch, đau tắc thở, lá thông đâm vào lòng bàn tay.
“Đừng di chuyển”, Amelia nói, đứng dậy sau khi kéo Lucy ngồi dậy.
“Như thế là cái quái quỷ gì?”, Lucy hổn hển, hai bàn tay đau nhoi nhói vì cú sượt trên nền đất.
“Đừng di chuyển! Cả Ned và Jesse nữa.”
Ned và Jesse đứng sững, bàn tay đặt vào súng, nhìn xung quanh, không rõ chuyện gì đang diễn ra.
Amelia cau mày, thận trọng bước khỏi lớp lá thông, tìm thấy một cái que dài giữa đám cây cối, nhặt lên. Cô từ từ di chuyển về phía trước, chọc cái que xuống nền đất.
Cách Lucy chừng hai feet, nơi cô sắp sửa giẫm lên, cái que mất hút vào một đống cành thông. “Đó là một cái bẫy.”
“Nhưng không có dây bẫy”, Lucy nói. “Tôi vẫn quan sát mà”
Amelia thận trọng nhấc những cành thông và lá thông ra. Chúng được đặt trên những đoạn dây câu đan nhằng nhịt, che một cái hố sâu khoảng hai feet.
“Dây câu không phải là dây bẫy”, Ned nói. “Dây câu chỉ để che cái kia – một cái bẫy sập. Lucy, suýt nữa thì chị sa xuống đó.”
“Còn bên trong? Có bom không?” Jesse hỏi.
Amelia bảo anh ta: “Cho tôi mượn đèn pin của anh”. Anh ta đưa đèn pin cho cô. Cô chiếu đèn xuống cái hố, rồi nhanh chóng lùi lại.
“Gì thế?”, Lucy hỏi
“Không có bom”, Amelia trả lời. “Tổ ong bắp cày.”
Ned nhìn xuống. “Lạy Chúa, một thằng thật độc ác…”
Amelia thận trọng nhấc nốt các cành thông ra, lộ cái hố và tổ ong bắp cày, kích thước cỡ quả bóng chày.
“Trời đất”, Ned lẩm bẩm, nhắm mắt lại, chắc chắn đang rùng mình hình dung cảnh bị hàng trăm con ong bắp cày bu xung quanh đùi và thắt lưng.
Lucy xoa hai bàn tay vào nhau – chúng đau nhức sau cú ngã. Cô đứng dậy. “Làm sao cô biết?”
“Tôi không biết. Mà là Lincoln gọi điện. Anh ấy đang đọc qua các cuốn sách của Garrett. Có một đoạn được gạch chân viết về một loài côn trùng gọi là kiến sư tử. Chúng đào những cái hố và khi kẻ thù rơi xuống hố thì đốt chết. Garrett đã khoanh tròn đoạn này, màu mực cho thấy mới vài ngày trước thôi. Rhyme liên hệ với chỗ lá thông bị cắt rời khỏi cành và cuộn dây câu. Anh ấy nghĩ hắn có thể bố trí một cái bẫy sập và bảo tôi đề phòng những đám cành thông trên đường.”
“Chúng ta hãy đốt cái tổ ong đi”, Jesse nói.
“Không”, Amelia trả lời.
“Nhưng để đó thì nguy hiểm.”
Lucy đồng ý với người nữ đồng nghiệp. “Lửa sẽ làm lộ vị trí của chúng ta và Garrett sẽ biết chúng ta đang ở chỗ nào. Hãy cứ để cái tổ ong đấy, đừng che phủ để người ta có thể nhìn thấy nó. Chúng ta sẽ quay lại xử lý nó sau. Dù sao cũng chưa chắc đã có ai đi qua đây.”
Amelia gật đầu. Cô gọi điện. “Bọn em phát hiện ra nó rồi, Rhyme. Tất cả đều an toàn. Không có bom – hắn đặt bên trong một tổ ong bắp cày… Được. Bọn em sẽ cẩn thận…. Hãy tiếp tục đọc cuốn sách đó. Hãy cho bọn em biết anh có tìm thấy thêm điều gì nữa không.”
Họ lại bắt đầu xuôi theo lối mòn và sau khi đi thêm một phần tư dặm yên ổn thì Lucy không thể không nói ra những lời này. “Cảm ơn. Cô và anh ấy đã đúng về chuyện hắn đi theo lối này. Tôi đã sai”. Cô lưỡng lự hồi lâu nữa, rồi thêm:. “Jim đã lựa chọn chính xác – mời các vị từ New York xuống đây để giải quyết vụ án. Ban đầu tôi không thực sự hào hứng, tuy nhiên tôi sẽ không phủ nhận kết quả.”
Amelia cau mày. “Mời chúng tôi xuống đây? Ý chị là gì vậy?”
“Để giúp đỡ.”
“Jim không làm việc đó.”
“Cái gì?”, Lucy hỏi.
“Không, không, chúng tôi tới trung tâm y khoa ở Avery. Lincoln chuẩn bị làm phẫu thuật. Jim nghe nói chúng tôi sẽ có mặt tại đây nên sáng hôm nay anh ấy đã đề nghị chúng tôi xem xét hộ một số chứng cứ.”
Im lặng hồi lâu. Rồi Lucy cười to vì cảm thấy hoàn toàn nhẹ nhõm. “Tôi tưởng anh ấy xoáy tiền của quận để các vị bay xuống đây sau vụ bắt cóc xảy ra ngày hôm qua.”
Amelia lắc đầu. “Ngày kia mới tiến hành phẫu thuật. Chúng tôi có một chút thời gian rỗi. Thế thôi.”
“Anh chàng đó – Jim. Anh ta chẳng hề nói một lời về việc này. Đôi khi anh ta có thể là một người rất kín đáo.”
“Chị đã lo lắng rằng anh ấy không tin chị sẽ giải quyết được vụ án?”
“Tôi nghĩ đấy chính xác là tâm trạng của tôi.”
“Anh họ Jim làm việc cùng chúng tôi ở New York. Anh ấy nói với Jim rằng chúng tôi sẽ xuống đây vài tuần.”
“Khoan đã, ý cô là Ronald?”, Lucy hỏi. “Tất nhiên rồi, tôi biết anh ấy. Biết cả vợ anh ấy nữa, trước khi chị ấy qua đời. Hai đứa con trai của anh ấy thật đáng yêu.” Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
“Họ mới tới chỗ chúng tôi để dự bữa tiệc thịt nướng ngoài trời”, Amelia nói.
Lucy lại cười to. “Tôi cho là tôi đang mắc chứng hoang tưởng…Vậy, các vị tới Avery à? Trung tâm y khoa à?”
“Vâng.”
“Đó là nơi Lydia Johansson làm việc. Cô biết đấy, cô ấy là y tá ở đó.”
“Tôi không biết.”
Hàng tá những kỷ niệm lướt qua tâm trí Lucy. Có những kỷ niệm khiến cô bồi hồi xúc động. Có những kỷ niệm khiến cô muốn chạy trốn như chạy trốn đàn ong bắp cày mà cô suýt nữa đã sa xuống trong cái bẫy sập của Garrett. Cô không biết liệu mình có muốn kể cho Amelia Sachs nghe bất cứ kỷ niệm nào hay không. Cuối cùng, cô nói: “Đó là lý do tại sao tôi hăng hái đi cứu cô ấy. Cách đây mấy năm tôi phải điều trị ở bệnh viện và Lydia là một trong số các y tá chăm sóc tôi. Cô ấy là một người tốt. Tốt nhất trên đời này.”
“Chúng ta sẽ cứu cô ấy”, Amelia nói, và cô nói bằng âm sắc mà Lucy đôi khi – không thường xuyên, nhưng đôi khi – nghe thấy trong chính giọng nói của mình. Một âm sắc không bộc lộ chút nghi ngờ gì.
Lúc này, họ đi từ từ hơn. Cái bẫy sập khiến tất cả họ hoảng sợ. Và cái nóng thì thực sự khiến họ khổ sở.
Lucy hỏi Amelia: “Thế cuộc phẫu thuật sắp sửa tiến hành với bạn cô? Để giải quyết… tình trạng của anh ấy à?”
“Vâng”
“Sao trông cô lo lắng thế?”, Lucy hỏi, để ý thấy một bóng đen thoáng qua mặt người con gái kia.
“Nó có thể chẳng có ích gì.”
“Vậy tại sao anh ấy lại định phẫu thuật?”
Amelia giải thích: “Cũng có cơ hội cải thiện được tình hình. Cơ hội rất mong manh. Nó mang tính thí nghiệm mà. Chưa có ai bị chấn thương như anh ấy – tức là bị nặng như anh ấy – mà khá hơn được.”
“Và cô không muốn anh ấy làm phẫu thuật?”
“Tôi không muốn.”
“Tại sao không?”
Amelia ngập ngừng. “Vì nó có thể giết chết anh ấy. Hoặc khiến anh ấy bị nặng thêm.”
“Cô đã trao đổi với anh ấy về việc này?”
“Vâng.”
“Nhưng chẳng tác dụng gì”, Lucy nói.
“Chẳng tác dụng gì.”
Lucy gật đầu. “Tôi cho rằng anh ấy cũng thuộc loại bướng bỉnh.”
Amelia đáp lời: “Nói như thế vẫn còn nhẹ đấy.”
Có tiếng sột soạt ở gần, trong bụi cây, và tới lúc Lucy đặt được tay vào khẩu súng lục thì Amelia đã nhằm bắn trúng ức một con gà tây hoang. Bốn thành viên của đội tìm kiếm mỉm cười, nhưng sự thích thú chỉ xuất hiện trong khoảnh khắc, rồi nó được thay thế bởi nỗi hồi hộp vì máu họ từ từ ngấm chất adrenaline.
Cất súng vào bao, chăm chú quan sát lối mòn, họ tiếp tục tiến về phía trước, tạm thời giữ im lặng.
Người ta có một số cách biểu hiện khác nhau trước tình trạng của Rhyme.
Có người thì bông lơn, một cách bạo mồm bạo miệng. Đùa giỡn những kẻ tàn tật, cũng chẳng ai bị bỏ tù cả.
Có người, giống như Henry Davett, lại hoàn toàn phớt lờ tình trạng của anh.
Phần lớn thì cư xử theo cách mà Ben đang làm – cố gắng giả vờ rằng Rhyme không tồn tại và cầu nguyện cho mình được thoát khỏi nơi này càng sớm càng tốt.
Đây là kiểu phản ứng mà Rhyme căm ghét nhất – nó là sự gợi nhắc trắng trợn nhất về việc anh khác với mọi người biết bao. Nhưng anh chẳng có thời gian bận tâm đến thái độ của anh chàng trợ lý bất đắc dĩ. Garrett đang đưa Lydia tiến sâu hơn vào rừng. Còn Mary Beth McConnell thì có thể đang chết ngạt hoặc chết khát hoặc bị một vết thương giết dần chết mòn.
Jim Bell bước vào căn phòng. “Có lẽ là có tin tức tốt từ bệnh viện. Ed Schaeffer đã nói gì đó với một trong số các y tá. Rồi lại bất tỉnh ngay. Nhưng tôi thấy dấu hiệu này khả quan đấy.”
“Ông ấy đã nói gì?”, Rhyme hỏi. “Điều ông ấy phát hiện được trên tấm bản đồ à?”
“Cô y tá bảo nghe như là từ quan trọng. Rồi từ ô liu”, Bell bước tới trước tấm bản đồ. Anh ta đặt tay vào một ô về phía đông nam Tanner’s Corner. “Có một khu dân cư ở đây. Người ta đặt tên các con đường theo tên cây cỏ, hoa trái và đại loại vậy. Trong đó có phố Ô liu. Nhưng đấy là lối đi về phía nam lạch Đá. Liệu tôi có nên bảo Lucy và Amelia thử kiểm tra không? Tôi cho rằng chúng ta nên bảo họ.”
A, sự xung đột muôn thuở đây, Rhyme nghĩ: tin tưởng tang chứng hay tin tưởng nhân chứng? Nếu anh lựa chọn nhầm, Lydia hoặc Mary Beth có thể sẽ chết. “Họ nên tiếp tục hướng đang đi, về phía bắc con sông.”
“Anh chắc chắn chứ?” Bell nghi ngờ hỏi.
“Chắc chắn.”
“Được rồi”, Bell nói.
Điện thoại đổ chuông và với một động tác ấn phím dứt khoát bằng ngón tay đeo nhẫn bên trái, Rhyme nhận cuộc gọi.
Giọng Sachs lạo xạo trong bộ tai nghe của anh. “Bọn em đang gặp bế tắc, Rhyme. Đến đây có bốn, năm lối mòn đi theo các hướng khác nhau, mà bọn em thì không có manh mối nào cho thấy hướng Garrett đã đi.”
“Anh chưa có thông tin gì thêm cho em, Sachs ạ. Bọn anh đang cố gắng xác định thêm các chứng cứ.”
“Không có gì thêm từ mấy cuốn sách à?”
“Không có gì cụ thể. Nhưng có điều này rất thú vị - chúng là những cuốn sách khá nghiêm túc đối với một thiếu niên mười sáu tuổi. Hắn thông minh hơn anh tưởng. Chính xác em đang ở đâu, Sachs?” Rhyme ngẩng nhìn lên. “Ben! Làm ơn đến trước tấm bản đồ hộ tôi cái.”
Anh ta di chuyển thân hình khổng lồ của mình về phía bức tường treo tấm bản đồ và đứng bên cạnh.
Sachs hỏi một người nào đó trong đội tìm kiếm. Rồi nói: “Chừng bốn dặm về phía đông bắc vị trí bọn em lội qua lạch Đá, gần như theo đường thẳng.”
Rhyme nhắc lại cho Ben, để anh ta chỉ tay lên tấm bản đồ. Ô J-7.
Gần ngón trỏ to tướng của Ben là một khu vực hình chữ L không được xác định. “Ben, cậu biết khu vực đó là gì chứ?”
“Tôi nghĩ nó là cái mỏ đá cũ.”
“Ôi, lạy Chúa”, Rhyme lẩm bẩm, bực bội lắc đầu.
“Sao ạ?”, Ben hỏi, lo lắng rằng mình vừa làm sai điều gì.
“Quái quỷ thế nào mà chẳng ai nói với tôi là ở gần đó có một mỏ đá?”
Khuôn mặt tròn của Ben thậm chí sưng lên hơn cả lúc trước. Anh ta coi sự buộc tội kia nhằm vào riêng mình. “Tôi thực sự không…”
Nhưng Rhyme thậm chí chẳng buồn lắng nghe. Anh chẳng trách móc ai ngoài chính bản thân anh ta. Đã có người nói với anh về mỏ đá – Henry Davett, khi ông ta bảo rằng đá vôi từng là nguồn lợi lớn ở khu vực này. Liệu còn có cách nào khác để các công ty sản xuất đá vôi thương phẩm? Rhyme đáng lẽ phải hỏi thăm ngay về một mỏ đá sau khi được cho biết như vậy. Và nitrate chẳng phải là từ những quả bom ống mà là từ những vụ nổ mìn phá đá – các chất lắng loại này vốn vẫn tồn tại qua hàng thập kỷ.
Anh nói vào điện thoại: “Có một mỏ đá cũ cách chỗ em không xa. Về phía tây nam.”
Cuộc điện thoại tạm thời bị ngắt quãng. Bên ngoài loáng thoáng những câu trao đổi. Rồi Amelia nói: “Jesse biết mỏ đá này.”
“Garrett đã ở đó. Anh không biết liệu hắn có còn ở đó hay không. Vì thế hãy cẩn thận. Và nhớ là hắn chắc không đặt bom nhưng sẽ bố trí bẫy. Phát hiện được điều gì thì gọi cho anh.”
Bây giờ, khi Lydia đã thoát khỏi Không gian Bên ngoài và cảm thấy khá hơn vì không còn bị nóng nực, kiệt sức như lúc trước, cô nhận ra rằng cô phải đương đầu với Không gian Bên trong. Và không gian ấy cũng đang chứng tỏ là đáng sợ chẳng kém.
Kẻ bắt giữ cô đi tới đi lui một lúc, nhìn qua cửa sổ, rồi ngồi xổm xuống, búng móng tay và lẩm bẩm một mình, ngắm nghía thân hình cô, rồi lại đi tới đi lui. Có một lần, Garrett liếc nhìn xuống sàn và nhặt lên cái gì đó. Hắn đút tọt nó vào mồm, nhai ngấu nghiến. Cô tự hỏi liệu đó có phải là một con côn trùng không và ý nghĩ này suýt khiến cô phát nôn.
Căn phòng họ đang ở xem chừng trước đây là văn phòng của cối xay. Từ đây, Lydia nhìn qua được dãy hành lang, một phần đã bị cháy trong vụ hỏa hoạn, thấy một loạt phòng khác – chắc là các phòng chứa ngũ cốc và xay xát. Ánh nắng buổi chiều rực rỡ tràn qua những bức tường và trần hành lang đã cháy rụi.
Một cái gì đó màu vàng da cam đập vào mắt cô. Cô nheo mắt và trông thấy các túi Doritos<23>. Cả khoai tây chiên Cape Cod nữa. Những phong bánh bơ lạc nhãn hiệu Reese. Thêm những gói bích quy phó mát với bơ lạc nhãn hiệu Planters mà Garrett đã ăn ở mỏ đá. Sô đa và nước tinh khiết nhãn hiệu Deer Park. Cô không trông thấy những thứ này khi họ vừa vào cối xay.
Tại sao lại có tất cả những thứ thức ăn này? Họ sẽ ở đây bao lâu? Garrett bảo chỉ đêm nay thôi nhưng bằng ấy thức ăn đủ cho cả một tháng. Gã định giữ cô ở đây lâu hơn dự định gã nói với cô chăng?
Lydia hỏi: “Mary Beth ổn chứ? Cậu chưa làm gì cô ấy chứ?”
“Ồ, phải, như thể là tao sẽ làm gì cô ấy”. Garrett mỉa mai nói. “Tao không nghĩ thế đâu”. Lydia quay đi, chăm chú nhìn những tia nắng xuyên qua phần tường còn lại của dãy hành lang. Bên kia tường, vọng một tiếng kêu cót két – cái thớt cối quay, cô tự nhủ thầm vậy.
Garrett tiếp tục: “Lý do duy nhất khiến tao đưa cô ấy đi là để chắc chắn rằng cô ấy được ổn thỏa. Cô ấy muốn thoát khỏi Tanner’s Corner. Cô ấy thích ra bãi biển. Ý tao là, đ.mẹ, ai lại không thích chứ? Ở đó dễ chịu hơn ở cái thị trấn Tanner’s Corner bẩn tưởi này”. Gã búng móng tay nhanh hơn và mạnh hơn. Gã bị bối rối và căng thẳng. Hai bàn tay to tướng của gã xé toạc một túi khoai tây chiên. Gã cho mấy vốc vào mồm, nhai nhồm nhoàm, các mẩu vụn rơi lả tả. Gã uống một hơi hết lon Coca Cola. Lại ăn khoai tây chiên.
“Chỗ này bị cháy hai năm trước”, Garrett nói. “Tao chẳng biết ai gây ra. Mày thích cái âm thanh đó không? Cái bánh xe nước hả? Nó khá thú vị. Cái bánh xe quay, quay. Nó gợi cho tao nhớ tới bài hát này, cha tao từng suốt ngày hát quanh nhà. Bánh xe to tướng quay mãi, quay mãi…” Gã bốc thêm khoai tây chiên tọng vào mồm và bắt đầu nói. Trong khoảnh khắc, Lydia không thể hiểu nổi gã. Gã nuốt. “… Ở đây rất nhiều. Mày ngồi đây vào ban đêm, lắng nghe tiếng lũ ve sầu và ễnh ương. Nếu tao đi tuốt ra biển – giống như tao đang đi đây – bao giờ tao cũng chọn chỗ này làm chỗ nghỉ ban đêm. Ban đêm, mày sẽ thấy thích”. Gã ngừng nói và đột ngột vươn về phía cô. Sợ hãi tới mức không dám nhìn trực diện gã, cô cụp mắt xuống nhưng vẫn cảm nhận được gã đang chăm chú quan sát mình. Rồi, chỉ mất một giây, gã bật dậy và khom người xuống sát bên cạnh cô.
Lydia nhăn mặt khi bị mùi cơ thể Garrett phả vào mũi. Cô chờ đợi hai bàn tay gã sờ soạng trên ngực, giữa hai đùi cô.
Nhưng gã chẳng màng đến cô, có vẻ thế. Garrett dịch một tảng đá sang bên cạnh và nhấc cái gì đó từ phía dưới ra.
“Con nhiều chân”, Garrett mỉm cười. Con vật dài, màu vàng xanh và nhìn nó Lydia thấy kinh tởm.
“Bọn này rất đáng yêu. Tao thích chúng”. Garrett để nó bò trên mu bàn tay và cổ tay. “Chúng chẳng phải côn trùng đâu”, gã giảng giải. “Chúng giống như những người anh em. Chúng nguy hiểm khi mày cố gắng làm hại chúng. Chúng cắn đau vô cùng. Những người Anh điêng ở xung quanh đây từng nghiền chúng ra và tẩm chất độc của chúng vào đầu mũi tên. Khi một con nhiều chân hoảng sợ, nó phun chất độc, rồi chạy trốn. Một con săn mồi bò qua chỗ khí đó và nghẻo. Đúng là đời sống hoang dã, phải không?”
Garrett trở nên im lặng, chăm chú ngắm nghía con nhiều chân, theo cái cách mà bản thân Lydia vốn vẫn ngắm nghía những đứa cháu – với sự quý mến, thích thú, gần như là tình yêu.
Lydia cảm thấy nỗi khiếp sợ dâng lên trong cô. Cô biết rằng cô phải giữ bình tĩnh, biết rằng cô không nên làm trái ý Garrett, mà phải giả vờ tán thưởng gã. Nhưng nhìn cái con bọ kinh tởm kia bò trên cánh tay gã, nghe tiếng gã búng móng tay, nhìn da dẻ gã đầy mụn, nhìn cặp mắt ướt nhoèn, đỏ quạch của gã, những vết thức ăn trên cằm gã, cô run rẩy vì khiếp sợ.
Khi nỗi kinh tởm và khiếp sợ sôi sục trong người, Lydia tưởng như nghe thấy một giọng nói mơ hồ, thúc giục. “Phải, phải, phải!”. Một giọng nói chỉ có thể thuộc về một thiên thần hộ mệnh mà thôi.
Phải, phải, phải!
Lydia lăn người. Garrett ngẩng nhìn lên, mỉm cười thích thú tận hưởng cảm giác con bọ bò trên da thịt, tò mò muốn biết cô đang làm gì. Và Lydia co cả hai chân đạp mạnh hết sức. Cô có đôi chân khỏe, nó từng đỡ thân hình to béo của cô suốt các ca trực tám tiếng ở bệnh viện, và cú đạp khiến gã ngã ngửa ra đằng sau. Gã đập đầu vào tường đánh huỵch, lăn xuống sàn, choáng váng. Rồi gã thét rống lên, ôm lấy cánh tay. Con nhiều chân hẳn đã cho gã một phát cắn.
Phải! Lydia hân hoan nghĩ trong lúc vặn người ngồi dậy. Cô cố gắng đứng lên và mò mẫm chạy về phía buồng nghiền bột ở cuối dãy hành lang.
Chú Thích:
<23> Nhãn hiệu một loại ngô chiên do công ty Frito-Lay, Mỹ, sản xuất
16.06.2015
PHẦN 1: PHÍA BẮC SÔNG PAQUO
CHƯƠNG 12
Dịch giả: Đinh Minh Hương
Nguồn: NXB Văn học
Nội dung thu gọn
Theo như Jesse Corn ước lượng thì họ đã sắp sửa tới mỏ đá. Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
“Đi chừng năm phút nữa”, anh ta bảo Sachs. Rồi anh ta liếc nhìn cô hai lần và nói sau khi thầm cân nhắc gì đó: “Chị biết đấy, tôi đã định hỏi chị… Khi chị rút khẩu súng, khi con gà tây chui ra khỏi bụi cây ấy. Chà, và cả ở Bến tàu kênh Nước đen khi Rich Culbeau bất ngờ xuất hiện… Như thế… ờ, như thế chẳng phải thường. Chị có vẻ cũng biết đóng đinh, nhỉ.”
Qua Roland Bell, Sachs biết người miền Nam nói “đóng đinh” nghĩa là bắn súng.
“Một trong số các sở thích của tôi đấy”, cô trả lời.
“Đừng đùa!”
“Dễ dàng hơn chạy” Sachs nói. “Đỡ tốn kém hơn việc tham gia một câu lạc bộ sức khỏe.”
“Chị có thi đấu không?”
Sachs gật đầu. “Tôi thuộc Câu lạc bộ súng ngắn bờ Bắc Long Island.”
“Thế thể loại kia thì sao?”, Jesse hỏi nhiệt tình một cách đáng sợ. “Các cuộc thi bắn trúng hồng tâm của Hiệp hội Súng trường Quốc gia ấy?”
“Có tham gia.”
“Đó cũng là môn thể thao tôi luyện tập! Chà, tất nhiên, bắn đĩa theo hướng chéo và thẳng. Nhưng tôi chuyên về súng ngắn.” Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Sachs cũng chuyên về súng ngắn, tuy vậy cô nghĩ tốt nhất là không chia sẻ quá nhiều điểm tương đồng với anh chàng Jesse Corn đang si mê.
“Chị tự nhồi lại đạn à?”, anh ta hỏi.
“Ừ. Ờ thì, đạn cỡ .38 và .45. Tất nhiên không phải loại có kíp nổ nằm ở mép đáy cát tút. Lấy hết được bọt khí ra khỏi cát tút – đấy là cả một vấn đề.”
“Chà, chị không định nói với tôi rằng chị tự chế tạo luôn vỏ đạn đấy chứ?”
“Tôi tự chế tạo”, Sachs thừa nhận, nhớ lại mỗi buổi sáng Chủ nhật, khi các căn hộ khác trong tòa nhà cô ở ngào ngạt mùi bánh quế và thịt lợn muối thì căn hộ của cô sực nức cái mùi của chì bị nấu chảy chẳng lẫn vào đâu được.
“Tôi không tự chế tạo”, Jesse nói giọng hối tiếc. “Tôi mua ở ngoài.”
Họ đi bộ thêm vài phút nữa trong im lặng, mọi con mắt đều chăm chú nhìn xuống đất, đề phòng những cái bẫy sập khác.
“Vậy”, Jesse Corn nói, vừa nở một nụ cười rụt rè vừa hất mạnh mái tóc vàng xòa xuống vầng trán ướt mồ hôi. “Tôi sẽ cho chị thấy thành tích của tôi…” Sachs giễu cợt nhìn anh ta và anh ta tiếp tục. “Ý tôi là, thành tích tốt nhất của chị ra sao? Trong các cuộc thi bắn trúng hồng tâm ấy?” Thấy cô do dự, anh ta động viên: “Nào, chị có thể nói với tôi. Chỉ là một môn thể thao thôi mà.. Và này, tôi đã thi đấu mười năm nay. Tôi sẽ có chút lợi thế hơn chị.”
“Hai nghìn bảy trăm điểm”, Sachs nói.
Jesse gật đầu. “Phải, ý tôi là nội dung ấy đấy – ba súng ngắn, mỗi súng đạt tối đa chín trăm điểm. Điểm cao nhất của chị là bao nhiêu?”
“Không, điểm của tôi đấy”, Sachs nói, nhăn mặt vì một cơn đau khớp bất chợt lan suốt đôi chân mỏi nhừ. “Hai nghìn bảy trăm điểm.”
Jesse quay sang cô, xem có vẻ gì là đùa không. Thấy cô hoàn toàn không cười, anh ta cười phá lên. “Nhưng đấy là một điểm số hoàn hảo.”
“Ồ, tôi không tham gia mọi cuộc thi. Nhưng anh hỏi thành tích tốt nhất của tôi mà.”
“Nhưng… “ Jesse trợn tròn mắt. “Tôi thậm chí chưa từng gặp người nào bắn được hai nghìn bảy trăm điểm.”
“Bây giờ thì cậu đã gặp rồi đấy”, Ned vừa nói vừa cười ha hả. “Và đừng cảm thấy phiền lòng – chỉ là một môn thể thao thôi mà.”
“Hai nghìn bảy trăm…” Anh chàng cảnh sát trẻ tuổi lắc đầu.
Sachs đi đến kết luận là đáng lẽ cô nên nói dối. Với thông tin về tài thiện xạ này của cô, xem chừng sự si mê mà Jesse Corn dành cho cô sẽ không gì có thể lay chuyển.
“Giả dụ như, sau khi vụ việc kết thúc…”, anh ta bẽn lẽn nói, “chị có chút thời gian rỗi rãi, có lẽ chị và tôi có thể ra trường bắn, tiêu tốn ít đạn dược đấy nhỉ.”
Và Sachs tự nhủ thầm: Thà một hộp Winchester đặc biệt cỡ .38 còn hơn một tách Starbucks kèm theo những lời tâm sự rằng gặp gỡ phụ nữ ở Tanner’s Corner mới khó khăn làm sao.
“Để xem tình hình thế nào.”
“Coi như một cuộc hẹn hò nhé”, Jesse nói, sử dụng đúng cái từ mà Sachs đã hy vọng anh ta đừng nói ra.
“Kìa”, Lucy lên tiếng. “Thấy chưa?” Họ dừng lại bên bìa rừng, nhìn cái mỏ đá đã ở trước mặt.
Sachs ra hiệu cho mọi người khom mình xuống. Chết tiệt, đau quá. Cô dùng condroitin và glucosamine hàng ngày, nhưng sức nóng và độ ẩm của vùng Carolina này – thật là địa ngục đối với các khớp xương bệnh tật của cô. Cô đăm đăm trông xuống cái hố khổng lồ - rộng gần hai trăm thước và sâu dễ đến một trăm feet. Các vách mỏ màu vàng nhạt, giống như màu xương lâu ngày, và dựng đứng trong làn nước lợ màu xanh lá cây bốc mùi chua chua. Cây cối trên phạm vi bán kính gần hai mươi thước xung quanh mỏ đá chết rụi cả.
“Đừng chạm tới nước đó”, Lucy thì thầm cảnh báo. “Nước đó độc. Trẻ con từng bơi ở đây. Thời gian họ mới ngừng khai thác. Thằng cháu tôi từng bơi ở đây một lần – thằng em trai Ben. Nhưng tôi chỉ cần cho nó xem ảnh của nhân viên điều tra chụp khi vớt thi thể Kevin Dobbs lên sau một tuần ngâm dưới nước, nó cạch không bao giờ dám quay lại đây.”
“Tôi nghĩ đấy là phương pháp mà Tiến sĩ Spock khuyên dùng”, Sachs nói. Lucy cười to.
Sachs lại suy nghĩ về những đứa trẻ.
Không phải bây giờ, không phải bây giờ…
Máy di động của cô rung lên. Vì họ đã đến gần con mồi, cô tắt chuông điện thoại. Cô nhận cuộc gọi. Giọng Rhyem giật cục: “Sachs. Em đang ở đâu?”
“Trên miệng mỏ đá”, cô thì thào.
“Có dấu vết gì của hắn không?”
“Bọn em vừa tới đây. Chưa có gì cả. Bọn em sắp sửa bắt đầu rà soát. Tất cả các tòa nhà đều đã bị phá sập và em không thấy hắn ẩn nấp được vào chỗ nào. Nhưng có hàng chục vị trí mà hắn có thể đặt bẫy.”
“Sachs…”
“Gì thế, Rhyme?” Giọng nói nghiêm trọng của anh khiến cô ớn lạnh.
“Có điều này anh phải nói với em. Anh vừa nhận được kết quả phân tích ADN và huyết thanh từ trung tâm y khoa. Trên tờ khăn giấy Kleenes em tìm thấy tại hiện trường sáng hôm nay.”
“Và?”
“Đó đúng là tinh dịch của Garrett. Còn máu – thì là của Mary Beth.”
“Hắn đã cưỡng hiếp cô gái”, Sachs thì thào.
“Hãy thận trọng, Sachs, nhưng nhanh lên. Anh nghĩ Lydia chẳng còn nhiều thời gian đâu.”
Cô trốn trong một cái thùng tối mò, bẩn thỉu, đã từng được sử dụng để đựng ngũ cốc.
Hai tay bị trói quặt ra đằng sau, vẫn xây xẩm mặt mày vì cái nóng và tình trạng mất nước, Lydia Johansson loạng choạng chạy về phía cuối dãy hành lang sáng sủa, chạy khỏi chỗ Garrett đang nằm quằn quại, và tìm thấy nơi ẩn nấp này – nó nằm trên sàn, phía dưới buồng nghiền bột. Khi cô chui vào bên trong và đóng cửa thùng lại rồi, cả chục con chuột thoăn thoắt bò qua bàn chân cô và cô phải vận dụng hết ý chí để khỏi kêu thét lên.
Bây giờ, trong tiếng thớt cối quay chầm chậm gần đó, cô chờ nghe tiếng bước chân của Garrett.
Nỗi khiếp sợ xâm chiếm Lydia và cô bắt đầu hối hận vì đã cả gan chạy trốn. Nhưng không thể quay lại, cô quyết định như thế. Cô đã ra tay với Garrett và bây giờ gã sẽ ra tay với cô nếu gã tìm thấy cô. Có lẽ gã sẽ ra tay ác liệt hơn. Chẳng còn cách nào khác ngoài cách cố gắng trốn thoát.
Không, Lydia quyết định, đó không phải lối suy nghĩ đúng đắn. Một trong các cuốn sách thiên thần của cô viết rằng không tồn tại những cái “cố gắng” như thế. Người ta hoặc hành động hoặc không hành động. Cô sẽ không cố gắng trốn thoát. Cô sẽ trốn thoát. Cô chỉ cần có niềm tin
Lydia nhìn qua khe hở trên cửa thùng, thận trọng lắng nghe. Cô nghe thấy tiếng Garrett ở một phòng gần đó, lẩm bẩm nói một mình, mở toang cửa các thùng và ngăn chứa đồ đạc. Cô đã hy vọng rằng gã sẽ nghĩ cô chạy ra ngoài qua bức tường sập của dãy hành lang bị cháy rụi, nhưng cuộc lục soát rất có phương pháp chứng tỏ rõ ràng là gã biết cô vẫn còn xung quanh đây. Cô chẳng thể ngồi trong cái thùng này lâu hơn nữa. Gã sẽ phát hiện được cô. Cô liếc nhìn qua khe hở trên cửa thùng, không trông thấy gã, cô chui ra khỏi thùng, chạy sang căn phòng bên cạnh, đôi giảy vải màu trắng không gây nên tiếng động nào. Lối thoát duy nhất khỏi căn phòng này là một cầu thang dẫn lên tầng hai. Cô lảo đảo đi lên, thở hổn hển và thiếu mất hai bàn tay để giữ thăng bằng, cứ hết va vào tường lại va vào lan can cầu thang bằng sắt rèn.
Lydia nghe thấy giọng Garrett vang vọng trong hành lang. “Mày làm nó cắn tao!”, gã hét. “Đau quá, đau quá.”
Ước gì nó châm vào mắt mày hay dái mày ấy, Lydia nghĩ và chật vật leo lên cầu thang. Thằng chó thằng chó thằng chó!
Cô nghe thấy Garrett mở toang cửa các ngăn chứa đồ trong căn phòng phía dưới. Nghe thấy tiếng rên rỉ nơi cổ họng gã. Tưởng chừng nghe thấy tiếng móng tay gã búng tanh tách.
Hình dung ấy lại khiến Lydia run sợ. Cơn buồn nôn dâng lên.
Căn phòng trên đầu cầu thang rộng và có một loạt cửa sổ mở về phía bị cháy của cối xay. Có một cửa ra vào không khóa, Lydia đẩy cánh cửa ra, bước vào chính khu vực nghiền bột – hai thớt cối lớn nằm ở giữa căn phòng. Các bộ phận bằng gỗ đã mục, âm thanh cô nghe thấy lúc trước không phải của hai thớt cối mà của bánh xe nước quay bởi nước từ con suối đổi dòng. Nó vẫn còn quay chậm chậm. nước màu gỉ sắt trút xuống một cái hố hẹp và sâu, trông giống như một cái giếng. Lydia không trông thấy đáy. Nước ấy ắt phải chảy trở ra suối theo những mạch ngầm nào đấy.
“Dừng lại!”, Garrett quát.
Lydia choáng váng giật nảy người trước tiếng quát giận dữ. Gã đứng ở ngưỡng cửa. Cặp mắt gã đỏ quạch và trợn trừng. Gã ôm cánh tay bị một vết thâm to tướng. “Mày làm nó cắn tao”, gã lẩm bẩm, chằm chằm nhìn cô đầy căm thù. “Nó chết rồi. Mày làm tao phải giết nó! Tao không muốn nhưng mày bắt buộc tao! Bây giờ thì xuống gác đi, đồ khốn kiếp. Tao sẽ trói chân mày lại.”
Garrett bước về phía Lydia.
Cô nhìn bộ mặt xương xẩu của gã, đôi lông mày giao nhau, đôi bàn tay hộ pháp, ánh mắt giận dữ. Trong tâm trí cô bất chợt hiện lên cả chuỗi hình ảnh: một bệnh nhân ung thư của cô, đang chết dần chết mòn. Mary Beth McConnell bị giam giữ ở đâu đó. Gã trai điên cuồng nhai khoai tây chiên. Con nhiều chân nhoay nhoáy bò. Các ngón tay búng tanh tách. Không gian Bên ngoài. Những đêm cô đơn dài dằng dặc, chờ đợi – một cách tuyệt vọng – cuộc điện thoại ngắn ngủi từ người bạn trai. Việc mang hoa đến Bến tàu kênh Nước đen, mặc dù cô không thực sự muốn…
Tất cả đối với cô đã quá đủ.
“Khoan”, Lydia nói giọng bình thản.
Garrett chớp mắt. Gã dừng bước.
Cô mỉm cười với gã – cái cách cô mỉm cười với một bệnh nhân mắc chứng nan y – và gửi lời cầu nguyện giã biệt tới người bạn trai, Lydia, với hai bàn tay vẫn bị trói quặt ra đằng sau, nhảy lao đầu xuống cái hố hẹp đầy nước tối thẫm.
Đôi vai của nữ cảnh sát tóc đỏ lọt vào chính giữa chiếc kính ngắm Hitech.
Tóc ấy mới Chúa làm sao, Mason Germain tự nhủ thầm.
Anh ta và Nathan Groomer đang ở trên một quả đồi nhỏ trông xuống mỏ đá cũ của Công ty Đá Anderson. Cách đội tìm kiếm gần một trăm thước.
Nathan rốt cuộc cũng đưa ra cái kết luận mà anh ta hẳn đã có từ nửa tiếng đồng hồ trước. “Việc chúng ta đang làm đây chẳng liên quan gì tới Rich Culbeau cả.”
“Không, không liên quan. Không hẳn là liên quan.”
“Thế nghĩa là sao? Không hẳn là liên quan?”
“Culbeau đang quanh quẩn đâu đây. Với Sean O’Sarian…”
“Thằng ấy đáng sợ hơn cả hai thằng Culbeau.”
“Miễn tranh luận”, Mason nói. “Và Harris Tomel nữa. Nhưng đó không phải việc chúng ta đang làm.”
Nathan ngoảnh nhìn lại mấy người đồng sự và nữ cảnh sát tóc đỏ. “Tôi cho là vậy. Tại sao anh ngắm Lucy Kerr bằng súng của tôi?”
Lát sau, Mason đưa trả khẩu Ruger M77 và nói: “Vì tôi quên mang cái ống nhòm chết tiệt. Và tôi không nhìn Lucy.”
Họ bắt đầu đi dọc theo dải đất bằng phẳng trên đỉnh đồi. Mason suy nghĩ về nữ cảnh sát tóc đỏ. Suy nghĩ về Mary Beth McConnell xinh đẹp. Và về Lydia. Anh ta cũng suy nghĩ về việc làm sao mà cuộc đời đôi khi cứ không như mong muốn. Ví dụ, Mason Germain biết rằng đáng lẽ cho đến bây giờ mình đã phải tiến xa hơn vị trí một sĩ quan cấp cao. Anh ta biết rằng mình đáng lẽ đã phải đưa ra yêu cầu được đề bạt theo cách khác. Giống như anh ta đáng lẽ đã phải xử lý mọi việc theo cách khác vào thời điểm Kelley bỏ anh ta vì cái gã lái xe tải năm năm về trước, và về vấn đề này, anh ta đáng lẽ đã phải xử lý toàn bộ cuộc hôn nhân theo cách khác, trước khi cô ta nói lời chia tay.
Và đáng lẽ đã phải giải quyết vụ án đầu tiên liên quan tới Garrett Hanlon theo cách khác hẳn. Vụ án mà Med Blanchard thức dậy khỏi giấc ngủ trưa, thấy từng đám ong bắp cày bu trên mặt, ngực và cánh tay… một trăm ba mươi bảy phát đốt và cái chết khủng khiếp đến từ từ.
Bây giờ thì Mason đang trả giá cho những lựa chọn sai lầm đó. Cuộc đời anh ta chỉ là chuỗi ngày tháng lặng lờ, đầy lo lắng, ngồi ngoài hàng hiên uống như hũ chìm, thậm chí không có sức lực để buông thuyền xuống sông Paquo đi bắt cá vược. Cố gắng một cách tuyệt vọng để làm sao thu xếp được cái có lẽ sẽ chẳng thể thu xếp. Anh ta…
“Vậy anh có cho tôi biết chúng ta đang làm gì không?” Nathan hỏi.
“Chúng ta đang tìm kiếm Culbeau.”
“Nhưng anh vừa bảo…” Giọng Nathan nhỏ dần. Khi Mason không nói gì khác, viên cảnh sát thở dài đánh sượt. “Nhà của Culbeau, nơi chúng ta phải tới, cách sáu, bảy dặm, còn chúng ta thì ở đây, phía bắc sông Paquo, tôi với khẩu súng săn nai, và anh với cái miệng câm như hến.”
“Tôi định bảo là nếu Jim hỏi, chúng ta sẽ trả lời rằng chúng ta đang ở đây tìm kiếm Culbeau.”
“Thế việc chúng ta thực sự làm là gì?”
Với khẩu Ruger, Nathan Groomer có thể bắn gãy các cành cây ở khoảng cách năm trăm thước. Sau ba phút anh ta có thể kiếm được một tài xế mang nồng độ cồn 0,05% trong máu ra khỏi xe. Anh ta có thể đẽo những con chim mồi bán cho các tay sưu tập lấy năm trăm đô la mỗi con nếu buồn bán. Nhưng tài năng và trí thông minh của anh ta không vượt quá mức ấy.
“Chúng ta sẽ hạ thằng nhãi”, Mason nói.
“Garrett.”
“Phải, Garrett. Còn đứa nào vào đây nữa? Bọn họ sẽ xua hắn ra cho chúng ta”. Mason hất đầu về phía nữ cảnh sát tóc đỏ và các đồng sự. “Còn chúng ta sẽ hạ hắn.”
“Anh nói “hạ” nghĩa là sao?”
“Chúng ta sẽ bắn hắn, Nathan. Và bắn hắn chết thẳng cẳng.”
“Bắn hắn?”
“Vâng, thưa sếp”, Mason trả lời.
“Khoan. Anh sẽ không phá hủy sự nghiệp của tôi chỉ vì quá máu mê hạ thằng nhãi.”
“Cậu chẳng có sự nghiệp gì hết”, Mason quát. “Cậu đã có một cái nghề. Và nếu cậu muốn giữ cái nghề đó hãy làm như tôi bảo. Nghe đây – tôi từng nói chuyện với hắn. Garrett. Trong những cuộc điều tra ấy, khi hắn giết những người ấy.”
“Ừ. Anh từng nói chuyện với hắn? Tôi nghĩ là vậy, chắc chắn rồi.”
“Và biết hắn bảo tôi gì không?”
“Không. Gì nào?”
Mason cân nhắc xem liệu nói điều này có đáng tin không. Rồi nhớ tới vẻ chăm chú của Nathan khi anh ta dành hàng tiếng đồng hồ đánh nhẵn đuôi một con vịt đẽo từ gỗ thông, sung sướng chìm đắm trong sự lãng quên xung quanh, viên cảnh sát cấp cao tiếp tục: “Garrett bảo nếu cần thiết hắn sẽ hạ bất cứ tay cảnh sát nào cố gắng ngăn cản hắn.”
“Hắn nói thế à? Cái thằng nhãi đó?”
“Phải. Nhìn thẳng vào mắt tôi và nói thế. Và nói hắn cũng đang chờ đợi điều đó. Hắn đã hy vọng tôi là kẻ đầu tiên, nhưng hắn sẽ hạ bất cứ nào nếu cần thiết.”
“Cái thằng con hoang. Anh nói với Jim chứ?”
“Tất nhiên tôi nói rồi. Cậu nghĩ tôi lại không nói à? Nhưng anh ta chẳng mảy may chú ý. Tôi vốn vẫn ưa Jim Bell. Cậu biết vậy mà. Nhưng sự thực thì anh ta quan tâm đến chuyện giữ cái công việc nhàn hạ của anh ta hơn là làm nó.”
Viên cảnh sát gật đầu và Mason có phần kinh ngạc vì Nathan chấp nhận những chi tiết này dễ dàng đến thế, thậm chí không hề phỏng đoán rằng còn có một lý do khác nữa để anh ta quá máu mê hạ thằng nhãi.
Tay thiện xạ suy nghĩ giây lát. “Garrett có súng không?”
“Tôi không biết, Nathan. Nhưng hãy nói tôi nghe xem: việc kiếm một khẩu súng ở Bắc Carolina khó khăn tới mức nào? Câu trả lời là: như trở bàn tay thôi, phải không?”
“Phải.”
“Xem đấy, Lucy và Jesse – thậm chí cả Jim – họ không hiểu thằng nhãi đó như tôi đâu.”
“Hiểu?”
“Tôi muốn nói là hiểu mức độ nguy hiểm.”
“Ồ.”
“Cho tới nay hắn đã giết chết ba người, có thể là cả Todd Wilkes nữa, treo cổ thằng bé đó lên. Hay ít nhất cũng đe dọa nó tới mức nó phải tự tử. Như thế có khác nào là tên sát nhân. Và cô gái bị ong đốt? – Meg ấy? Cậu trông thấy các bức ảnh chụp gương mặt cô gái sau khi bị bầy ong bắp cày đốt chứ hả? Rồi hãy nghĩ về Ed Schaeffer. Cậu và tôi vừa đi uống cùng ông ấy tuần trước. Bây giờ thì ông ấy nằm trong bệnh viện và có thể sẽ vĩnh viễn không tỉnh dậy nữa”.
“Tôi sẽ không làm một tay bắn tỉa đâu, Mase.”
Nhưng Mason Germain không định lui lấy một inch. “Cậu biếttoàn án sẽ xử như thế nào. Hắn mười sáu tuổi. Bọn họ sẽ nói: “Thằng bé tội nghiệp. Mồ côi cả cha lẫn mẹ. Chúng ta hãy cho thằng bé vào trường giáo dưỡng”. Rồi hắn sẽ thoát khỏi đó sau sáu tháng hay một năm và sẽ lặp lại mọi chuyện. Sẽ sát hại một cầu thủ bóng bầu dục đang chuẩn bị trở thành sinh viên phân hiệu Chapel Hill<24> khác, một cô gái khác ở thị trấn chưa từng làm lại ai cả.”
“Nhưng…”
“Đừng lo lắng, Nathan. Tanner’s Corner sẽ mang ơn cậu.”
“Tôi không định nói điều đó. Vấn đề là, nếu chúng ta giết chết hắn, chúng ta mất mọi cơ hội tìm thấy Mary Beth. Chỉ hắn mới biết cô gái ở chỗ nào.” Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Mason bật tiếng cười chua chát. “Mary Beth? Cậu nghĩ cô ấy vẫn còn sống à? Đừng hòng. Garrett đã cưỡng hiếp, đã giết chết, và vùi xác cô ấy dưới một cái hố nông choèn nào đấy rồi. Chúng ta có thể thôi lo lắng cho cô ấy được rồi. Nhiệm vụ của chúng ta bây giờ là làm sao cho chuyện đó chắc chắn không xảy ra với bất cứ ai khác nữa. Cậu theo tôi chứ?”
Nathan im lặng, nhưng tiếng lách cách của băng đạn dài được viên cảnh sát nhét vào khẩu súng trường đã thay câu trả lời.
Chú Thích:
<24> Một phân hiệu của Đại học Tổng hợp Bắc Carolina, đặt tại thị trấn Chapel Hill.
16.06.2015
PHẦN 2: CON NAI CÁI LÔNG TRẮNG
CHƯƠNG 13
Dịch giả: Đinh Minh Hương
Nguồn: NXB Văn học
Nội dung thu gọn
Bên ngoài cửa sổ là một tổ ong bắp cày lớn. Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Mary Beth McConnell đã kiệt sức đăm đăm nhìn nó, tựa đầu vào ô kính bám đầy dầu mỡ của cái nhà tù đang giam giữ cô.
Cái tổ ong - xám xịt, ẩm ướt, đáng kinh tởm - khiến cô tuyệt vọng, hơn bất cứ thứ gì khác xung quanh cái chốn khủng khiếp này.
Hơn cả những chấn song Garrett cẩn thận lắp bên ngoài cửa sổ. Hơn cả cánh cửa gỗ sồi dày với ba ổ khóa to tướng. Hơn cả ký ức về chuyến đi lê lết cùng Thằng Bọ từ Bến tàu kênh Nước đen.
Cái tổ ong bắp cày có hình nón, chóp chúc xuống đất. Nó nằm trên một chạc ba mà Garrett cắm gần cửa sổ. Cái tổ hẳn phải chứa hàng trăm con ong mình vằn đen và vàng bóng loáng cứ chui ra chui vào qua cái lỗ ở dưới đáy tổ. Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Sáng hôm nay, khi cô thức giấc thì Garrett đã đi rồi. Sau khi nằm thêm một tiếng đồng hồ trên giường - chuếnh choáng và buồn nôn do cú đập trời giáng vào đầu đêm hôm qua - Mary Beth lẩy bẩy đứng dậy, nhìn qua cửa sổ. Thứ đầu tiên cô trông thấy là cái tổ ong bên ngoài ô cửa sổ phía sau, sát phòng ngủ.
Lũ ong vốn không tự làm tổ ở đó, chính Garrett đem đặt nó bên ngoài cửa sổ. Đầu tiên, Mary Beth không thể nghĩ ra lý do tại sao. Nhưng rồi, với cảm giác tuyệt vọng, cô hiểu rằng: kẻ bắt giữ cô đã để nó ở đó như lá cờ chiến thắng.
Mary Beth McConnell biết về lịch sử. Cô biết về những cuộc chiến tranh, biết về những đạo quân chinh phục những đạo quân khác. Mục đích của các lá cờ bình thường và của các lá cờ hiệu không chỉ để xác định phe này hay phe kia, mà còn để nhắc nhở là kẻ từng bị đánh bại bây giờ nắm trong tay quyền hành.
Và Garrett đã thắng.
Ờ, gã đã thắng trận đánh ấy, nhưng kết quả của cuộc chiến tranh thì chưa được quyết định.
Mary Beth ấn vào vết thương trên đầu. Đó là một cú đập khủng khiếp nơi thái dương và làm trầy mất ít da. Cô tự hỏi liệu nó có bị nhiễm trùng không.
Mary Beth tìm thấy sợi dây thun trong ba lô, cô buộc vồng mái tóc dài màu nâu lên. Mồ hôi chảy xuống cổ, và cô cảm thấy khát ghê gớm. Cô tắc thở vì cái nóng ngột ngạt trong căn phòng đóng kín. Cô nghĩ tới việc cởi chiếc sơ mi vải bò dày cộp ra - sợ có rắn rết hay nhện, cô bao giờ cũng mặc áo dài tay khi đào bới gần các bụi rậm, các đám cỏ cao. Nhưng bây giờ tuy nóng, cô quyết định không cởi chiếc sơ mi. Cô chẳng biết lúc nào thì kẻ bắt giữ cô trở về, bên trong cô chỉ mặc mỗi chiếc áo lót ren màu hồng, mà Garrett Hanlon thì chắc chắn chẳng cần đến bất cứ sự khuyến khích nào trong cái lĩnh vực ấy.
Liếc nhìn tổ ong lần cuối cùng, Mary Beth rời cửa sổ. Rồi cô lại đi xung quanh ngôi nhà ba phòng tồi tàn, mất công vô ích tìm kiếm khe hở nào đó để trốn thoát. Đây là một ngôi nhà kiên cố, xây dựng từ lâu lắm rồi. Tường dày - làm bằng các khúc cây đẽo sơ sài đóng đinh vào những tấm ván nặng. Bên ngoài ô cửa sổ phía trước là bãi cỏ cao trải rộng đến hàng cây to ở cách đó gần trăm thước. Bản thân ngôi nhà cũng nằm trên một khoảng đất đầy cây to. Nhìn qua ô cửa sổ phía sau - ô cửa sổ có tổ ong bắp cày - cô chỉ trông thấy được, qua những thân cây, mặt nước sáng lấp lánh của cái ao mà ngày hôm qua họ đã đi men theo bờ để vào đây.
Chính những căn phòng tuy nhỏ nhưng sạch sẽ một cách đáng ngạc nhiên. Phòng khách bày chiếc đi văng dài sơn hai màu nâu và vàng kim, mấy chiếc ghế dựa cũ kỹ đặt xung quanh chiếc bàn ăn rẻ tiền, chiếc bàn thứ hai xếp cả chục lọ cỡ một lít vốn đựng nước quả bây giờ đậy nắp lưới, nhốt đầy côn trùng mà Garrett sưu tầm được. Căn phòng thứ hai có một tấm nệm và một tủ gương trang điểm. Căn phòng thứ ba không đồ đạc gì trừ vài hộp sơn màu nâu còn phân nửa để trong góc, xem chừng Garrett mới quét sơn phía ngoài ngôi nhà. Màu sơn tối, gây tâm trạng chán nản và Mary Beth không hiểu tại sao gã lại chọn - cho tới lúc cô nhận ra rằng nó đồng màu với vỏ các thân cây mọc xung quanh. Một kiểu ngụy trang. Và cô lại nghĩ cái điều ngày hôm qua cô đã nghĩ - rằng gã trai thận trọng hơn nhiều, nguy hiểm hơn nhiều so với trước đây cô tưởng.
Phòng khách xếp hàng đống đồ ăn - đồ ăn vặt và hàng dãy rau quả đóng hộp - nhãn hiệu Farmer John. Từ các nhãn hộp, một ông chủ trang trại lãnh đạm mỉm cười với Mary Beth, hình ảnh này cũng lỗi thời y như hình ảnh của nhãn hiệu Betty Crocker có từ thập niên 1950. Cô tuyệt vọng lục soát khắp ngôi nhà tìm kiếm nước hoặc sô đa - bất cứ thứ gì uống được - nhưng không tìm thấy gì cả. Trong rau quả đóng hộp sẽ có nước ép, nhưng không có cái mở hộp hay bất cứ dụng cụ gì để mở. Cô còn mang theo ba lô, nhưng đã bỏ lại các dụng cụ khảo cổ ở Bến tàu kênh Nước đen. Cô thử đập một hộp vào cạnh bàn cho vỡ ra, nhưng hộp kim loại cứng quá.
Dưới gác có cái hầm chứa mà người ta xuống qua ô cửa trổ trên sàn căn phòng chính của ngôi nhà. Mary Beth liếc nhìn và rùng mình kinh tởm, sởn gai ốc. Đêm hôm qua sau khi Garrett đi ra ngoài một lúc - Mary Beth thu hết can đảm, lần theo những bậc cầu thang ọp ẹp xuống cái tầng hầm trần thấp tè, tìm kiếm một lối thoát khỏi ngôi nhà kinh khủng này. Nhưng không có lối thoát nào cả - chỉ có hàng chục chai lọ, hộp, túi cũ.
Cô không nghe thấy tiếng Garrett trở về và đột ngột, gã nhảy ào xuống cầu thang, lao tới chỗ cô. Cô thét lên và cố gắng chạy trốn, nhưng việc tiếp theo mà cô nhớ là thấy mình nằm trên sàn nhà bẩn thỉu, máu vấy đầy ngực và đông bết lại trong tóc, còn Garrett, cơ thể bốc mùi lâu ngày chưa tắm gội, từ từ đứng dậy, hai cánh tay vòng ôm lấy cô, ánh mắt dán chặt vào ngực cô. Gã bế cô lên và cô cảm thấy cái ấy của gã cứng ngắc áp sát cơ thể cô trong lúc gã chậm rãi đưa cô lên gác, làm ngơ mọi sự phản kháng...
Không! Mary Beth tự nhủ. Đừng nghĩ tới điều đó.
Đừng nghĩ tới cái đau đớn. Hay nỗi sợ hãi.
Và bây giờ Garret đang ở đâu?
Ngày hôm qua, Mary Beth khiếp sợ trong lúc gã cứ lững thững đi xung quanh ngôi nhà như thế nào thì bây giờ cô cũng khiếp sợ gã bỏ quên cô như thế. Hay thiệt mạng vì một tai nạn.
Hay ăn đạn của các cảnh sát đang tìm kiếm cô. Và cô sẽ chết khát ở đây. Mary Beth McConnell nhớ tới dự án mà giáo viên hướng dẫn đề tài tốt nghiệp cho cô và cô tham gia: công trình khai quật do Hội Sử học Bắc Carolina tài trợ được tiến hành đối với một ngôi mộ từ hồi thế kỷ XIX, để thử ADN trên thi thể chôn bên trong ngôi mộ xem liệu đó có phải là thi thể của hậu duệ Hầu tước Francis Drake như một truyền thuyết địa phương vẫn khẳng định không. Khi nhấc nắp quan tài ra, cô kinh hoàng thấy các xương cánh tay tử thi giơ lên, và vẫn còn những vết cào phía bên trong nắp quan tài.
Người đàn ông đã bị chôn sống.
Ngôi nhà này sẽ trở thành chiếc quan tài của cô. Và chẳng một ai...
Gì thế kia? Nhìn qua ô cửa sổ phía trước, Mary Beth cho rằng cô đã trông thấy một bóng người chuyển động ngay ở bìa rừng đằng xa. Qua các bụi rậm và lá cành, cô nghĩ đó có lẽ là một người đàn ông. Vì quần áo và chiếc mũ rộng vành ông ta đang mang thẫm màu, cùng với tư thế tự tin, dáng điệu, cô tự nhủ thầm: ông ta trông giống một nhà truyền giáo nơi hoang dã.
Nhưng khoan nào... Thực sự có ai ở kia ư? Hay đây chỉ là ánh sáng trên những tán cây? Mary Beth chẳng thể khẳng định được.
“Ở đây!”, cô kêu lên. Tuy nhiên, cửa sổ bị đóng kín bằng đinh, và thậm chí nếu nó có mở thì cô cũng không chắc ông ta sẽ nghe thấy tiếng kêu yếu ớt phát ra từ cổ họng khô khốc của cô, ở khoảng cách xa ngần này.
Mary Beth vớ lấy cái ba lô, hy vọng cô vẫn mang theo chiếc còi mà bà mẹ mắc chứng hoang tưởng của cô mua cho cô phòng trường hợp cần tự vệ. Mary Beth đã bật cười trước ý tưởng đó - một chiếc còi phòng trường hợp bị cưỡng hiếp ở Tanner’s Corner? - còn bây giờ thì cô đang tuyệt vọng tìm kiếm nó.
Nhưng chiếc còi đâu mất rồi. Có thể Garrett phát hiện ra nó và lấy nó đi khi Mary Beth bất tỉnh trên tấm nệm đẫm máu. Ờ, dù sao cô cũng sẽ kêu cứu - kêu cứu to hết mức có thể, bất chấp cái cổ họng đang khát cháy. Mary Beth vớ lấy một trong những chiếc lọ đựng côn trùng, định ném nó qua kính cửa sổ. Cô đưa nó về phía sau như một cầu thủ ném bóng chuẩn bị ném cú cuối cùng chẳng ai đánh được. Rồi bàn tay cô lại hạ xuống. Không! Nhà truyền giáo đã biến mất. Chỗ ông ta xuất hiện lúc nãy bây giờ chỉ là một thân liễu sẫm màu, cỏ và một cây nguyệt quế, đung đưa trong gió nóng bỏng.
Có thể đó là tất cả những gì Mary Beth vừa nhìn thấy.
Có thể ông ta chưa hề ở đấy.
Đối với Mary Beth McConnell - nóng, khiếp hãi, bị cơn khát hành hạ - cái thực và cái ảo bây giờ hòa trộn vào nhau và mớ truyền thuyết mà cô từng nghiên cứu về vùng nông thôn Bắc Carolina đáng sợ này dường như đều trở nên thực. Có thể nhà truyền giáo ấy chỉ là một trong số các nhân vật tưởng tượng, giống như Nàng tiên vùng Hồ Drummond.
Giống như những hồn ma khác của đầm lầy Sầu Thảm.
Giống như Con Nai Cái Lông Trắng trong truyền thuyết của người Anh điêng - câu chuyện đang trở nên giống đến đáng sợ câu chuyện xảy ra cho chính cô.
Đầu đau nhức, mặt mày xây xẩm vì nóng, Mary Beth nằm xuống chiếc đi văng cũ rích, nhắm mắt lại, nhìn những con ong bắp cày bay lượn gần đó, rồi chúng chui vào cái tổ xám xịt, lá cờ chiến thắng của kẻ bắt giữ cô.
Lydia cảm thấy bàn chân cô chạm xuống đến lòng suối và cô đạp để ngoi lên.
Ngạt thở, phì nước trong miệng ra, cô thấy mình đã trôi xuôi theo dòng suối tới một vũng lầy cách cối xay chừng năm mươi feet. Hai bàn tay vẫn bị trói quặt về phía sau, cô đạp mạnh để lấy thăng bằng, nhăn mặt đau đớn. Mắt cá chân cô đã bị trẹo hoặc vỡ do đập vào guồng bánh xe nước khi cô nhảy xuống cửa cống. Tuy nhiên nước chỗ này sâu phải tới sáu hoặc bảy feet và nếu không đạp cô sẽ chết đuối.
Cảm giác đau ở mắt cá chân thật kinh khủng, nhưng Lydia cố gắng hết sức để ngoi lên. Cô nhận ra rằng bằng cách hít không khí đầy phổi và lật ngửa người, cô có thể nổi và giữ được mặt bên trên mặt nước trong lúc dùng bàn chân lành lặn đạp dần dần vào bờ.
Vừa di chuyển chừng năm feet thì cô cảm thấy một cái gì đó lạnh lẽo trườn qua phía sau cổ, quấn xung quanh đầu và tai, hướng tới mặt cô. Rắn! Cô khiếp đảm nhận ra. Vụt hiện lên trong đầu một ca cấp cứu tháng trước - người đàn ông bị rắn chuông nước cắn, cánh tay sưng to gần gấp đôi, anh ta đau đến cuồng loạn. Cô xoay tròn và con rắn cuồn cuộn trườn qua miệng cô. Cô thét lên. Nhưng với hai lá phổi hết không khí và chẳng có gì giữ cho nổi, cô chìm xuống nước, bắt đầu ngạt thở. Cô không còn nhìn thấy con rắn nữa. Nó đâu rồi, đâu rồi? Cô điên cuồng nghĩ. Một phát cắn trúng mặt có thể khiến cô bị mù. Trúng động mạch cảnh hoặc tĩnh mạch cảnh thì cô tiêu đời.
Đâu rồi ? Nó ở bên trên cô à? Đang chuẩn bị mổ một phát?
Xin Người, xin Người, xin hãy cứu con, cô nghĩ tới vị thần hộ mệnh.
Và có lẽ là lời cầu xin của Lydia đã thấu tới tai vị thần đó. Vì khi lại ngoi lên khỏi mặt nước, cô chẳng còn nhìn thấy bóng dáng con vật đâu. Cuối cùng thì hai bàn chân đi bít tất dài cũng chạm được đến lòng suối nhớp nhúa - cô bị tuột giày khi lao xuống nước. Cô ngừng một chút, hít thở và cố gắng trấn tĩnh. Cô chậm chạp, nhọc nhằn lê về phía bờ, trèo lên cái dốc dựng đứng đầy bùn lầy, đầy những cành cây trơn trượt, tầng tầng lớp lớp lá mục - nó khiến cô cứ loạng choạng trèo lên hai bước thì lại tụt một bước. Hãy cẩn thận với đất sét Carolina, cô tự nhắc nhở mình, nó sẽ giữ người ta y như cát lầy vậy.
Khi Lydia vừa lảo đảo bò được lên cạn, một phát đạn, ở rất gần, nổ xé không khí.
Lạy Chúa, Garrett có súng! Gã đang bắn!
Lydia lại buông mình xuông nước, lặn cho chìm nghỉm. Cô lặn lâu hết mức có thể nhưng rốt cuộc vẫn phải ngoi lên. Hổn hển, cô ngoi lên khỏi mặt nước đúng lúc con hải ly quật đuôi phát nữa, tạo tiếng nổ to thứ hai. Con vật mất hút về phía cái đập của nó một cái đập lớn, dài tới hai trăm feet. Cô cảm thấy muốn bật cười rũ rượi trước nỗi sợ hãi ảo, nhưng cố gắng kiềm chế.
Rồi Lydia ngã dúi vào đám lau lách, bùn lầy. Cô nằm nghiêng người, hổn hển thở và phì nước khỏi miệng. Năm phút sau cô lấy lại được hơi thở. Cô vặn mình ngồi dậy, nhìn xung quanh.
Không thấy bóng dáng Garrett đâu cả. Lydia dồn hết sức để đứng lên. Cô cố gắng dứt hai bàn tay ra, tuy nhiên, mặc dù bị ướt sũng, băng dính vẫn dính chặt. Từ đây, cô có thể trông thấy cái ống khói cháy dở của cối xay. Cô xác định phương hướng và xác định được hướng phải đi để gặp lối mòn sẽ đưa cô trở về phía nam sông Paquo, trở về nhà. Cô cách nó không xa, cô mới trôi xuôi theo con lạch một đoạn không xa lắm.
Nhưng Lydia chẳng thể nào buộc mình nhúc nhắc được.
Cô cảm thấy tê liệt đi vì sợ hãi và tuyệt vọng.
Rổi cô nghĩ tới chương trình ti vi cô vẫn ưa thích - Bàn tay thiên thần<25> - và khi nghĩ tới chương trình đó, trong cô hiện lên một kỷ niệm khác, kỷ niệm về lần gần đây nhất cô xem. Khi chương trình vừa kết thúc và đến phần quảng cáo, cánh cửa ngôi nhà cô bật mở và bạn trai cô đứng đấy với một két sáu chai bia. Anh ấy hầu như chưa bao giờ bất ngờ đến thăm cô và cô đã sung sướng đến mê mẩn. Họ cùng nhau trải qua hai tiếng đồng hết sức thú vị. Cô đi đến kết luận rằng vị thần hộ mệnh của cô đem đến kỷ niệm ấy đúng lúc này như là dấu hiệu cho thấy luôn luôn có hy vọng khi người ta tuyệt vọng nhất.
Tâm trí bám chắc lấy cái ý nghĩ đó, Lydia khó khăn vặn mình đứng lên, bắt đầu vượt qua lau lách và cỏ đầm lầy. Cô nghe thấy một âm thanh phát ra từ cổ họng ở gần. Một tiếng gừ gừ yếu ớt. Cô biết xung quanh đây, phía bắc sông Paquo, có những con linh miêu. Có cả gấu và lợn lòi. Nhưng mặc dù chân khập khiễng đau đớn, Lydia vẫn bước về phía lối mòn tự tin như thể cô đang đi tua ở bệnh viện, phát thuốc, nói những câu chuyện phiếm và động viên tinh thần các bệnh nhân của cô.
Jesse Corn tìm thấy một cái túi.
“Này! Nhìn này. Tôi tìm thấy cái này. Một cái bao bố.”
Sachs đi xuống một cái vách dốc thoai thoải ở rìa mỏ đá, tới chỗ anh chàng cảnh sát đang đứng chỉ vào vật gì đó nằm trên gờ đá vôi đã bị nổ mìn san bằng. Cô có thể trông thấy vô số khe được khoan vào những khối đá xám xịt để đặt dynamite. Thảo nào mà Rhyme phát hiện ra nhiều nitrate thế, nơi này từng là bãi phá đá lớn.
Sachs bước tới chỗ Jesse. Anh ta đang đứng trước một cái túi vải cũ. “Rhyme, anh nghe thấy em nói không?”, Sachs gọi vào điện thoại.
“Báo cáo đi. Nhiễu lắm, nhưng anh nghe được.”
“Bọn em tìm thấy một cái túi ở đây”, Sachs nói với Rhyme. Rồi cô hỏi Jesse: “Các anh gọi nó là gì?”.
“Bao bố. Đây là cách người dân ở đây gọi một cái túi vải gai.”
Sachs bảo Rhyme: “Một cái bao bố cũ. Hình như có cái gì đó bên trong.”
Rhyme hỏi: “Garrett để đó à?”
Sachs nhìn xuống. Nơi đáy và vách mỏ đá tiếp giáp nhau. “Đây chắc chắn là các dấu chân của Garrett và Lydia. Hai người đã đi lên mép mỏ đá.”
“Chúng ta hãy đuổi theo”, Jesse nói.
“Chưa”. Sachs đáp lại. “Chúng ta cần kiểm tra cái túi đã.”
“Hãy mô tả nó xem nào” nhà hình sự học ra lệnh.
“Vải gai. Cũ. Dài chừng hai mươi tư inch, rộng chừng ba mươi sáu inch. Không đựng gì nhiều. Miệng túi kín. Không buộc, chỉ xoắn lại.
“Hãy thận trọng mở nó ra xem sao, nhớ đề phòng bẫy.”
Sachs khe khẽ kéo một góc túi xuống, ngó vào bên trong.
“An toàn, Rhyme.”
Lucy và Ned đi xuống lối mòn và cả bốn người đứng xung quanh cái túi y như thể nó là cái xác chết đuối được vớt từ dưới mỏ đá lên.
“Có gì bên trong?”
Sachs xỏ đôi găng cao su, chúng mềm oặt ra dưới tác dộng của ánh nắng mặt trời. Hai bàn tay cô ngay lập tức đổ mồ hôi vì ngứa ngáy và nóng.
“Các vỏ chai nước. Nhãn hiệu Deer Park. Không nhãn giá, không nhãn kiểm kê. Giấy gói hai phong bích quy bơ lạc với phó mát nhãn hiệu Planters. Cũng không nhãn giá. Anh có muốn lấy mã UPC<26> để lần ra nơi gửi hàng không?”
“Có thể, nếu chúng ta có một tuần”, Rhyme lẩm bẩm. “Không, không phải mất công. Các chi tiết khác trên cái túi nào”, anh ra lệnh.
“Có một ít chữ in bên trên. Nhưng mờ quá không đọc được. Có ai xác định được là gì không?”, Sachs hỏi những người khác.
Chẳng ai đọc được.
“Có ý kiến gì về mục đích sử dụng ban đầu của nó không?”, Rhyme hỏi.
Sachs nhặt cái túi lên ngửi. “Mùi mốc. Đã bị vứt đâu đó một thời gian dài. Không thể nói nó từng đựng gì.” Sachs lộn trái cái túi ra và lấy bàn tay đập mạnh. Mấy hạt ngô cũ, nhăn nheo rơi xuống đất.
“Ngô, Rhyme.”
“Trùng họ với tôi”, Jesse bật cười.<27>
Rhyme hỏi: “Có các trang trại nào xung quanh đây không?”
Sachs nhắc lại câu hỏi cho đội tìm kiếm.
“Trang trại sữa thì có, chứ không phải ngô”, Lucy nói, nhìn Ned và Jesse, hai người này gật đầu.
Jesse nói: “Nhưng người ta cho bò ăn ngô”.
“Chắc chắn thế, Ned nói. “Tôi phỏng đoán rằng nó từ một cửa hiệu bán thức ăn chăn nuôi. Hoặc từ một kho hàng.”
“Anh nghe thấy không, Rhyme?”
“Thức ăn chăn nuôi. Được rồi. Anh sẽ bảo Ben và Jim kiểm tra. Còn gì nữa, Sachs?”
Cô nhìn hai bàn tay mình. Chúng đen nhẻm. Cô lật cái túi lại. “Có vẻ như có muội than trên túi, Rhyme. Nó không bị cháy, nhưng nó đã ở chỗ nào đó từng xảy ra hỏa hoạn.”
“Có gì để xác định là chỗ nào không?” Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
“Có những vụn than củi, có vẻ vậy. Nên em phỏng đoán về một chỗ nào đó có gỗ.”
“Được rồi”, Rhyme nói. “Sẽ bổ sung chi tiết này vào danh sách chứng cứ.”
Sachs liếc nhìn dấu chân của Garrett và Lydia. “Bọn em lại tiếp tục đuổi theo hai người đây”, Cô bảo Rhyme.
“Anh sẽ gọi khi có thêm thông tin gì.”
Sachs nói với đội tìm kiếm: “Quay lại trên kia thôi” Cảm thấy những cơn đau nhói trong đầu gối, cô đăm đăm nhìn lên mép mỏ đá, lẩm bẩm: “Lúc chúng ta xuống đây thì có vẻ nó chẳng cao đến thế.”
“Ồ, này, đây là một quy luật - núi đồi bao giờ cũng cao gấp đôi khi đi lên so với khi đi xuống”, Jesse Corn, một kho các câu châm ngôn địa phương, vừa nói vừa lịch sự để Sachs bước lên lối mòn hẹp trước mình.
Chú Thích:
<25> Nguyên văn là “Touched by an angle”.
<26> UPC (viết tắt của Usagc Parameter Control): Điều khiển Thông số Sử dụng (thẻ ATM).
<27> “Corn” có nghĩa là “ngô”.
16.06.2015
PHẦN 2: CON NAI CÁI LÔNG TRẮNG
CHƯƠNG 14
Dịch giả: Đinh Minh Hương
Nguồn: NXB Văn học
Nội dung thu gọn
Lincoln Rhyme, phớt lờ con nhặng xanh bóng bay vù vù gần đó, chăm chú nhìn bảng chứng cứ tiếp theo vừa lập xong.
TÌM THẤY TẠI HIỆN TRƯỜNG GIÁN TIẾP - MỎ ĐÁ
Túi vải gai cũ - Không đọc được tên in bên trên
Ngô - Thức ăn chăn nuôi?
Muội than trên túi
Nước đóng chai nhãn hiệu Deer Park
Bích quy phó mát nhãn hiệu Planters
Những chứng cứ khác thường nhất là những chứng cứ hữu ích nhất. Đối với Rhyme, không khi nào hạnh phúc hơn lúc anh tìm thấy cái gì đó hoàn toàn chưa xác định được. Vì điều đó có nghĩa rằng nếu anh có thể xác định được nó thì anh giới hạn được phạm vi truy tìm.
Nhưng những thứ này - những chứng cứ mà Sachs tìm thấy tại mỏ đá - thuộc loại phổ biến. Nếu đọc được các chữ in bên trên túi thì anh có lẽ sẽ chỉ phải truy tìm đến một nguồn duy nhất thôi. Tuy nhiên lại không đọc được. Nếu vỏ chai nước và giấy gói bích quy có nhãn giá thì họ có lẽ sẽ lần ra cửa hiệu nào đã bán chúng, sẽ lần ra nhân viên bán hàng, người này sẽ hình dung lại Garrett và biết đâu sẽ cung cấp được những thông tin liên quan tới nơi gã lẩn trốn. Tuy nhiên lại không có nhãn giá gì hết. Và gỗ bị cháy sém? Chi tiết ấy dẫn tới tất cả các bữa tiệc thịt nướng ngoài trời ở quận Paquenoke. Thật vô ích.
Những hạt ngô có thể hữu ích - Jim Bell và Steve Farr ngay bây giờ đang gọi điện cho các cửa hiệu bán thức ăn chăn nuôi - nhưng Rhyme ngờ rằng các nhân viên bán hàng sẽ chẳng nói gì hơn là “Vâng. Chúng tôi bán ngô. Đựng trong các túi vải gai cũ. Giống như mọi người vẫn làm.”
Chết tiệt! Anh hoàn toàn không biết gì về nơi này. Anh cần hàng tuần, thậm chí hàng tháng mới có cảm nhận về nơi này được.
Nhưng, tất nhiên, họ không có hàng tuần hay hàng tháng.
Ánh mắt anh đảo từ bảng này sang bảng kia, nhanh chẳng kém con nhặng.
TÌM THẤY TẠI HIỆN TRƯỜNG TRỰC TIẾP - BẾN TÀU KÊNH NƯỚC ĐEN
Khăn giấy Kleenex thấm máu
Bụi đá vôi
Nitrate
Phốt phát
Ammonia
Chất tẩy
Camphene
Chẳng suy luận được gì thêm từ bảng này.
Quay lại với những cuốn sách về côn trùng, Rhyme quyết định.
“Ben, cuốn sách đằng kia - Thế giới thu nhỏ. Tôi muốn xem nó.”
“Vâng, thưa ông.” Anh chàng trẻ tuổi nói lơ đãng, mắt nhìn bảng chứng cứ. Anh ta cầm cuốn sách lên, giơ ra cho Rhyme.
Mất một lát, cuốn sách lơ lửng trong khoảng không ngang ngực nhà hình sự học. Rhyme giễu cợt nhìn Ben, anh chàng liếc nhìn lại và trong tích tắc, giật nảy mình, lùi về phía sau, nhận ra rằng anh ta đang đưa một vật cho người sẽ cần đến sự can thiệp thần kỳ mới có thể đón lấy nó được.
“Ôi, trời ơi, ông Rhyme... nghe này”, Ben buột miệng, khuôn mặt tròn đỏ lựng lên. “Tôi vô cùng xin lỗi. Tôi đang không chú ý, thưa ông. Trời ơi, thật ngu ngốc. Tôi thực sự...” Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
“Ben”, Rhyme nói giọng đều đều. “Câm ngay cái mồm lại.”
Anh chàng khổng lờ sững sờ chớp mắt, nuốt nước bọt. Cuốn sách, bé tí trong bàn tay đồ sộ của anh ta, hạ xuống. “Tôi chẳng may, thưa ông. Tôi đã bảo tôi đang...”
“Câm mồm.”
Ben không nói nữa. Anh ta ngậm miệng lại, nhìn xung quanh căn phòng tìm kiếm sự cứu vớt nhưng xem ra sẽ chẳng có sự cứu vớt nào. Thom đứng dựa vào tường, im lặng, hai tay khoanh trước ngực, chẳng định làm một người lính gìn giữ hòa bình của Liên Hiệp Quốc.
Rhyme tiếp tục hạ giọng lầm bầm: “Cậu đang cư xử quá rón rén và tôi chán ngấy cái kiểu này rồi. Xin thôi trò khúm núm chết tiệt ấy của cậu ngay đi.”
“Khúm núm? Tôi chỉ đang cố gắng không làm mất lòng một người mà... Ý tôi là...”
“Không, không đúng. Cậu đang nghĩ xem có cách quái nào để mau mau thoát khỏi đây mà không phải nhìn tôi nhiều hơn mức cần thiết, không phải làm căng thẳng cái hệ thần kinh nhỏ bé mong manh của chính bản thân cậu.”
Đôi vai đồ sộ cứng lại. “Chà, bây giờ, thưa ông, tôi nghĩ như thế là không hoàn toàn công bằng.”
“Mẹ kiếp. Đã đến lúc tôi tháo găng tay ra...” Rhyme cười hằn học. “Cậu thấy phép ẩn dụ đó thế nào? Tôi, tháo găng tay ra? Một việc mà lúc này tôi sẽ không thể thực hiện nhanh chóng cho lắm, phải không?... Để bông lơn về những kẻ què quặt thì câu ấy thế nào hả?”
Ben tha thiết muốn chạy trốn - muốn biến mất qua cái khung cửa kia - nhưng đôi chân sừng sững của anh ta bị chôn chặt xuống, giống như hai thân cây sồi.
“Tôi có bị bệnh truyền nhiễm đâu”, Rhyme quát. “Cậu nghĩ nó sẽ lây lan à? Nó không lây lan theo cách đó đâu. Cậu bước qua bước lại, cậu hít thở ở đây, và rồi người ta sẽ cho cậu lên một chiếc xe lăn mà đưa đi. Khỉ gió, cậu thậm chí e sợ rằng nếu nhìn tôi thì rốt cuộc cậu cũng giống như tôi vậy.”
“Không đúng!”
“Không đúng à? Tôi nghĩ là đúng đấy. Làm thế nào mà tôi lại khiến cậu sợ hãi đến thế?”
“Không!”, Ben lắp bắp. “Không hề!”
Rhyme nổi cơn thịnh nộ. “Ồ, có đấy, tôi có khiến cậu sợ hãi đấy. Cậu sợ hãi phải ở trong cùng một căn phòng với tôi. Cậu là thằng hèn nhát khốn kiếp.”
Anh chàng to lớn vươn người ra phía trưóc, nước bọt xì qua môi, quai hàm giật giật quát trả: “Ờ, đ.mẹ, Rhyme!”. Trong khoảnh khắc, anh ta tức giận đến mức không nói được, rồi tiếp tục. “Tôi tới đây vì dì tôi nhờ. Tất cả các kế hoạch của tôi đều rối loạn và tôi đếch nhận được một xu! Tôi nghe thấy ông chỉ huy những người xung quanh cứ như ông chúa lắm ấy. Tôi muốn nói, tôi đếch biết ông chui ra từ chỗ quái quỷ nào, thưa ông…” Giọng anh ta nhỏ dần và anh ta nheo mắt nhìn Rhyme đang cười ha hả.
“Gì thế?”, Ben quát. “Ông đang cười cái quái quỷ gì?”
“Thấy có dễ dàng không nào?”, Rhyme hỏi, bây giờ chỉ còn tủm tỉm cười. Thom cũng đang cố gắng kìm một nụ cười mỉm.
Thở mạnh và đứng thẳng người lên, Ben chùi miệng. Cảnh giác, tức tối. Anh ta lắc đầu. “Ông muốn nói gì hả? Cái gì dễ dàng?”
“Nhìn thẳng vào tôi và bảo tôi rằng tôi là đồ ngu ngốc.” Rhyme tiếp tục, giọng bình thản: “Ben, tôi hoàn toàn giống bất kỳ ai. Tôi không thích khi người ta cư xử với tôi y như thể với một con búp bê sứ. Và tôi biết họ chẳng bao giờ buồn bận tâm rằng chính họ sẽ khiến tôi phải rạn vỡ.”
“Ông đã lừa tôi. Ông đã nói những điều đó chỉ để chọc tức tôi.”
“Xin hãy nói là: chỉ để cậu hiểu tôi.” Rhyme không chắc chắc rằng có lúc nào Ben trở thành một Henry Davett được - một người chỉ quan tâm đến cái cốt lõi, cái sức mạnh tinh thần, của người ta và bỏ qua cái vỏ bề ngoài. Nhưng ít nhất thì Rhyme cũng đã đẩy cho nhà động vật học đi được vài bước trên con đường khai sáng đầu óc.
“Tôi nên bước ra qua cánh cửa kia và đi hẳn luôn.”
“Nhiều người sẽ hành động như vậy, Ben. Nhưng tôi cần cậu. Cậu phù hợp với công việc, có khiếu khám nghiệm. Nào, tiếp tục nào. Chúng ta đã xua đi phần nào nỗi căng thẳng, e ngại. Hãy quay lại với công việc.”
Ben bắt đầu đặt cuốn Thế giới thu nhỏ lên thiết bị lật trang - Vừa làm anh ta vừa liếc nhìn Rhyme, hỏi: “Thế thực sự có nhiều người vẫn nhìn thẳng vào ông và gọi ông là đồ con hoang à?”
Rhyme, đăm đăm nhìn bìa của cuốn sách, để Thom trả lời hộ: “Ồ, chắc chắn rồi. Tất nhiên chỉ sau khi họ hiểu anh ấy.” Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Lydia vẫn chỉ cách cối xay chừng một trăm feet.
Cô di chuyển nhanh hết mức có thể về phía lối mòn sẽ đưa cô tới với tự do, nhưng mắt cá chân cô đau nhức nhối và làm chậm bước cô rõ rệt. Vả lại, cô cũng đành di chuyển từ từ - việc len lỏi qua các bụi rậm một cách tuyệt đối im lặng đòi hỏi người ta sử dụng đến đôi bàn tay. Nhưng, giống như những nạn nhân của chứng tổn thương não mà cô từng chăm sóc tại bệnh viện, cô không giữ cho mình được hoàn toàn thăng bằng và chỉ có thể loạng choạng bước từ chỗ trống này sang chỗ trống khác, gây nên tiếng động nhiều hơn ý muốn.
Lydia vòng ra xa đằng trước cối xay. Ngừng lại. Không thấy bóng dáng Garrett. Tịnh không một âm thanh trừ tiếng nước của con suối đổi dòng đổ vào cái vũng đáng nguyền rủa.
Thêm năm feet rồi mười feet.
Nào, hỡi thiên thần hộ mệnh, Lydia tự nhủ thầm. Hãy ở lại với con thêm một chút nữa. Hãy giúp đỡ con vượt qua chỗ này. Xin Người... Chỉ vài phút thôi và chúng ta sẽ trở về nhà, tự do.
Ôi, trời ơi, đau quá. Lydia không biết liệu có phải gãy xương không. Mắt cá chân cô sưng vù, và cô biết rằng, nếu đúng là bị gãy xương, cứ đi mà không có gì chống đỡ như thế này có thể khiến tình trạng trầm trọng hơn gấp mười lần. Da chỗ đó cũng thâm tím lại - dấu hiệu của sự vỡ mạch. Có thể xảy ra nhiễm độc máu. Cô nghĩ đến nguy cơ hoại tử. Phẫu thuật cắt bỏ chân. Nếu điều này xảy ra, bạn trai cô sẽ nói gì? Cô đồ là anh ấy sẽ chia tay cô. Có tốt đẹp nhất cũng chỉ là một mối quan hệ hờ hững - ít nhất là về phía anh ấy. Ngoài ra, từ kinh nghiệm làm việc với bệnh nhân ung bướu, cô còn biết rằng khi bắt đầu mất đi các bộ phận cơ thể có nghĩa là ta bắt đầu mất đi mọi người xung quanh.
Lydia ngừng lại, nghe ngóng, ngó nghiêng. Garrett đã chuồn rồi ư? Gã đã từ bỏ cô và đi ra Bờ Ngoài với Mary Beth?
Lydia tiếp tục di chuyển về phía lối mòn sẽ đưa cô quay lại mỏ đá. Một khi tìm thấy lối mòn đó, cô thậm chí sẽ phải di chuyển thận trọng hơn - đề phòng cái bẫy. Cô không nhớ chính xác Garrett đặt bẫy chỗ nào.
Thêm ba mươi feet nữa… và nó kia - lối mòn sẽ đưa Lydia trở về nhà.
Cô lại ngừng lại, lắng nghe. Không có gì. Cô để ý thấy một con rắn da thẫm màu, bình thản nằm sưởi nắng trên gốc cây tuyết tùng già. Tạm biệt, cô nhủ thầm với nó. Tao trở về nhà đây.
Lydia vừa dợm bước về phía trước.
Và thế là bàn tay Thằng Bọ đột ngột thò ra từ dưới lùm nguyệt quế lá sum suê, tóm lấy cổ chân lành lặn của cô. Mất thăng bằng, hai bàn tay không sử dụng được, Lydia chẳng thể làm gì khác ngoài việc vặn người sang bên, và bởi vậy đã ngã đập đôi mông chắc nịch xuống đất. Con rắn bị tiếng thét cửa cô đánh thức, lẩn đi đằng nào.
Garrett leo lên người Lydia, ghìm chặt cô xuống đất, giận dữ đỏ mặt. Gã hẳn đã nằm đây mười lăm phút. Im lặng, không nhúc nhích một inch cho tới lúc cô ở khoảng cách đủ gần. Y như một con nhện chờ đợi cú tiêu diệt mồi tiếp theo.
“Xin cậu”, Lydia lẩm bẩm, choáng váng đến không thở được và tràn ngập nỗi khiếp sợ rằng thiên thần hộ mệnh đã phản bội cô. “Đừng làm hại...”
“Im”, Garrett giận dữ thì thào, ngó nghiêng xung quanh “Mày làm tao quá sức chịu đựng rồi.” Gã thô bạo đẩy Lydia đứng dậy. Gã có thể nắm lấy cánh tay cô, lật người cô lại và kéo cô đứng dậy theo cách ấy. Nhưng không, gã ôm lấy cô từ đằng sau, hai bàn tay gã xòe trùm lên ngực cô, và gã nhấc cô đứng dậy. Cô cảm thấy cơ thể căng cứng của gã gớm ghiếc cọ vào lưng và mông cô. Cuối cùng, sau cái tưởng chừng như không bao giờ ngừng lại, gã buông cô ra nhưng những ngón tay xương xẩu vẫn tóm cánh tay cô và kéo cô đi theo về phía cối xay, chẳng buồn chú ý tới tiếng cô khóc nức nở. Gã chỉ dừng bước một lần, xem xét một đàn kiến dài vắt ngang qua lối mòn, khiêng những cái trứng bé tí. “Đừng có làm hại chúng”, gã lẩm bẩm. Và cẩn thận quan sát bàn chân cô để chắc chắn rằng cô không giẫm lên đàn kiến.
Với âm thanh mà Rhyme vẫn luôn luôn nghĩ nó giống như tiếng liếc dao của hàng thịt, thiết bị lật trang loạt soạt lật một trang nữa trong cuốn Thế giới thu nhỏ - cuốn sách, nếu đánh giá qua tình trạng nhàu nhĩ của nó, là cuốn sách được Garrett Hanlon ưa thích.
Côn trùng có khả năng bảo toàn sự sống đáng kinh ngạc. Loài bướm bu-lô<28> chẳng hạn, bình thường chúng màu trắng, nhưng ở các khu vực xung quanh thành phố công nghiệp Manchester, Anh, chúng chuyển thành màu đen để lẫn với màu bồ hóng bám trên những thân cây trắng và xem ra đỡ bị kẻ thù phát hiện.
Rhyme lật qua các trang khác, ngón đeo nhẫn bên trái còn trung thành với anh chạm vào bảng điều khiển điện tử, soạt, soạt, từng trang sách được lật trên khung thép. Anh đọc các đoạn Garrett đánh dấu. Đoạn về cái bẫy của loài kiến sư tử đã cứu đội tìm kiếm khỏi rơi xuống một trong những cái bẫy do gã trai đặt, và Rhyme đang cố gắng rút ra thêm kết luận từ cuốn sách này. Như chuyên gia nghiên cứu tâm lý cá, Ben Kerr nói với anh, hành vi của động vật thông thường là khuôn mẫu tốt cho con người bắt chước - đặc biệt đối với việc bảo toàn sự sống.
Bọ ngựa cọ cánh vào bụng làm phát ra âm thanh kỳ dị, khiến kẻ săn đuổi chúng mất phương hướng. Nhân tiện, cũng xin lưu ý rằng bọ ngựa sẽ ăn thịt bất cứ sinh vật nào nhỏ hơn, kể cả chim và thú...
Có giả thuyết cho rằng người cổ đại đã nảy sinh ý tưởng về cái bánh xe khi quan sát loài bọ hung...
Một nhà tự nhiên học tên là Réaumer ở thế kỷ XVIII quan sát thấy ong bắp cày làm những chiếc tổ giấy bằng cách trộn sợi gỗ với nước bọt. Điều ấy khiến ông hình thành ý tưởng làm giấy từ bột gỗ chứ không phải từ vải, như các nhà sản xuất giấy vốn vẫn thực hiện cho tới bấy giờ...
Nhưng chi tiết nào giữa những chi tiết này sẽ giúp điều tra vụ án? Liệu có cái gì có thể hỗ trợ Rhyme tìm thấy hai con người đang chạy trốn đâu đó trên cả trăm dặm vuông rừng và đầm lầy?
Côn trùng triệt để lợi dụng khứu giác. Đối với chúng, khứu giác là một giác quan đa chiều. Chúng thực sự “cảm thấy” được các mùi và sử dụng trong nhiều việc. Trong giáo dục, trong tình báo, trong thông tin liên lạc. Khi một con kiến phát hiện ra thức ăn, nó trở về tổ và để lại một vệt mùi bằng cách thi thoảng chạm bụng xuống mặt đất. Khi những con kiến khác gặp vệt mùi này, chúng theo đó đi tới chỗ thức ăn. Chúng biết phải đi hướng nào vì mùi để lại “có hình dáng”, đầu hẹp của mùi chỉ về phía thức ăn tựa như mũi tên định hướng. Mùi cũng là lời cảnh báo về kẻ thù đang rất gần. Vì một con côn trùng nhận ra được một phân tử mùi từ cách xa hàng dặm, sự xuất hiện của kẻ thù hiếm khi khiến côn trùng bất ngờ...
Cảnh sát trưởng Jim Bell vội vã bước vào phòng. Gương mặt lo lắng của anh ta nở một nụ cười. “Vừa nghe được từ một y tá tại bệnh viện. Tin tức về Ed. Xem chừng ông ấy đang thoát khỏi cơn hôn mê và đã nói gì đó. Vài phút nữa bác sĩ sẽ đến. Tôi hy vọng chúng ta sẽ biết chữ “ô liu” ông ấy nói mang ý nghĩa như thế nào và phải chăng ông ấy đã trông thấy cái gì đó cụ thể trên tấm bản đồ trong chòi săn.”
Mặc dù vốn vẫn hoài nghi các lời chứng, Rhyme đi tới kết luận rằng giờ đây anh lại cảm thấy mừng rỡ vì có được một nhân chứng. Sự bất lực, sự mất phương hướng của cá-mắc-cạn, đang đè xuống anh nặng trĩu.
Bell chậm rãi đi đi lại lại trong la-bô, ngóng ra cửa mỗi khi nghe tiếng bước chân đến gần.
Lincoln Rhyme lại ngả người, đặt đầu vào cái tựa đầu của xe lăn. Ánh mắt dõi lên bảng chứng cứ, dõi lên tấm bản đồ, rồi trở về với cuốn sách. Và suốt thời gian đó, con nhặng xanh bé bằng hạt đỗ cứ bay vèo vèo trong căn phòng, với nỗi tuyệt vọng không rõ rệt xem chừng cũng giống hệt nỗi tuyệt vọng chính anh đang mang.
Một con vật phóng vụt qua lối mòn rồi biến mất.
“Con gì thế?”, Sachs hất đầu chỉ con vật, hỏi. Đối với cô, nó có vẻ như một con vật lai giữa chó và giống mèo hoang lớn.
“Cáo xám”, Jesse nói. “Tôi không hay trông thấy chúng lắm. Nhưng tôi cũng không hay đi dạo ở phía bắc sông Paquo.”
Họ di chuyển chậm chạp, cố gắng bám theo các dấu vết mờ nhạt của Garrett. Và họ luôn luôn phải để mắt canh chừng những cái bẫy sập, hay nguy cơ bị phục kích từ cây cối, bụi rậm xung quanh.
Một lần nữa, linh cảm vẫn theo riết Sachs từ ban sáng, từ lúc họ lái xe đi ngang qua đám tang của đứa trẻ nọ lại xuất hiện. Họ đã bỏ lại rừng thông đằng sau và đang ở trong một loại rừng khác. Cây cối giống như trong rừng nhiệt đới vậy. Khi cô hỏi, Lucy bảo đây là những cây sơn thù du, những cây bụt mọc lưu niên, tuyết tùng. Chúng chằng chịt vào với nhau bởi các lớp rêu và dây leo.
Các lớp rêu và dây leo này hấp thụ âm thanh giống như sương mù dày đặc và khiến cảm giác sợ hãi phải ở trong một không gian đóng kín xâm chiếm cô. Nấm, nấm mốc và những đầm lầy nổi váng ở khắp xung quanh họ. Không khí đầy mùi mục nát.
Sachs nhìn xuống mặt đất mòn dấu chân. Cô hỏi Jesse: “Chúng ta cách thị trấn hàng dặm rồi. Ai tạo ra những lối mòn này?”
Jesse nhún vai: “Phần lớn là bọn nợ xấu.”
“Nghĩa là thế nào?”, Sachs hỏi, nhớ ra rằng Rich Culbeau cũng đã sử dụng phương ngữ.
“Chị biết đấy, những người không trả được nợ. Về cơ bản nó chỉ có nghĩa là đám cặn bã. Đám nấu rượu lậu, oắt con, dân đầm lầy, đám điều chế PCP<29>.” Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Ned Spoto hớp một ngụm nước và nói: “Thi thoảng lại có những cú điện thoại gọi cho chúng tôi: xảy ra bắn nhau, ai đó la hét, những lời kêu gọi giúp đỡ, những ánh đèn đánh tín hiệu một cách bí hiểm. Đại loại vậy. Cơ mà hễ chúng tôi tới nơi lại chẳng có gì... Chẳng có một người nào, chẳng đối tượng, chẳng nhân chứng. Đôi khi chúng tôi tìm thấy một vệt máu, nhưng nó không dẫn đến đâu cả. Chúng tôi đi - chúng tôi bắt buộc phải đi - nhưng không ai trong đồn chúng tôi từng đến những khu vực này một mình.”
Jesse nói: “Ở đây người ta cảm thấy khác biệt. Người ta cảm thấy - điều này nghe kỳ cục - nhưng người ta cảm thấy cuộc sống khác biệt, rẻ rúng hơn. Tôi thà đi bắt mấy thằng lỏi có vũ khí đang sắp sửa xài ma túy tại một siêu thị mi ni còn hơn bị gọi tới đây. Ít nhất thì đằng kia vẫn có các luật lệ. Người ta biết điều gì sẽ diễn ra. Chứ ở đây…”, Anh ta nhún vai.
Lucy gật đầu. “Đúng đấy. Và luật lệ bình thường không áp dụng đối với bất cứ ai ở phía bắc sông Paquo. Cả chúng tôi lẫn bọn họ. Anh có thể thấy chính anh nhả đạn trước khi anh đọc cho người ta biết về các quyền của người ta và điều đó hoàn toàn không vấn đề gì cả. Khó có thể giải thích.”
Sachs không ưa kiểu nói chuyện gây hồi hộp này. Nếu bản thân ba người cảnh sát kia không nghiêm trang và căng thẳng đến thế thì cô sẽ nghĩ họ đang diễn trò để hù dọa một cô gái thành phố.
Cuối cùng, họ dừng lại nơi lối mòn chia làm ba ngả. Họ đi vào mỗi ngả chừng năm mươi feet, nhưng không phát hiện được dấu vết nào cho thấy ngả mà Garrett và Lydia đã lựa chọn. Họ quay lại chỗ ngã tư.
Trong tâm trí Sachs âm vang lời Rhyme. Hãy thận trọng, Sachs, nhưng hãy di chuyển khẩn trương lên. Anh nghĩ chúng ta chẳng còn nhiều thời gian đâu.
Di chuyển khẩn trương…
Nhưng không có một gợi ý nào cho họ thấy là họ phải đi đến đâu và khi Sachs nhìn xuống những ngã rẽ rậm rạp, dường như không ai, thậm chí Rhyme, có thể đoán định được nơi con mồi của họ đã đi.
Rồi điện thoại di động của cô rung lên và cả Lucy lẫn Jesse Corn cùng hướng ánh mắt vào cô vẻ chờ đợi, hy vọng, giống y như cô, rằng Rhyme đã có gợi ý mới về hướng đi cho họ.
Sachs nhận cuộc gọi, lắng nghe nhà hình sự học, rồi gật đầu, cúp máy. Cô hít vào một hơi và nhìn ba người đồng nghiệp.
“Gì thế?”, Jesse Corn hỏi.
“Lincoln và Jim vừa được bệnh viện thông báo tin tức về Ed Schaeffer. Dường như ông ấy chỉ tỉnh dậy đủ để nói: “Tôi yêu các con tôi”, rồi qua đời... Mọi người nghĩ lúc trước ông ấy đã nói cái gì đó về phố “Olive”, nhưng hóa ra chỉ là ông ấy cố gắng nói “I love<30>“. Ông ấy nói có thế thôi. Tôi rất lấy làm tiếc.”
“Ôi, lạy Chúa”, Ned lẩm bẩm.
Lucy cúi đầu và Jesse quàng cánh tay ôm lây vai cô. “Chúng ta làm gì đây?”, anh ta hỏi.
Lucy ngẩng lên nhìn. Sachs có thể thấy những giọt lệ trong mắt cô. “Chúng ta sẽ tóm cổ thằng nhãi ấy, đó là việc chúng ta sẽ làm”, cô nói với quyết tâm sắt đá. “Chúng ta sẽ lựa chọn ngã rẽ hợp lý nhất và đi cho tới lúc tìm thấy hắn. Và chúng ta sẽ đi khẩn trương. Cô không phản đối chứ?”, cô hỏi Sachs, lúc này hoàn toàn sẵn sàng nhường quyền chỉ huy cho người nữ đồng nghiệp.
“Chắc chắn không rồi.”
Chú Thích:
<28> Cây bu-lô: một loài cây phương bắc, thân nhẵn màu trắng.
<29> PCP (viết tắt của phenylcyclohexylpiperidine): tên một loại ma túy.
<30> “Olive và I love”, có nghĩa là ô liu” và “tôi yêu”, khi phát âm nghe gần giống nhau
16.06.2015
PHẦN 2: CON NAI CÁI LÔNG TRẮNG
CHƯƠNG 15
Dịch giả: Đinh Minh Hương
Nguồn: NXB Văn học
Nội dung thu gọn
Lydia từng bắt gặp cái nhìn này trong mắt đàn ông cả trăm lần.
Một nhu cầu. Một ham muốn. Một sự thèm khát.
Có khi là một sự thèm khát vô nghĩa. Có khi là một biểu hiện vụng về của tình yêu.
Cô gái to béo này, với mái tóc xõa xượi, một gương mặt nổi đầy mụn ở tuổi thiếu niên và bây giờ là một gương mặt rỗ, nghĩ rằng cô hầu như không có gì để đem lại cho những người đàn ông. Nhưng cô cũng biết họ sẽ, ít nhất trong vòng vài năm, đòi hỏi ở cô một điều và từ lâu cô đã đi đến kết luận rằng muốn xoay xở được trên đời này cô sẽ phải lợi dụng cái sức mạnh nhỏ bé mà cô có. Và bởi vậy mà giờ đây Lydia Johansson đang bước vào một sân chơi rất quen thuộc.
Hai người lại ở trong cối xay, trong cái văn phòng tối om. Garrett đứng nhìn xuống cô, da đầu gã dưới lớp tóc cắt cua lam nham óng ánh vì mồ hôi. Có thể thấy cái ấy của gã dựng lên bên trong quần.
Ánh mắt gã lướt qua ngực cô, nơi bộ đồng phục ướt đẫm, nhìn xuyên thấu được, bị bật cúc khi cô lao xuống cửa cống (hay gã giật nó ra khi chộp lấy cô trên con đường mòn?), quai áo lót của cô bị đứt (hay gã đã dứt đứt?).
Lydia thận trọng dịch ra khỏi chỗ Garrett, nhăn mặt vì mắt cá chân bị đau. Ngồi dựa lưng vào tường, hai chân giạng ra cô xem xét cái nhìn trong mắt gã trai. Dâng lên nỗi ghê tởm tới mức lãnh cảm.
Tuy nhiên, Lydia vẫn nghĩ: Mình có nên để hắn làm không?
Garrett ít tuổi. Gã sẽ ngay lập tức đút vào và tất cả sẽ kết thúc. Có thể sau đó gã sẽ lăn ra ngủ và Lydia có thể tìm thấy con dao của gã, cắt đứt băng dính đang trói tay cô. Rồi đập cho gã bất tỉnh, tróigã lại.
Nhưng những ngón tay xương xẩu đỏ ửng, bộ mặt đầy các vết lằn kề bên ngực cô, hơi thở gớm ghiếc và mùi thân thể hôi thối… Làm sao cô chịu đựng nổi. Lydia nhắm mắt lại trong chốc lát. Cô thầm đọc một lời cầu nguyện lúc này cũng hời hợt chẳng kém thứ phấn mắt hiệu Blue Sunset cô vốn vẫn dùng. Có hay không?
Nhưng mọi thiên thần ở xung quanh đều im lặng trước quyết định hết sức quan trọng này.
Tất cả những gì cô sẽ phải làm là mỉm cười với gã, Chỉ một phút thôi, gã sẽ ở bên trong cô. Hoặc cô có thể ngậm cái của gã... Sẽ chẳng ý nghĩa gì cả.
Yêu em nhanh lên rồi chúng mình xem phim... Câu nói đùa giữa bạn trai cô và cô. Cô bao giờ cũng đón anh ấy ở cửa, trong bộ đồ lót áo liền quần màu đỏ mà cô đặt mua qua thư từ một cửa hiệu của hãng Sears. Cô sẽ quàng cánh tay ôm lấy vai anh ấy và thì thầm những lời này.
Mày làm đi, Lydia tự nhủ, và mày có cơ trốn thoát.
Nhưng mình không thể!
Ánh mắt Garrett dán chặt vào cô, lướt qua lướt lại trên thân hình cô. Cái của gã cũng không thể xúc phạm cô ghê gớm hơn cặp mắt đỏ kè lúc này. Lạy Chúa, gã không chỉ là một con bọ - gã là một sinh vật đột biến bước ra từ những cuốn truyện kinh dị của Lydia, một loài mà Dean Koontz hay Stephen King có lẽ đã tạo dựng. Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Các móng tay búng tanh tách.
Gã đang xem xét đôi chân cô, tròn trịa và mịn màng - nét đẹp nhất trên thân thể cô, cô nghĩ như vậy.
Garrett quát: “Tại sao mày khóc? Tự mày làm đau mày. Đáng lẽ ra mày đừng có chạy. Để tao xem.” Gã hất đầu chỉ cái mắt cá chân sưng vù của Lydia.
“Nó không sao”, Lydia nói nhanh, nhưng rồi, một cách miễn cưỡng, cô giơ bàn chân cho Garrett xem.
“Năm ngoái mấy đứa khốn nạn ở trường đẩy tao ngã xuống đồi đằng sau trạm xăng Mobil. Tao bị trẹo mắt cá. Trông giống như thế này. Đau thấy mẹ.”
Hãy chịu đựng cho xong, Lydia tự nhủ thầm. Mày sẽ ở gần nhà hơn.
Yêu em nhanh lên...
Không!
Nhưng Lydia không quay đi khi Garrett ngồi xuống trước mặt cô. Gã cầm chân cô. Những ngón tay dài nghêu của gã - lạy Chúa, những ngón tay khổng lồ - chúng tóm chặt bụng chân cô, rồi tóm chặt mắt cá chân cô. Gã đang run rẩy. Gã nhìn vào những lỗ thủng trên đôi bít tất trắng, nơi da thịt hồng hào của cô lòi ra. Gã xem xét bàn chân cô.
“Không bị cứa. Nhưng thâm tím toàn bộ. Thế là làm sao?”
“Có thể bị gãy xương.”
Garrett không đáp lời, xem chừng không thông cảm gì. Như thể nỗi đau đớn của Lydia là vô nghĩa đối với gã. Như thể gã không hiểu được rằng một con người có lẽ đang phải chịu đựng biết bao khổ sở. Sự quan tâm của gã chỉ là cái cớ để sờ mó cô.
Lydia duỗi dài chân hơn, các bắp thịt run run vì phải nỗ lực nhấc cái chân lên. Bàn chân cô chạm vào bụng dưới Garrett.
Mi mắt gã cụp xuống. Hơi thở gấp gáp.
Lydia nuốt nước bọt.
Garrett di chuyển bàn chân cô. Nó lại chạm vào cái của gã qua lớp vải ẩm ướt. Nó cứng như cái guồng bánh xe nước mà cô bị đập một phát lúc chạy trốn.
Garrett trườn bàn tay lên phía trên chân Lydia. Cô cảm thấy những móng tay gã móc vào chiếc bít tất.
Không...
Được mà...
Rồi Garrett bỗng sững người lại.
Đầu gã nghiêng ra phía sau và hai cánh mũi phồng lên. Gã hít sâu vào. Hai lần.
Lydia cũng khịt khịt mũi ngửi không khí. Có mùi chua chua. Mất một lát cô mới nhận ra. Mùi ammonia.
“Mẹ kiếp”, Garrett thì thầm, mắt mở to hoảng hốt. “Làm sao bọn nó tới đây nhanh như thế được nhỉ?”
“Cái gì?”, Lydia hỏi.
Garrett bật dậy. “Cái bẫy! Bọn nó vướng cái bẫy! Mười phút nữa là bọn nó tới đây! Làm thế quái nào bọn nó tới đây nhanh như thế chứ?” Gã ghé sát vào mặt Lydia và cô chưa bao giờ trông thấy trong mắt ai nỗi tức giận lẫn căm thù lớn tới mức ấy. “Mày có đánh dấu đường đi không? Mày có nhắn nhủ gì bọn nó không?”
Lydia co rúm người lại, chắc chắn rằng Garrett sắp sửa giết chết cô. Gã có vẻ hoàn toàn mất tự chủ. “Không! Tôi thề! Tôi xin thề!”
Garrett bước về phía Lydia. Cô co rúm người lùi lại, nhưng gã vội vã đi qua cô. Gã phát điên lên, cởi bỏ mà gần như xé toạc áo sơ mi, quần dài, đồ lót, bít tất. Cô nhìn chằm chằm thân hình gầy guộc của gã, cái kia vừa dựng ngược lên bây giờ chỉ hơi xìu xuống. Trần truồng, gã chạy tới góc phòng. Ở đó có một số món quần áo khác được gập lại, đặt trên sàn. Gã mặc chúng vào. Xỏ cả giày nữa.
Lydia vươn đầu lên, nhìn ra bên ngoài cửa sổ. Qua cửa sổ, mùi hóa chất ấy đang sộc vào. Vậy cái bẫy của Garrett không phải là một quả bom - gã sử dụng chính ammonia làm vũ khí, nó đã rơi xuống người đội tìm kiếm, đốt cháy da thịt họ, làm mù mắt họ.
Garrett tiếp tục nói bằng giọng gần như thì thào: “Tao phải tới chỗ Mary Beth.”
“Chân tôi không thể đi được”, Lydia nức nở. “Cậu sẽ làm gìtôi?”
Garrett rút từ túi quần ra con dao gấp. Gã mở nó kêu cách một tiếng to. Quay về phía Lydia.
“Đừng, đừng, xin đừng...”
“Mày đau chân thế. Làm sao mà mày theo kịp tao.”
Lydia nhìn chằm chằm lưỡi dao. Nó ố bẩn và quăn queo. Cô thở gấp gáp.
Garrett bước đến gần hơn. Lydia bật khóc.
Làm sao bọn họ tới đây nhanh như thế? Garrett Hanlon lại băn khoăn tự hỏi trong lúc vội vã đi từ cửa trước cối xay ra chỗ con suối, nỗi sợ hãi làm tim gã nhói lên liên tục chẳng khác gì da thịt bị những lá sồi độc châm.
Chỉ mất mấy tiếng đồng hồ, bọn kẻ thù của gã đã đi được từ Bến tàu kênh Nước đen tới cối xay này. Gã kinh ngạc, gã cứ tưởng rằng bọn họ phải mất ít nhất một ngày, có khi hai ngày mới tìm thấy dấu vết gã. Gã trai nhìn về phía lối mòn dẫn từ mỏ đá tới. Không có bóng dáng ai cả. Gã quẹo theo hướng ngược lại và bắt đầu từ từ bước xuôi một lối mòn khác - lối mòn này dẫn đi xa khỏi mỏ đá.
Vừa búng móng tay tanh tách gã vừa tự hỏi: Làm sao, làm sao, làm sao? Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Thư giãn nào, Garrett tự nhủ. Còn khối thời gian. Sau khi chai ammonia đổ xuống những tảng đá, đám cảnh sát sẽ di chuyển chậm chạp như lũ bọ hung vần các cục phân, vì phải lo lắng đề phòng các cái bẫy khác. Chỉ vài phút nữa gã sẽ ở giữa những bãi lầy và bọn họ sẽ không thể nào đuổi theo gã. Thậm chí nếu có chó. Gã sẽ ở bên cạnh Mary Beth sau tám tiếng đồng hồ. Gã…
Đến đây, Garrett dừng lại.
Bên lề lối mòn là một vỏ chai nhựa đựng nước. Trông y như ai đó vừa vứt nó ra đây. Garrett khịt khịt mũi đánh hơi, nhặt cái vỏ chai lên, ngửi bên trong. Ammonia!
Tâm trí gã đột ngột xuất hiện một hình ảnh: một con ruồi vướng phải mạng nhện. Gã nghĩ: Mẹ kiếp! Bọn họ lừa mình!
Một giọng phụ nữ quát: “Đứng nguyên đó, Garrett”. Một phụ nữ tóc đỏ xinh đẹp mặc quần bò và áo phông đen bước ra khỏi bụi rậm. Cô ta cầm khẩu súng lục chĩa thẳng vào ngực gã. Ánh mắt cô ta hướng đến con dao trong tay gã, rồi lại hướng lên bộ mặt gã. Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
“Hắn ở đây”, người phụ nữ gọi to. “Tôi tóm được hắn rồi.” Tiếp theo, cô ta hạ giọng và nhìn thẳng vào Garrett: “Hãy làm như tôi bảo và cậu sẽ không sao. Tôi muốn cậu quẳng con dao đi, nằm úp mặt xuống đất.”
Nhưng gã trai không nằm xuống.
Gã chỉ đứng im, dáng lòng khòng vụng về, ngón cái và ngón trỏ của bàn tay trái cứ mê mải búng móng tanh tách. Gã trông hết sức sợ hãi, tuyệt vọng.
Amelia Sachs liếc nhìn lần nữa con dao ố bẩn gã vẫn cầm chặt. Ống ngắm khẩu Smith & Wesson của cô chưa rời khỏi ngực Garrett.
Mắt cô cay sè vì ammonia và mồ hôi. Cô lấy ống tay áo lau mặt.
“Garrett…”, Sachs nói với giọng điềm tĩnh. “Hãy nằm xuống. Sẽ không có ai làm hại cậu nếu cậu làm những gì chúng tôi bảo.
Sachs nghe thấy tiếng hét từ đằng xa. “Tôi tìm thấy Lydia rồi”, Ned Spoto nói to. “Cô ấy ổn. Mary Beth không có ở đây.”
Lucy gọi: “Đâu, Amelia?”
“Trên lối mòn dẫn ra suối”, Sachs hét. “Ném con dao ra kia, Garrett. Ném xuống đất ấy. Rồi nằm xuống.”
Garrett thận trọng nhìn Sachs chằm chằm. Da gã nổi đầy các vệt đỏ, mắt ướt nhèm.
“Nào, Garrett. Chúng tôi đây có bốn người. Cậu chẳng làm gì được đâu.”
“Làm sao?”, Garrett hỏi. “Làm sao các người tìm thấy tôi?” Giợng gã nghe như giọng trẻ con, trẻ hơn phần lớn những thiếu niên mười sáu tuổi.
Tất nhiên, Sachs không cho Garrett biết rằng nhờ có Lincoln Rhyme mà họ đã phát hiện ra cái bẫy và cái cối xay. Ngay khi họ vừa bắt đầu đi xuôi theo lối mòn ở giữa, chỗ ngã tư trong rừng, nhà hình sự học đã gọi điện cho cô. Anh nói: “Một người bán thức ăn chăn nuôi mà Jim Bell hỏi thăm cho biết dân vùng này không sử dụng ngô làm thức ăn chăn nuôi. Anh ta bảo nó có lẽ là từ một cái cối xay nào đó và Jim biết một cái cối xay bị bỏ hoang năm ngoái đã xảy ra hỏa hoạn. Điều ấy giải thích cho các vết cháy sém.”
Bell cầm điện thoại hướng dẫn đội tìm kiếm đường đến chỗ cối xay. Rồi Rhyme lại cầm điện thoại bổ sung thêm: “Anh cũng có suy nghĩ về chất ammonia.”
Rhyme đã đọc mấy cuốn sách của Garrett và phát hiện ra một đoạn được gạch chân mô tả việc côn trùng sử dụng mùi để truyền đi những lời cảnh báo. Vì ammonia không có trong các loại chất nổ được bán trên thị trường, ví dụ như loại người ta từng dùng phá đá ở mỏ đá, anh đi đến kết luận rằng Garrett chắc đã dựng một cái bẫy ammonia với dây bẫy làm bằng dây câu. Bẫy được thiết kế sao cho khi người đuổi theo gã vướng phải sẽ đánh đổ ammonia, gã ngửi thấy mùi mà biết họ đang đến gần, do đó có thể chạy trốn.
Sau khi phát hiện ra cái bẫy, tới lượt Sachs nảy ra ý tưởng trút ammonia vào chai nước của Ned, lặng lẽ bao vây cối xay và tưới ammonia lên mặt đất bên ngoài cối xay để xua gã trai.
Và gã trai đã bị họ xua ra thật.
Nhưng gã vẫn không thực hiện chỉ thị của Sachs. Garrett nhìn xung quanh, rồi săm soi vào gương mặt cô, y như thể cố gắng đoán định xem liệu cô có thực sự sẽ siết cò hay không.
Gã gãi một đám ban trên mặt và lau mồ hôi, rồi nắm nắm lại con dao, liếc trái liếc phải, ánh mắt đầy nỗi hoang mang, tuyệt vọng.
Sợ làm gã hốt hoảng mà bỏ chạy - hoặc tấn công mình - Sachs cố gắng nói với giọng như giọng một bà mẹ ép con ngủ. “Garrett, hãy thực hiện điều tôi yêu cầu. Mọi cái sẽ ổn. Chỉ cần thực hiện điều tôi yêu cầu. Nào.”
“Cậu bắn chứ hả? Bắn đi”, Mason Germain thì thào.
Cách chỗ cô ả tóc đỏ người New York đang đối đầu với kẻ sát nhân gần trăm thước, Mason và Nathan ở trên đỉnh một quả đồi trọc.
Mason đứng. Còn Nathan nằm sấp xuống mặt đất nóng bỏng. Anh ta kê khẩu Ruger lên mấy tảng đá xếp thành chồng thâm thấp và tập trung điều hòa hơi thở, cái cách mà các thợ săn nai, săn ngỗng và săn người vốn vẫn cần làm trước khi họ nhả đạn.
“Nào”, Mason thúc giục. “Không có gió. Tầm ngắm đã rõ ràng thế. Bắn đi!”
“Mason, thằng nhãi đang không làm gì cả.”
Họ trông thấy Lucy Kerr và Jesse Corn bước vào khoảng đất trống cùng với tóc đỏ, cũng chĩa thẳng họng súng vào gã trai. Nathan tiếp tục: “Tất cả đều đang chĩa súng vào hắn và hắn thì chỉ có mỗi con dao. Một con dao bé tí tẹo. Có vẻ như hắn sắp sửa vứt nó đi.”
“Hắn sẽ không vứt nó đi đâu”, Mason Germain làu bàu, sốt ruột chuyển cái trọng lượng khiêm tốn của cơ thể từ chân này sang chân kia. “Tôi đã bảo cậu rồi - hắn đang giả vờ đấy. Hắn sẽ hạ một người trong số họ ngay khi họ lơ là. Cái chết của Ed Schaeffer đối với cậu chẳng có ý nghĩa gì à? Steve Farr đã gọi điện thông báo tin buồn này cách đây nửa tiếng đồng hồ.”
“Thôi nào, Mason. Chuyện ấy cũng khiến tôi đau lòng y như bất cứ ai khác. Nhưng nó chẳng liên quan gì tới các quy tắc giao tranh. Với lại, anh nhìn xem? Lucy và Jesse chỉ cách hắn không đầy sáu feet.”
“Cậu sợ sẽ bắn phải họ? Đéo mẹ, cậu có thể nhắm trúng một đồng mười xu ở khoảng cách này mà, Nathan. Cậu là tay súng thiện nghệ nhất. Bắn đi. Bắn đi nào.”
“Tôi...”
Mason đang quan sát cái vở kịch nhỏ lạ lùng diễn ra ở khoảng đất trống. Tóc đỏ hạ súng xuống và bước về phía trước một bước. Garrett vẫn cầm con dao. Đầu gã lắc qua lắc lại.
Người phụ nữ bước thêm một bước về phía gã.
Ồ, như thế thật có ích, cô ả ơi.
“Cô ta ở trong đường đạn của cậu à?”
“Không. Nhưng, ý tôi là...”, Nathan nói, “chúng ta thậm chí không nên có mặt tại đây.”
“Đây đâu phải là vấn đề”, Mason lẩm bẩm. “Chúng ta đang ở đây. Tôi được phép yểm trợ cho đội tìm kiếm và tôi yêu cầu cậu bắn. Cậu tháo chốt an toàn chưa?”
“Tháo rồi.”
“Thế thì bắn đi.”
Nathan nhìn qua kính ngắm.
Mason quan sát nòng khẩu Ruger được giữ im phăng phắc, khi Nathan nhập mình vào với vũ khí của mình làm một. Mason từng quan sát điều này nhiều lần - trong các cuộc đi săn cùng những người bạn có tinh thần thể thao hơn hẳn. Nó là một cái gì đó bí hiểm mà anh ta không thấu hiểu hoàn toàn. Vũ khí trong tay ta trở thành một phần con người ta, rồi ngay sau đây nó nhả đạn, gần như tự nó nhả đạn vậy.
Mason chờ đợi tiếng nổ của khẩu súng trường.
Không một mảy gió. Một mục tiêu rõ ràng. Một khung cảnh rõ ràng.
Bắn, bắn, bắn! Là câu hô thầm trong tâm trí Mason.
Nhưng thay cho tiếng nổ của khẩu súng trường, anh ta nghe thấy một tiếng thở dài. Nathan cúi đầu xuống. “Tôi không thể.
“Đưa tôi khẩu súng chết giẫm.”
“Không, Mason. Thôi nào.”
Nhưng ánh mắt viên cảnh sát cấp cao hơn khiến tay thiện xạ im lặng, trao khẩu súng trường, lăn sang bên.
“Băng đạn có bao nhiêu viên?”, Mason quát.
“Tôi...”
“Băng đạn có bao nhiêu viên?”, Mason nói trong lúc nằm sấp xuống và giữ tư thế y như đồng sự của mình một khoảnh khắc trước đó.
“Năm. Nhưng, Mason, tôi không định đả kích anh, nhưng thực tế là anh không phải tay súng trường cừ nhất thế giới và có ba người vô tội ở vùng đích, nếu anh...” Nhưng giọng Nathan nhỏ đi. Chỉ có một chỗ cho câu tiếp theo và Nathan chẳng muốn đi cùng câu này tới cái chỗ đó.
Đúng, Mason biết, anh ta đâu phải tay súng cừ nhất thế giới. Nhưng anh ta đã hạ cả trăm con hươu. Và anh ta đã đạt điểm cao trên trường bắn của cảnh sát bang ở Raleigh. Với lại, bắn tốt hay dở thì Mason cũng biết rằng Thằng Bọ phải chết và phải chết ngay bây giờ.
Anh ta cũng hít thở đều, cong ngón tay móc vào cò súng. Và phát hiện ra Nathan đã nói dối. Hắn ta chưa hề tháo chốt an toàn. Mason tức tối đẩy cái nút bấm và lại bắt đầu điều hòa hơi thở.
Hít vào, thở ra.
Mason để kính ngắm thẳng mặt thằng nhãi.
Tóc đỏ di chuyển đến gần Garrett hơn và có một lúc vai cô ta ở trong đường đạn đi.
Lạy Chúa tôi, cô đang gây khó khăn đó, thưa cô. Cô ta chuyển động về phía sau, rời khỏi tầm ngắm. Rồi cái cổ cô ta lại hiện ra giữa kính ngắm. Cô ta chuyển động sang bên trái nhưng vẫn gần như ở giữa kính ngắm.
Hít thở, hít thở.
Mason, phớt lờ thực tế là bàn tay mình đang run quá mức, tập trung vào bộ mặt nổi đầy vệt đỏ của mục tiêu.
Hạ kính ngắm xuống ngực Garrett.
Nữ cảnh sát tóc đỏ một lần nữa ở trong đường đạn đi. Rồi cô ta lại từ từ di chuyển ra phía ngoài.
Mason biết rằng anh ta nên nhẹ nhàng siết cò. Nhưng như vẫn thường xuyên xảy ra trong cuộc đời anh ta, nỗi tức tối thao túng và giành quyền quyết định. Anh ta giật mạnh cái lẫy kim loại.
16.06.2015
PHẦN 2: CON NAI CÁI LÔNG TRẮNG
CHƯƠNG 16
Dịch giả: Đinh Minh Hương
Nguồn: NXB Văn học
Nội dung thu gọn
Sau lưng Garrett, một vốc đất bắn vọt lên không trung và gã đập bàn tay vào tai, nơi gã, cũng giống như Sachs, đã cảm thấy một viên đạn bay vèo qua.
Một tích tắc sau, tiếng nổ của súng dội khắp khoảng đất trống.
Sachs xoay một vòng. Qua việc viên đạn đến trước và qua tiếng súng nổ, cô biết phát bắn không phải là từ Lucy hay Jesse mà từ khoảng cách chừng một trăm thước phía sau lưng họ. Hai đồng nghiệp của cô cũng đang ngoảnh nhìn đằng sau, súng giơ lên, cố gắng nhận ra kẻ vừa siết cò.
Khom người lại, Sachs liếc qua bộ mặt Garrett và cô bắt gặp ánh mắt gã - ánh mắt đầy bối rối và kinh hoàng. Trong khoảnh khắc, chỉ một khoảnh khắc hết sức ngắn ngủi, gã không phải kẻ giết người đã đánh vỡ sọ cậu trai trẻ, không phải kẻ cưỡng dâm đã làm Mary Beth McConnell đổ máu rồi xâm phạm thân thể cô. Gã là một thằng bé đang hoảng sợ, rên rỉ: “Không, không!”
“Ai thế?”, Lucy Kerr hỏi to. “Culbeau à?” Họ núp vào mấy bụi rậm.
“Núp xuống đi, Amelia”, Jesse gọi. “Chúng ta không biết kẻ nào đó định bắn ai. Có thể là đồng đảng của Garrett, nhằm vào chúng ta.”
Tuy nhiên, Sachs không nghĩ thế. Viên đạn là nhằm và Garrett. Cô xem xét kỹ lưỡng mấy đỉnh đồi xung quanh, tìm kiếm bóng dáng tay bắn tỉa.
Một phát súng nữa nổ vang. Phát này còn cách xa mục tiêu hơn cả phát trước.
“Đức mẹ ơi”, Jesse Corn nói, nuốt xuống một lời báng bổ rõ ràng là không bình thường. “Nhìn kìa, trên kia kìa - đó là Mason!Và Nathan Groomer. Trên cái gò kia kìa.”
“Germain à?”, Lucy hỏi giọng lạnh lẽo, nheo mắt nhìn. Cô giận dữ bấm nút truyền trên máy bộ đàm của mình và hét to: “Mason, anh đang làm cái quái quỷ gì ở đây vậy? Anh có đó chứ? Anh nghe thấy tôi chứ?... Trung tâm. Truyền đi, Trung tâm. Chết tiệt. Không có sóng.”
Sachs rút điện thoại di động ra và gọi cho Rhyme. Anh trả lời sau một lát. Cô nghe thấy giọng anh, vang vọng, qua loa ngoài. “Sachs, em đã…?”
“Bọn em đã bắt được hắn, Rhyme. Nhưng viên cảnh sát đó, Mason Germain, anh ta ở trên một quả đồi bên cạnh đấy, nhằm bắn hắn. Bọn em không thể nào liên lạc với anh ta qua bộ đàm.”
“Không, không, không, Sachs! Anh ta không thể giết chết hắn được. Anh đã kiểm tra độ thoái biến của máu trên tờ khăn giấy rồi - cho đến đêm hôm qua thì Mary Beth vẫn còn sống! Nếu Garrett chết, chúng ta sẽ không bao giờ tìm ra cô gái đâu.”
Sachs hét to thông báo điều này cho Lucy, nhưng người nữ cảnh sát vẫn chẳng thể nào gọi được Mason qua bộ đàm.
Một phát súng nữa. Một tảng đá vỡ toác, hất bụi vào người họ.
“Dừng lại!”, Garrett nức nở. “Đừng, đừng... Tôi sợ. Bắt hắn dừng lại đi!”
Sachs nói với Rhyme: “Hỏi Bell xem Mason có điện thoại di động không, bảo Bell gọi cho anh ta, yêu cầu anh ta ngừng bắn.”
“Được rồi, Sachs...”
Rhyme cúp máy.
Nếu Garrett chết chúng ta sẽ không bao giờ tìm ra cô gái đâu...
Amelia Sachs đi đến một quyết định gấp gáp, ném khẩu súng của cô xuống đất, phía sau lưng mình, rồi bước lên phía trước, đối diện với Garrett, cách gã chừng nửa bước, chắn giữa họng súng của Mason và gã trai. Cô nghĩ: Trong lúc ta thực hiện hành động này, Mason có thể đã siết cò và viên đạn, đi nhanh hơn tiếng súng nổ, có thể sẽ găm trúng vào lưng ta.
Cô nín thở. Hình dung rằng cô có thể cảm thấy được viên đạn xuyên thấu mình.
Một lát trôi qua. Không có phát súng nào cả.
“Garrett, cậu phải bỏ con dao xuống.”
“Các người đã cố giết tôi! Các người đã lừa tôi!”
Sachs tự hỏi liệu Garrett có đâm cho cô một nhát không - trong cơn giận dữ hay hoảng sợ. “Không. Chúng tôi không liên quan gì đến việc này. Nhìn đây, tôi đang đứng trước cậu. Tôi đang bảo vệ cậu. Anh ta sẽ không bắn nữa đâu.”
Garrett thận trọng săm soi mặt Sachs bằng cặp mắt giật giật.
Cô tự hỏi liệu Mason có đang đợi cô dịch sang bên chỉ vừa vặn đủ để anh ta đặt kính ngắm vào Garrett không. Anh ta hiển nhiên là một tay súng tồi và cô tưởng tượng thấy viên đạn làm xương sống cô vỡ toác.
A, Rhyme ơi, Sachs nghĩ, anh đến đây phẫu thuật để cố gắng được giống như em hơn, nhưng có thể chính ngày hôm nay em sẽ trở nên giống như anh hơn ấy chứ...
Jesse Corn đang guồng chân chạy bạt qua các bụi rậm lên đỉnh đồi, khoát khoát hai cánh tay và gọi: “Mason, ngừng bắn đi! Ngừng bắn!”
Garrett tiếp tục thận trọng nhìn Sachs. Rồi gã quẳng con dao sang bên và bắt đầu mê mải búng móng tay tanh tách.
Trong lúc Lucy chạy tới còng tay Garrett, Sachs quay về phía quả đồi nơi Mason đã kê súng bắn. Cô trông thấy anh ta đang đứng, nói chuyện điện thoại. Anh ta nhìn thẳng xuống cô, có vẻ vậy, rồi nhét điện thoại vào túi quần, bắt đầu đi xuống đồi.
“Anh đã nghĩ cái quái quỷ gì thế hả?”, Sachs nổi xung lên hỏi Mason. Cô đi thẳng tới trước anh ta. Họ đứng cách nhau không đầy nửa bước và cô cao hơn anh ta chừng một inch.
“Để bảo vệ mông cô đấy, thưa cô”, Mason đáp một cách ác nghiệt. “Cô không tình cờ trông thấy hắn có vũ khí à?”
“Mason”, Jesse Corn nỗ lực xoa dịu tình hình. “Cô ấy đã cố gắng làm cho hắn bình tĩnh mà. Cô ấy đã bảo được hắn vứt vũ khí đi.”
Nhưng Amelia Sachs không cần bất cứ ai phải tỏ ra che chở. Cô nói: “Tôi thực hiện công việc bắt giữ tội phạm nhiều năm nay rồi. Hắn chẳng định tấn công tôi. Mối đe dọa duy nhất là từ anh. Anh đã có thể bắn trúng một trong hai người chúng tôi.”
“Ồ, vớ vẩn.” Mason vươn đến sát Sachs và cô ngửi được mùi xạ hương của nước thơm sau khi cạo râu anh ta xức cứ như tưới đẫm lên mình.
Cô tránh khỏi đám mây mùi, nói: “Và nếu anh giết Garrett, Mary Beth có lẽ sẽ chết đói hoặc chết ngạt.”
“Cô ta chết rồi”, Mason quát. “Cô gái ấy đang nằm trong một cái mồ ở đâu đó và chúng ta sẽ chả bao giờ tìm thấy xác cô ta được đâu.”
“Lincoln đã có báo cáo xét nghiệm máu của cô ấy”, Sachs đáp trả. “Cho đến đêm hôm qua cô ấy vẫn còn sống.”
Thông tin này khiến Mason im lặng một lát. Rồi anh ta lầm bầm: “Đêm hôm qua đâu phải là bây giờ.”
“Thôi nào, Mason”, Jesse nói. “Vấn đề đã được giải quyết.”
Nhưng Mason chưa trấn tĩnh lại. Anh ta vung hai cánh tay lên vỗ đùi đen đét. Anh ta nhìn thẳng vào Sachs: “Tôi cóc biết chúng tôi cần cô xuống đây làm cái mẹ gì.”
“Mason”, Lucy Kerr xen vào. “Chấm dứt được rồi đấy. Không nhờ có ông Rhyme và Amelia ở đây thì chúng ta đã không tìm thấy Lydia. Chúng ta phải cảm ơn họ. Cho qua việc này đi.”
“Cô ta mới là kẻ không cho qua.”
“Khi người nào đấy nhắm súng vào tôi người ấy nên có lý do thật xác đáng”, Sachs nói giọng đều đều. “Và hoàn toàn không có lý do gì để anh bắn gã trai đó vì anh không thể tự mình xét xử hắn được.”
“Tôi làm công việc của tôi như thế nào không mượn cô bàn luận. Tôi...”
“Được rồi, chúng ta chấm dứt việc này ở đây”, Lucy nói. “Và hãy quay lại văn phòng. Chúng ta vẫn sẽ giải quyết vụ án theo giả định rằng Mary Beth chưa chết và chúng ta phải tìm ra cô ấy.”
“Này”, Jesse Corn gọi. “Có cái cánh quạt tới.”
Một chiếc trực thăng từ trung tâm y khoa đỗ xuống khoảng đất trống gần cối xay, các nhân viên y tế cáng Lydia ra, cô bị say nắng nhẹ, còn mắt cá chân thì trật khớp nghiêm trọng. Thoạt đầu, cô gái ở trong tình trạng cuồng loạn - Garrett đã cầm con dao bước tới chỗ cô và mặc dù hóa ra gã sử dụng nó chỉ để cắt băng dính nhựa dán miệng cô lại, cô vẫn run như cầy sấy. Cô cố gắng trấn tĩnh đủ để nói với mọi người rằng Mary Beth không ở gần cối xay - Garrett đã giấu cô gái đâu đó gần biển, khu Bờ Ngoài. Cô không biết chính xác địa điểm. Lucy và Mason cố gắng bắt Garrett nói - nhưng gã cứ câm lặng, hai bàn tay bị còng đằng sau lưng, đăm đăm nhìn xuống đất vẻ ủ rũ.
Lucy bảo Mason: “Anh, Nathan và Jesse đi bộ đưa Garrett sang đường Easedale. Tôi sẽ đề nghị Jim cho một chiếc xe đến đấy. Chỗ lạch Possum phân nhánh. Amelia muốn khám xét cối xay. Tôi sẽ hỗ trợ cô ấy. Chừng nửa tiếng nữa cũng cho một chiếc xe đến Easedale đón chúng tôi.”
Nếu Mason muốn đọ mắt thì Sachs rất vui lòng. Nhưng anh ta đã chuyển sự chú ý sang Garrett, nhìn gã trai đang sợ sệt từ đầu tới chân như viên lính gác quan sát một kẻ tử tù. Mason hất đầu bảo Nathan: “Đi thôi. Còng khóa chặt chẽ rồi chứ, Jesse?”
“Chặt chẽ rồi, tất nhiên”, Jesse nói.
Sachs mừng vì có Jesse đi cùng để Mason phải xử sự cho đúng mực. Cô từng nghe những câu chuyện về tù nhân “trốn chạy” bị cảnh sát áp giải đánh. Đôi khi, rốt cuộc là họ thiệt mạng.
Mason thô bạo tóm cánh tay Garrett, kéo gã đi. Gã trai hướng ánh mắt tuyệt vọng sang Sachs. Rồi Mason dẫn gã đi xuôi theo lối mòn.
Sachs bảo Jesse Corn: “Hãy để mắt tới Mason. Các anh có lẽ sẽ cần đến sự hợp tác của Garrett để tìm ra Mary Beth. Và nếu hắn quá sợ hãi hay tức giận, đừng mong hắn khai điều gì.”
“Tôi xin đảm bảo việc này, Amelia.” Một cái nhìn dành cho cô. “Thật là dũng cảm, việc chị đã làm ấy. Bước tới trước hắn. Phải tôi thì tôi không dám đâu.”
“Chà”, Sachs đáp, chẳng có tâm trạng tiếp nhận thêm bất cứ sự hâm mộ nào. “Đôi khi, người ta cứ hành động mà không suy nghĩ gì.”
Jesse hồ hởi gật đầu y như thể muốn cộng cả cái gật đầu ấy vào lời nói. “Ồ, này, tôi đã định hỏi - chị có biệt hiệu không?”
“Không hẳn.”
“Tốt. Tôi thích chỉ là “Amelia” thôi.”
Trong một khoảnh khắc tức cười, cô nghĩ Jesse đã định hôn cô để chúc mừng cuộc bắt giữ. Rồi anh ta xuất phát, đuổi theo Mason, Nathan và Garrett.
Người anh em, Amelia Sachs đang trong tâm trạng bực bội vừa nhìn Jesse quay lại vui vẻ vẫy tay với cô vừa nghĩ thầm, các cảnh sát ở đây, một thì muốn bắn chết tôi, một thì rắp ranh đặt chỗ tại nhà thờ và khách sạn.
Sachs thận trọng đi theo đường bàn cờ bên trong cối xay - tập trung vào căn phòng Garrett đã giữ Lydia. Đi tới đi lui, từng bước một.
Cô biết ở đây sẽ có vài manh mối về nơi Mary Beth McConnell đang bị giam giữ. Nhưng đôi khi mối liên hệ giữa đối tượng và địa điểm mong manh tới nỗi ở mức độ mắt thường không trông thấy được và Sachs rà soát khắp căn phòng, chẳng phát hiện ra chứng cứ gì hữu ích cả - chỉ có đất, những mẩu kim loại, những mẩu gỗ cháy - dấu vết của các bức tường bị sập xuống trong vụ hỏa hoạn, thức ăn, nước, các giấy gói kẹo bánh và băng dính nhựa mà Garrett mang đến (tất cả đều không có nhãn cửa hiệu). Cô phát hiện ra tấm bản đồ Ed Schaeffer tội nghiệp đã xem. Nó chỉ đường Garrett đi tới cối xay nhưng sau đó thì không có cái đích nào được đánh dấu.
Tuy nhiên Sachs vẫn rà soát lại lần thứ hai. Rồi một lần nữa. Phần vì nhớ lời dạy của Rhyme, phần vì đây cũng chính là bản tính của cô. (Và phần vì, cô tự hỏi, một chiến thuật trì hoãn chăng? Làm cho cuộc hẹn của Rhyme với Tiến sĩ Weaver càng chậm càng tốt?)
Giọng Lucy gọi to: “Tôi tìm thấy cái này.”
Sachs đã đề nghị người nữ đồng nghiệp lục soát buồng nghiền bột. Theo như Lydia kể, thì đó là nơi cô cố gắng trốn chạy khỏi Garrett, và Sachs lập luận rằng nếu đã có vật lộn thì có thể đã có vật gì đó rơi ra từ túi quần túi áo của Garrett. Cô đã cho Lucy một bài giảng cấp tốc về phương pháp đi theo đường bàn cờ những thứ phải tìm kiếm, cách thu nhặt vật chứng.
“Xem đây”, Lucy nồng nhiệt nói, bê cái hộp các tông tới chỗ Sachs. “Phát hiện ra những thứ này giấu đằng sau thớt cối.”
Bên trong cái hộp là một đôi giày cũ, một áo khoác ngắn không thấm nước, một la bàn và một bản đồ bờ biển Bắc Carolina. Sachs cũng để ý thấy vết cát trắng bên trong đôi giày và ở nếp gấp tấm bản đồ.
Lucy định mở tấm bản đồ ra.
“Đừng”, Sachs nói. “Có thể sẽ có dấu vết gì đó bên trong. Để đến khi chúng ta quay lại chỗ Lincoln đã.”
“Nhưng biết đâu hắn đã đánh dấu nơi giam giữ cô gái.”
“Có thể. Dù sao thì chỗ đánh dấu vẫn còn đó khi chúng ta quay lại la-bô. Bây giờ mà chúng ta bị mất dấu vết, chúng ta sẽ bị mất vĩnh viễn luôn.” Rồi Sachs nói: “Chị tiếp tục lục soát bên trong nhé. Tôi muốn kiểm tra cái lối mòn mà hắn đang đi thì bị chúng ta chặn lại. Nó dẫn về phía con suối. Có thể hắn giấu thuyền đằng ấy. Có thể sẽ có một tấm bản đồ nữa hoặc vật nào đấy khác chăng.”
Sachs rời khỏi cối xay và vội vã bước về phía con suối. Khi đi ngang qua quả đồi nơi Mason đã bắn xuống, cô rẽ ngoặt và phát hiện ra hai gã đàn ông đang nhìn cô chằm chằm. Hai gã cầm hai khẩu súng trường.
Ôi, không. Không phải là họ chứ.
“Chà”, Rich Culbeau nói, gạt một con ruồi đậu trên cái trán sạm nắng. Gã hất đầu và đuôi tóc tết dày bóng loáng đung đưa như đuôi ngựa.
“Cảm ơn rất nhiều, thưa cô”, gã kia cất giọng thoáng vẻ châm chọc.
Sachs nhớ ra tên gã: Harris Tomel - cái gã trông giống một doanh nhân miền Nam cũng như Culbeau trông giống một tay tổ lái.
“Không có phần thưởng cho chúng tôi”, Tomel tiếp tục. “Mất một ngày trời dãi nắng.”
Culbeau nói: “Thằng nhãi nói với cô Mary Beth ở đâu chưa?” Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
“Việc ấy các anh phải hỏi Cảnh sát trưởng Bell”, Sachs trả lời.
“Chúng tôi cứ tưởng hắn đã nói.”
Rồi Sachs băn khoăn tự hỏi: Làm sao hai gã này phát hiện ra cái cối xay? Có thể hai gã đã bám theo đội tìm kiếm, nhưng cũng có thể hai gã đã có thông tin - có thể từ Mason Germain, với hy vọng có được sự ủng hộ nhỏ nhoi cho chiến dịch bắn tỉa vô kỷ luật.
“Tôi đã đoán đúng”, Culbeau tiếp tục.
“Cái gì?”, Sachs hỏi.
“Sue McConnell đã tăng phần thưởng lên hai nghìn”, gã nhún vai.
Tomel nói thêm: “Miếng ăn đến miệng rồi còn để rơi mất.”
“Xin lỗi các anh, tôi có việc phải làm.” Sachs bắt đầu đi qua hai gã, nghĩ bụng: Còn gã thứ ba của cái nhóm này đâu? Gã gầy giơ xương...
Một âm thanh lướt nhanh phía sau Sachs và cô cảm thấy khẩu súng lục được rút ra khỏi bao. Cô xoay lại, khom người trong lúc khẩu súng mất hút vào bàn tay của gã Sean O’Sarian đầy tàn nhang, gầy nhẳng. Gã nhún nhảy lùi ra xa cô, nhăn nhở cười. Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Culbeau lắc đầu: “Sean, thôi nào”.
Sachs chìa bàn tay ra: “Cho tôi xin lại”.
“Nghía tí thôi mà. Đẹp đấy. Harris đây sưu tầm súng. Khẩu này đẹp đấy, phải không, Harris?”
Tomel chẳng nói gì, chỉ thở dài và lau mồ hôi trên trán.
“Anh đang tự chuốc lấy phiền phức đấy.”
Culbeau bảo: “Trả cho cô ta đi, Sean. Không phải trò nghịch ngợm của mày đâu.”
Gã giả vờ đưa cho Sachs, chìa báng súng ra trước, rồi nhăn nhở cười và rụt tay lại. “Này, cưng, chính xác thì cô em từ đâu đến? New York hả, anh nghe nói thế. Ở đó ra sao nhỉ? Một nơi hoang dã, anh cuộc là thế.”
“Đừng lãng phí thời gian với cái khẩu súng chết tiệt ấy nữa”, Culbeau lầm bầm. “Chúng ta bị tuột mất khoản tiền kia rồi. Hãy chấp nhận điều đó và quay lại thị trấn đi.”
“Trả vũ khí cho tôi”, Sachs lẩm bẩm.
Nhưng O’Sarian đang nhún nhẩy bước vòng quanh, nhăm súng lên các vòm cây y như thể một thằng nhóc mười tuổi chơi trò công an bắt kẻ cướp vậy. “Pằng, pằng...”
“Được rồi, bỏ qua chuyện này đi.” Sachs nhún vai. “Dù sao thì nó cũng chẳng phải của tôi. Khi nào anh chơi xong cứ việc đem trả cho văn phòng cảnh sát trưởng.” Cô quay người bước qua O’Sarian.
“Này”, gã nói, cau mày thất vọng vì Sachs bỏ dở trò chơi. “Cô không…”
Sachs né sang bên phải O’Sarian, chúi xuống và nhanh chóng đứng thẳng dậy đằng sau gã, vòng cánh tay khóa lấy cổ gã. Chỉ nửa giây, con dao bấm đã được rút khỏi túi quần cô, lưỡi dao mở ra và mũi dao đập đập vào những cái nốt đỏ phía dưới cằm gã.
“Ôi, lạy Chúa, cô đang làm cái quái quỷ gì thế?”, O’Sarian thốt lên, rồi nhận ra rằng khi nói cổ họng gã bị ấn thêm vào mũi dao. Gã câm miệng.
“Được rồi, được rồi.” Culbeau giơ hai tay lên. “Chúng ta đừng...”
“Hãy thả vũ khí xuống đất”, Sachs nói. “Tất cả các anh.”
“Tôi chẳng làm gì cả”, Culbeau phản đối.
“Thưa cô, cô nghe này”, Tomel nói, cố gắng lấy giọng biết điều. “Chúng tôi không định gây rắc rối. Ông bạn chúng tôi đây...”
Mũi dao chọc vào cái cằm lởm chởm râu của O’Sarian.
“Á á, làm đi, làm đi!”, O’Sarian tuyệt vọng nói, hai hàm răng nghiến lại. “Vứt mấy khẩu súng chết giẫm xuống.”
Culbeau thả khẩu súng trường của gã xuống đất. Tomel cũng vậy.
Trong lúc bị cái mùi không tắm gội bốc ra từ cơ thể O’Sarian tấn công, Sachs trượt bàn tay dọc theo cánh tay gã, tịch thu khẩu súng. Gã đành buông tay. Cô bước lùi lại, đẩy O’Sarian một cái, vẫn chĩa khẩu súng ngắn vào gã.
“Tôi chỉ đùa thôi”, O’Sarian nói. “Tôi chỉ đùa. Tôi chẳng làm gì cả. Tôi chẳng có ý gì cả. Hãy bảo cô ta là tao chẳng làm gì cả...”
“Chuyện gì xảy ra thế này?”, Lucy Kerr hỏi, bước xuôi theo lối mòn, bàn tay đặt trên báng khẩu súng ngắn.
Culbeau lắc đầu. “Sean giở trò ngu ngốc.”
“Những cái trò sẽ khiến anh ta mất mạng có ngày”, Lucy nói
Sachs đóng con dao bấm bằng một tay và lại đút nó vào túi quần.
“Xem này, tôi bị cứa đứt da. Xem này, máu!” O’Sarian giơ lên một ngón tay dây máu.
“Chết tiệt”, Tomel nói vẻ sợ sệt, tuy Sachs chẳng biết gã định ám chỉ điều gì.
Lucy nhìn Sachs. “Cô muốn xử lý việc này như thế nào đây?”
“Tắm một cái”, Sachs trả lời.
Culbeau bật cười.
Sachs nói thêm: “Chúng ta không có thời gian mà lãng phí với họ.”
Người nữ cảnh sát hất đầu bảo mấy gã đàn ông: “Đây là hiện trường vụ án. Các anh không có cơ hội giành phần thưởng đâu.” Cô hất đầu chỉ mấy khẩu súng trường. “Nếu các anh muốn săn bắn gì, hãy đi chỗ khác.”
“Ồ, giống như đang mùa săn bắn ấy nhỉ”, O’Sarian nói giọng châm chọc, coi câu bình luận của Lucy thật ngớ ngẩn. “Ý tôi là, rõ khỉ.”
“Rồi quay lại thị trấn đi - trước khi các anh rước thêm rắc rối cho cuộc đời mình.”
Mấy gã đàn ông nhặt súng lên. Culbeau cúi đầu nói vào tai O’Sarian những lời thì thầm, tức tối. O’Sarian nhún vai, nhăn nhở cười. Trong khoảnh khắc, Sachs nghĩ Culbeau sắp sửa đánh gã.
Nhưng rồi gã đàn ông to lớn đó đã bình tĩnh lại và quay sang Lucy: “Các cô tìm thấy Mary Beth chưa?”
“Chưa. Nhưng chúng tôi đã bắt được Garrett và hắn sẽ cho chúng tôi biết cô ấy đang ở đâu.”
Culbeau nói: “Giá mà chúng tôi có cơ hội lĩnh phần thưởng, nhưng tôi cũng mừng vì hắn đã bị bắt. Thằng nhãi ấy là cái họa.”
Khi bọn họ đi rồi, Sachs hỏi: “Chị phát hiện được gì ở cối xay không?”
“Không. Nên nghĩ tôi sẽ xuống đây hỗ trợ cô tìm kiếm con thuyền.”
Trong lúc tiếp tục đi xuôi theo lối mòn, Sachs nói: “Có một việc tôi quên mất. Chúng ta phải cử người quay lại chỗ cái bẫy kia - cái tổ ong bắp cày ấy mà. Giết chết chúng đi và lấp cái hố.”
“Ồ, Jim đã cử Trey Williams, một trong số các cảnh sát của chúng tôi, tới đó, mang theo hộp xịt ong bắp cày và xẻng. Nhưng chẳng có con ong nào. Nó là một cái tổ cũ.”
“Bỏ không à?”
“Phải.”
Vậy nó hoàn toàn chẳng phải một cái bẫy, chỉ là một mánh khóe để ghìm chân họ. Sachs cũng nhớ lại rằng chai ammonia không được bố trí để làm hại ai cả. Garrett đã có thể bố trí để nó đổ xuống những người đuổi theo gã, làm họ bị mù. Tuy nhiên, gã đã đặt nó trên một vách đá nhỏ. Nếu họ không phát hiện ra sợi dây câu và vướng vào nó, cái chai cũng sẽ đổ xuống những tảng đá - phía dưới mười feet so với lối mòn, cảnh báo Garrett bằng mùi ammonia, nhưng không làm hại ai.
Sachs lại hình dung ra cặp mắt mở to, hốt hoảng của Garrett.
Tôi sợ. Bắt hắn ngừng bắn đi.
Sachs nhận ra Lucy đang nói chuyện với cô.
“Xin lỗi, chị bảo gì cơ?”
Người nữ cảnh sát hỏi: “Cô học được ở đâu cách sử dụng con dao ấy?”
“Sự hoang dã đã dạy tôi đấy.”
“Sự hoang dã ư? Ở đâu?”
“Một nơi được gọi là Brooklyn”, Sachs đáp.
Chờ đợi.
Mary Beth McConnell đứng bên cạnh khung cửa sổ bụi bặm. Cô bức bối và xây xẩm mặt mày - vì hơi nóng ngột ngạt trong cái nơi đang giam giữ cô và vì cơn khát cháy cổ. Khắp ngôi nhà này, cô không tìm được một giọt chất lỏng nào để uống. Liếc nhìn qua ô cửa sổ phía sau, ánh mắt vượt qua tổ ong bắp cày, cô có thể thấy các vỏ chai nước nằm trên một đống rác. Chúng khiêu khích cô và làm cô khát thêm. Cô biết mình không sống được quá một hay hai ngày trong cái nóng như thế này mà không có nước uống.
Ông ở đâu? Ở đâu? Cô thầm nói với nhà truyền giáo.
Nếu quả thực đã xuất hiện một người đàn ông ở đằng kia - và ông ta chẳng phải là do trí tưởng tượng tuyệt vọng, bị cơn khát hành hạ của cô sáng tạo ra.
Mary Beth dựa người vào bức tường nóng bỏng. Tự hỏi liệu cô có xỉu đi không. Cố gắng nuốt nhưng trong miệng chẳng còn chút nước bọt nào. Không khí bao phủ mặt cô, ngột ngạt tựa như len nóng sực.
Rồi Mary Beth giận dữ nghĩ: Ôi, Garrett... Tao đã biết mày sẽ gây ra tai họa. Cô nhớ có câu tục ngữ xưa: Làm ơn mắc oán.
Mình đáng lẽ không nên cứu hắn… Nhưng sao mình lại có thểkhông được? Sao mà mình lại có thể không cứu hắn thoát khỏi đám nam sinh trung học đó được? Cô nhớ hôm trông thấy bốn cậu nam sinh đứng nhìn Garrett nằm ngất trên phố Cây Thích dạo năm ngoái. Một cậu cao lớn, có điệu cười nhếch mép khinh bỉ, bạn cùng đội bóng bầu dục với Billy Stail, kéo khóa chiếc quần bò Guess!, lôi cái của cậu ta ra và sắp sửa đái vào Garrett. Cô đã lao tới quát mắng cả bọn, giật lấy điện thoại di động của một cậu khác để gọi xe cấp cứu đưa Garrett đi.
Tất nhiên, mình phải làm thế.
Nhưng một khi mình cứu hắn rồi, mình lại thuộc về hắn…
Thoạt đầu, sau vụ tai nạn, Mary Beth thích thú thấy Garrett cứ bám theo cô như một kẻ hâm mộ bẽn lẽn. Gọi tới nhà để kể cho cô những tin tức gã nghe được, tặng cô những món quà (cơ mà quà gì chứ, con bọ cánh cứng màu xanh lá cây bóng loáng đựng trong cái chuồng bé tí, các bức vẽ vụng về những con nhện và những con nhiều chân, con chuồn chuồn buộc vào sợi dây - vẫn còn sống!).
Nhưng rồi cô bắt đầu nhận ra có gã ở gần quá thường xuyên. Cô nghe được tiếng bước chân đằng sau lưng mỗi khi đi bộ từ xe vào nhà, lúc đêm khuya. Trông thấy một dáng người trên những vòm cây xung quanh nhà cô ở Bến tàu kênh Nước đen. Nghe thấy cái giọng cao, kỳ dị lẩm bẩm những lời cô không thể luận ra là gì, tự nói hay hát với chính gã. Gã nhận ra cô giữa phố Chính và đi thẳng tới, chuyện trò lan ma lan man, lấy mất thời gian quý báu của cô, khiến cô càng ngày càng khó chịu. Liếc nhìn - cả ngượng ngùng lẫn thèm muốn - ngực cô, chân cô, tóc cô.
“Mary Beth, Mary Beth... chị có biết nếu một cái mạng nhện mà giả dụ như, chăng khắp thế giới, trọng lượng của nó cũng chưa đầy một ounce không... Này, Mary Beth, chị có biết mạng nhện là vật liệu bền hơn thép gấp năm lần không? Và nó đàn hồi hơn nilon? Có một số mạng nhện rất hay - chúng giống như những chiếc võng. Lũ ruồi ngả lưng xuống đó và không bao giờ tỉnh dậy.”
(Cô đáng lẽ đã phải nhận ra, giờ đây cô nhớ lại, rằng phần lớn những chuyện tầm phào của Garrett là về nhện và các côn trùng bẫy mồi.)
Và bởi vậy cô đã sắp xếp lại cuộc sống hàng ngày để tránh đụng phải gã, đi mua sắm tại các cửa hiệu mới, về nhà theo các tuyến đường khác với trước đây, lựa chọn các lối mòn khác để đạp xe, leo núi.
Nhưng rồi xảy ra một việc làm hỏng mọi nỗ lực của Mary Beth nhằm giữ khoảng cách với Garrett Hanlon: cô có một khám phá. Và tình cờ là khám phá này lại ở trên bờ sông Paquenoke ngay tại trung tâm Bến tàu kênh Nước đen - nơi gã trai đã xí làm lãnh địa riêng của mình. Tuy nhiên, khám phá này quan trọng tới nỗi thậm chí ngay một băng rượu lậu, chứ kể gì một gã trai gầy giơ xương bị ám ảnh bởi lũ côn trùng, cũng không thể khiến cô sợ không đến đó.
Mary Beth chẳng biết vì sao môn lịch sử lại gây cho cô nhiều hứng thú thế. Nhưng luôn luôn là như vậy. Cô nhớ những lần tới khu di tích thuộc địa Williamsburg thuở nhỏ. Nó chỉ cách Tanner’s Corner hai tiếng đồng hồ đi ô tô và gia đình cô hay tới đó. Mary Beth thuộc các con đường gần thị trấn ấy tới mức cô biết lúc nào họ sắp sửa đến nơi. Rồi cô nhắm mắt và sau khi cha cô phanh chiếc Buick lại cô bảo mẹ dắt tay cô vào công viên để trong đó cô có thể mở mắt, giả vờ như mình đang thực sự quay trở về nước Mỹ thời thuộc địa.
Mary Beth cảm thấy chính niềm phấn chấn này - chỉ có điều nó lớn lao hơn gấp trăm lần - khi cô bước dọc theo hai bờ sông Paquenoke ở khu vực Bến tàu kênh Nước đen tuần trước, nhìn xuống đất và nhận ra cái gì đó bị vùi lấp một nửa trong bùn lầy. Cô quỳ thụp xuống, bắt đầu gạt bùn lầy sang bên với sự thận trọng của người bác sĩ phẫu thuật đang mổ quả tim bệnh tật. Và, phải, chúng đấy: các di vật cổ - các chứng cứ mà Mary Beth McConnell đã tuyệt vọng tìm kiếm và giờ đây khiến cô gái hai mươi ba tuổi phải sững sờ. Các chứng cứ có thể chứng minh cho giả thuyết cô đưa ra - nó sẽ viết lại lịch sử nước Mỹ.
Giống như tất cả mọi người dân Bắc Carolina - và giống như hầu hết trẻ em Mỹ - Mary Beth McConnell từng học về Thuộc địa Roanoke Biến mất trong các giờ học lịch sử: Vào cuối thế kỷ XV, thực dân Anh đặt chân lên đảo Roanoke, nằm giữa vùng nội địa Bắc Carolina và khu Bờ Ngoài. Sau một thời gian tiếp xúc hầu như hòa hợp giữa người Anh đến định cư và người Mỹ bản xứ, các mối quan hệ trở nên xấu đi. Mùa đông đến gần và những người thực dân thiếu thức ăn cũng như các đồ dự trữ khác, Thống đốc John White, người sáng lập thuộc địa này, dong buồm trở về Anh xin cứu trợ. Nhưng khi ông quay lại Roanoke, những người thực dân - hơn một trăm người, cả đàn ông, đàn bà và trẻ em - đã biến mất.
Manh mối duy nhất về sự việc xảy ra là từ “Croatoan” được khắc trên vỏ cây gần nơi họ định cư. Đây là tên tiếng Anh điêng của Hatteras, cách Roanoke chừng năm mươi dặm về phía nam. Phần lớn các sử gia tin tưởng rằng những người thực dân đã thiệt mạng ngoài khơi trên đường đến Hatteras hoặc đã bị giết chết khi đến nơi, tuy không có ghi chép nào cho thấy họ từng cập bờ vào đây.
Mary Beth đã đến thăm đảo Roanoke mấy lần, đã xem buổi trình diễn tái hiện tấn thảm kịch tại một nhà hát nhỏ ở đảo. Vở kịch khiến cô xúc động và lạnh toát người. Nhưng cô chưa bao giờ suy nghĩ nhiều về câu chuyện ấy mãi cho tới khi cô lớn hơn và vào trường Tổng hợp Bắc Carolina, phân hiệu Avery, nơi cô đã đọc rất sâu về Thuộc địa Biến mất. Một khía cạnh của câu chuyện gợi lên các câu hỏi chưa có câu trả lời về số phận những người thực dân liên quan đến một cô gái tên là Virginia Dare cùng truyền thuyết Con Nai Cái Lông Trắng.
Đó là một câu chuyện mà Mary Beth McConnell - cô gái con một mang chút đầu óc nổi loạn và độc lập suy nghĩ - có thể hiểu được. Virginia Dare là đứa trẻ người Anh đầu tiên chào đời ở Mỹ. Cô là cháu gái Thống đốc White và là một trong số những người thực dân bị biến mất. Theo các sách lịch sử, cô được cho là đã thiệt mạng cùng họ ở Hatteras hoặc trên đường đến Hatteras. Nhưng khi Mary Beth tiếp tục tiến hành nghiên cứu, cô phát hiện ra rằng chẳng bao lâu sau sự kiện những Người Thực Dân Biến Mất, lúc người Anh bắt đầu định cư đông hơn ở vùng Duyên hải miền Đông, nhiều truyền thuyết địa phương về Thuộc địa Biến mất bắt đầu xuất hiện.
Một truyền thuyết cho rằng những người thực dân không bị giết chết ngay mà vẫn sống sót và tiếp tục sống lẫn giữa những bộ lạc người bản xứ. Viginia Dare lớn lên thành cô thiếu nữ xinh đẹp - da trắng, tóc vàng, ý chí mạnh mẽ và độc lập. Một thầy lang đem lòng yêu cô nhưng cô cự tuyệt và chẳng bao lâu sau thì cô biến mất. Thầy lang kia khẳng định ông ta không hãm hại cô, tuy nhiên, vì cô cự tuyệt tình yêu của ông ta, ông ta đã phù phép cho cô trở thành con nai cái lông trắng.
Tất nhiên, chẳng ai tin lời ông ta, nhung chẳng bao lâu sau người ta bắt đầu trông thấy trong vùng một con nai cái lông trắng dường như là thủ lĩnh của tất cả các loài vật trong rừng. Bộ lạc ấy, khiếp hãi trước sức mạnh rõ ràng của con nai cái, đã tổ chức một cuộc thi xem tay thợ săn nào bắn được nó.
Một tay thợ săn trẻ dũng cảm đã lần theo được dấu vết của con nai và đã bắn đi mũi tên đầu bịt bạc ở khoảng cách xa đến mức khó tin. Mũi tên xuyên vào ngực con nai và khi nằm xuống trút hơi thở cuối cùng, nó ngước nhìn tay thợ săn bằng cặp mắt người thật đáng sợ.
Anh ta lắp bắp hỏi: “Mi là ai?”
“Virginia Dare”, Con nai cái thì thầm trả lời, rồi tắt thở.
Mary Beth quyết định xem xét câu chuyện Con Nai Cái Lông Trắng một cách nghiêm túc. Miệt mài nhiều ngày đêm trong phòng tài liệu lưu trữ ở Đại học Tổng hợp Bắc Carolina, phân hiệu Chapel Hill, và ở Đại học Tổng hợp Duke, đọc các cuốn nhật ký cũ từ thế kỷ XVI, XVII, cô phát hiện ra hàng loạt những tài liệu tham khảo về “con nai cái lông trắng” và “những con quái vật lông trắng” bí ẩn ở vùng đông bắc Bắc Carolina. Nhưng những trường hợp người ta trông thấy chúng không phải là ở Roanoke hay ở Hatteras. Mà những sinh vật này được trông thấy dọc theo “hai bờ kênh Nước đen nơi sông Uốn Khúc bắt nguồn từ đầm lầy Sầu Thảm chảy về phía tây.” Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Mary Beth biết sức mạnh của truyền thuyết và bao giờ cũng có sự thực trong thậm chí là các câu chuyện huyền hoặc nhất. Cô lập luận rằng có thể Những Người Thực Dân Biến Mất, sợ hãi vì bị những bộ lạc địa phương tấn công, đã để lại chữ “Croatoan” nhằm đánh lạc hướng họ, và chạy trốn không phải về phía nam mà là về phía tây, nơi họ định cư dọc theo hai bờ của, phải, của sông Paquenoke uốn khúc - gần Tanner’s Corner, ở khu vực bây giờ được gọi là Bến tàu kênh Nước đen. Ở đó, Những Người Thực Dân Biến Mất càng ngày càng mạnh lên khiến những người Anh điêng, sợ hãi trước mối đe dọa này, đã tấn công và giết chết họ. Virginia Dare - Mary Beth cho phép mình tự phỏng đoán, diễn giải truyền thuyết về Con Nai Cái Lông Trắng - hẳn là người định cư cuối cùng sống sót, đã chiến đấu cho tới lúc chết.
Chà, đây là giả thuyết của cô, nhưng Mary Beth chưa bao giờ tìm thấy bất cứ bằng chứng nào ủng hộ nó. Cô dành cả ngày trời lang thang xung quanh Bến tàu kênh Nước đen với những tấm bản đồ cổ, cố gắng suy luận chính xác địa điểm những người thực dân hẳn đã cập bờ và nơi họ định cư. Rồi cuối cùng, tuần trước, đang bước đi dọc bờ sông Paquo, cô phát hiện ra những chứng cứ thuộc về Thuộc Địa Biến Mất.
Mary Beth nhớ nỗi khiếp sợ của mẹ khi cô bảo bà rằng cô sẽ tiến hành công việc khảo cổ tại Bến tàu kênh Nưóc đen.
“Không phải ở đó”, người phụ nữ có nước da trắng bệch nói gay gắt, y như thể chính mình gặp nguy hiểm. “Đó là nơi Thằng Bọ chuyên giết người. Nó sẽ phát hiện ra mày, nó sẽ hãm hại mày.”
“‘Mẹ”, Mary Beth gay gắt đáp trả. “Mẹ cũng giống như lũ khốn nạn ở trường suốt ngày trêu chọc hắn.”
“Mày lại nói cái từ ấy. Tao đã bảo mày đừng nói cơ mà. Cái từ ‘khốn nạn’ ấy.”
“Mẹ, thôi nào - mẹ nói nghe như một tín đồ phái Baptist không khoan nhượng, ngồi trên băng ghế lo âu.” Ý cô là hàng ghế phía trước trong nhà thờ, nơi an tọa của những người xứ đạo đặc biệt hay bàn khoăn về phẩm hạnh của chính mình, hoặc - nhiều khả năng hơn - về phẩm hạnh của những người khác.
“Ngay cái tên cũng đáng sợ rồi”, Sue McConnell lẩm bẩm. “Nước đen.”
Và Mary Beth giải thích rằng có đến hàng chục kênh Nước đen ở Bắc Carolina. Bất cứ con sông nào bắt nguồn từ những vùng đầm lầy đều được gọi là sông nước đen vì nước sông thẫm màu do thực vật mục nát lắng xuống. Sông Paquenoke nhận nước từ đầm lầy Sầu Thảm và các bãi lầy xung quanh.
Nhưng thông tin này không khiến cho bà mẹ bớt lo lắng. “Mẹ xin con, con yêu, đừng đi.” Rồi người phụ nữ sử dụng đến biện pháp gợi mặc cảm tội lỗi. “Bây giờ bố mất rồi, nếu có chuyện gì xảy ra với con thì mẹ chẳng còn ai nữa... Mẹ sẽ cô độc một mình. Mẹ sẽ phải làm gì? Con không muốn như thế chứ, hả con?”
Nhưng Mary Beth, bị kích thích bởi chất adrenaline vốn vẫn luôn luôn kích thích các nhà thám hiểm và các khoa học gia, đã gói ghém những cái chổi, những cái lọ và túi đựng các thứ thu thập được, cùng với xẻng làm vườn, rồi buổi sáng hôm qua, trong bầu không khí nóng nực, vàng vọt, ẩm ướt, đã xuất phát để tiếp tục thực hiện công việc khảo cổ.
Và đã xảy ra chuyện gì? Mary Beth đã bị Thằng Bọ tấn công, bắt cóc. Mẹ cô đã dự đoán đúng.
Bây giờ, ngồi trong ngôi nhà gỗ gớm ghiếc, nóng nực này, phải chịu đựng cảm giác đau đớn, nôn nao, nửa như mê sảng, cô nghĩ về mẹ. Chồng chết vì bị ung thư sau một thời gian ốm yếu hao mòn, cuộc sống của người phụ nữ này đang tan vỡ. Bà đã từ bỏ bạn bè, công việc tình nguyện tại bệnh viện, mọi vẻ bề ngoài của lề thói và trạng thái bình thường. Mary Beth thấy mình bắt đầu đảm nhiệm vai trò cha mẹ, trong khi mẹ cô thì trượt vào thế giới xem ti vi ban ngày và ăn vặt. Béo lùn, không cảm xúc, lúc nào cũng thèm thuồng, bà chẳng khác nào một đứa trẻ đáng thương.
Nhưng một trong những điều người cha từng dạy Mary Beth - bằng cả cuộc đời ông lẫn cái chết khó nhọc - là người ta luôn luôn làm cái mà người ta đã được định hướng và không thay đổi con đường đi vì bất cứ ai. Mary Beth không bỏ học để nhận một công việc gần nhà như mẹ cô nài nỉ. Cô cân bằng nhu cầu được nương tựa của mẹ với các nhu cầu của chính bản thân cô - lấy bằng cử nhân và sang năm, khi học xong, sẽ tìm kiếm một công việc để có thể thực hiện những nghiên cứu điền dã về nhân chủng học Mỹ. Nếu được gần nhà thì tốt. Nhưng nếu phải tiến hành khai quật về người da đỏ ở Santa Fe, về người Eskimo ở Alaska, hay về người Mỹ gốc Phi ở Manhattan, cô cũng sẽ đi mà không ngần ngại. Cô sẽ luôn luôn ở bên cạnh mẹ khi cần thiết, nhưng cô còn có cả cuộc đời của chính bản thân cô trước mắt.
Trừ lúc này đây, đáng lẽ cô đang phải đào bới và thu thập thêm chứng cứ tại Bến tàu kênh Nước đen, tham khảo ý kiến của giáo viên hướng dẫn luận văn tốt nghiệp, viết đề xuất, kiểm tra vật đã phát hiện được, thì cô lại mắc kẹt trong cái ổ yêu đương - một gã trai mới lớn mắc chứng tâm thần.
Một cơn tuyệt vọng lan khắp ngưòi cô.
Cô cảm thấy nước mắt ứa ra.
Nhưng rồi cô chặn đứng nó lại.
Thôi nào!... Hãy mạnh mẽ lên. Hãy là con gái của bố, chiến đấu với bệnh tật từng giây từng phút mỗi ngày, không ngơi nghỉ. Đừng là con gái của mẹ.
Hãy là Virginia Dare, người làm sống lại Thuộc Địa Biến Mất.
Hãy là Con Nai Cái Lông Trắng, nữ chúa của tất cả các loài vật trong rừng.
Và rồi, đúng lúc Mary Beth đang nghĩ tới bức tranh minh họa con nai cái đường bệ trong một cuốn sách tập hợp những truyền thuyết vùng Bắc Carolina, một sự chuyển động nữa vụt xuất hiện ở bìa rừng. Nhà truyền giáo bước ra khỏi cây cối rậm rạp, vai đeo chiếc ba lô lớn.
Ông ta có thực!
Mary Beth vớ lấy chiếc lọ mà Garrett đựng con bọ cánh cứng trông giống một con khủng long, ném mạnh vào kính cửa sổ. Chiếc lọ bay qua kính và vỡ tan trước những chấn song sắt lắp phía ngoài.
“Cứu tôi với!”, Mary Beth hét lên, giọng hầu như không nghe thấy được vì cổ họng cô đã khô rang rồi. “Cứu với!”
Cách đây gần một trăm thước, người đàn ông dừng bước. Ông ta nhìn xung quanh.
“Làm ơn! Cứu tôi với!” Một câu rền rĩ kéo dài.
Ông ta ngoái nhìn đằng sau. Rồi bước đi vào rừng.
Mary Beth hít sâu một hơi và cố gắng gọi lần nữa, nhưng cổ họng cô nghẹn lại. Cô cảm thấy nghẹt thở, nhổ ra ít máu.
Và ở phía bên kia cánh đồng cỏ, nhà truyền giáo tiếp tục bước vào rừng. Một lát sau, bóng ông ta khuất hẳn.
Mary Beth nặng nề buông người xuống chiếc đi văng mốc meo và tuyệt vọng dựa đầu vào tường. Cô đột ngột ngước nhìn, cô lại bắt gặp sự di động nào đấy. Nó ở gần thôi - trong ngôi nhà gỗ này. Con bọ cánh cứng trong chiếc lọ - con khủng long ba sừng tí hon - vẫn sống sót sau cú chấn động vì mất nhà. Mary Beth quan sát nó ngoan cường bò lên mép miếng thủy tinh vỡ, xòe một đôi cánh, rồi xòe một đôi cánh nữa, đôi cánh này rung mờ đi và nhấc nó rời khỏi bậu cửa sổ, bay ra bầu trời tự do.
16.06.2015
PHẦN 2: CON NAI CÁI LÔNG TRẮNG
CHƯƠNG 17
Dịch giả: Đinh Minh Hương
Nguồn: NXB Văn học
Nội dung thu gọn
"Chúng tôi đã bắt được hắn”, Rhyme nói với Jim Bell và cậu em rể anh ta, cảnh sát Steve Farr. “Amelia và tôi. Đấy là điều đã được thỏa thuận. Bây giờ thì chúng tôi phải quay lại Avery.”
“Chà, Lincoln”, Bell tế nhị mào đầu. “Chỉ có điều Garrett chẳng chịu khai gì. Hắn chẳng chịu cho chúng tôi biết nơi đang giữ Mary Beth.”
Ben Kerr ngập ngừng đứng gần đó, bên cạnh đường đồ thị nhấp nhô như núi đồi, lấp lóe sáng trên màn hình máy vi tính nối với máy tách hợp chất. Sự do dự ban đầu đã biến mất và bây giờ anh ta xem chừng nuối tiếc khi kết thúc nhiệm vụ. Amelia Sachs cũng đang ở trong la-bô. Mason không có mặt, như thế là khôn ngoan - Rhyme đang điên tiết vì anh ta dám đe dọa tính mạng Sachs bằng những phát bắn tỉa vào cối xay. Bell giận dữ ra lệnh cho anh ta tạm thời không tham gia giảỉ quyết vụ án.
“Tôi hiểu.” Rhyme gạt phắt, đáp lại ý ngấm ngầm đề nghị được giúp đỡ thêm của Bell. “Nhưng cô gái không ở trong hoàn cảnh nguy ngập cấp bách.” Lydia đã thông báo rằng Mary Beth vẫn còn sống và đã nói khái quát địa điểm giam giữ cô. Một cuộc tìm kiếm tập trung khu Bờ Ngoài sẽ có thể tìm thấy cô sau vài ngày. Và bây giờ thì Rhyme đã sẵn sàng cho ca phẫu thuật. Giữa tất cả các sự việc, anh bám lấy cái điềm kỳ lạ báo trước may mắn - đó là lúc Henry Davett thô lỗ tranh luận với anh, và ánh mắt tựa thép nung đỏ của người đàn ông này. Hình ảnh của vị thương nhân thúc giục anh quay lại bệnh viện, hoàn thành các xét nghiệm và nằm xuống dưới lưỡi dao mổ. Anh liếc nhìn Ben và sắp sửa yêu cầu anh ta thu dọn thiết bị khám nghiệm thì Sachs tiếp tục mục tiêu của Bell: “Bọn em tìm thấy một số chứng cứ ở chỗ cối xay, Rhyme. Thực ra người tìm thấy là Lucy. Những chứng cứ hữu ích.”
Rhyme nói gắt gỏng: “Nếu đây là những chứng cứ hữu ích, một người khác sẽ xác định được chúng dẫn đến đâu.”
“Xin anh hãy nghe, Lincoln.” Bell lại mào đầu bằng cái chất giọng vùng Carolina không nặng lắm. “Tôi không có ý ép anh nhưng xung quanh đây anh là người duy nhất có kinh nghiệm giải quyết những vụ trọng án như thế này. Chẳng hạn, chúng tôi có cố gắng cũng chẳng hiểu cái ấy nó nói mô tê gì.” Anh ta hất đầu chỉ chiếc máy tách hợp chất. “Hay cục đất này hay dấu chân kia có ý nghĩa ra sao.”
Cọ cọ đầu vào cái gối tựa đầu của chiếc Storm Arrow, Rhyme liếc nhìn gương mặt đầy cầu khẩn của Sachs. Thở dài, cuối cùng anh hỏi: “Garrett không nói gì à?”
“Hắn có nói”, Farr trả lời, giật một bên tai to như lá cờ. “Nhưng hắn phủ nhận việc giết Billy và bảo rằng hắn đưa Mary Beth đi khỏi Bến tàu kênh Nước đen vì muốn tốt cho chính cô gái. Thế đấy. Hắn sẽ chẳng chịu khai nơi đang giữ cô gái đâu.”
Sachs nói: “Rhyme, với cái nóng như thế này, cô ấy có thể chết khát.”
“Hoặc chết đói”, Farr nêu ý kiến.
Ôi, vì Chúa...
“Thom”, Rhyme quát. “Gọi cho Tiến sĩ Weaver. Bảo tôi sẽ ở đây thêm một chút nữa. Nhấn mạnh vào từ một chút.” Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
“Chúng tôi cũng chỉ đề nghị có vậy, Lincoln”, Bell nói, vẻ nhẹ nhõm hiện trên khuôn mặt đầy nếp nhăn. “Một hoặc hai tiếng đồng hồ. Chúng tôi chắc chắn rất biết ơn anh - chúng tôi sẽ coi anh là công dân danh dự của Tanner’s Corner”, viên cảnh sát trưởng nói đùa. “Chúng tôi sẽ trao cho anh chìa khóa mở cửa thị trấn.”
Chẳng qua là để mở cánh cửa kia và biến khỏi đây nhanh chóng hơn. Rhyme hoài nghi nhủ thầm. Anh hỏi Bell: “Lydia đâu?”
‘Trong bệnh viện.” Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
“Cô ta ổn chứ?”
“Không có gì nghiêm trọng. Họ giữ cô ấy lại một ngày để theo dõi.”
“Cô ta nói thế nào - chính xác?”, Rhyme đưa ra mệnh lệnh.
Sachs trả lời: “Cô ấy nói Garrett bảo đang giữ Mary Beth tại một chỗ ở về phía đông, gần biển. Khu Bờ Ngoài. Hắn cũng bảo hắn không thực sự bắt cóc cô gái. Cô gái tự nguyện đi theo. Hắn chỉ đang canh chừng cho cô và cô sẵn lòng ở đó. Lydia còn nói chúng ta bắt được Garrett trong lúc hắn hoàn toàn mất cảnh giác. Hắn chẳng nghĩ chúng ta lại tới cối xay nhanh đến thế. Khi ngửi thấy mùi ammonia, hắn hoảng hốt, thay quần áo, bịt miệng cô ấy rồi chạy ra ngoài.”
“Được rồi... Ben, chúng ta có một số thứ để xem xét.”
Nhà động vật học gật đầu, lại xỏ đôi găng tay cao su vào - chẳng cần Rhyme phải yêu cầu, nhà hình sự học thầm nhận xét như vậy.
Rhyme hỏi tới chỗ thức ăn và nước uống tìm thấy tại cối xay. Ben giơ chúng lên. Nhà hình sự học nhận xét “Không nhãn cửa hiệu. Giống như những thứ khác sẽ không hữu ích gì cho chúng ta. Xem có cái gì bám vào mặt dính của băng dính nhựa không.”
Sachs và Ben khom lưng tìm kiếm mười phút với một chiếc kính lúp cầm tay. Cô giật ra các mảnh gỗ và Ben lại bê kính hiển vi cho Rhyme soi. Nhưng dưới thấu kính hiển vi, rõ ràng là chúng phù hợp với gỗ ở cối xay. “Chẳng có gì cả”, cô nói.
Rồi Ben cầm lên tấm bản đồ quận Paquenoke. Nó được đánh dấu bằng các dấu nhân (X) và mũi tên, thể hiện lối Garrett đã đi từ Bến tàu kênh Nước đen đến cối xay. Cũng không có nhãn giá.
Và không chỉ ra nơi gã sẽ đi sau khi rời khỏi cối xay.
Rhyme hỏi Bell: “Các vị có ESDA chứ?”
“Có cái gì cơ?”
“Thiết bị phát hiện dấu vết bằng tĩnh điện.”
“Thậm chí không biết cái đó là cái gì.”
“Để nhận ra những nét bút hằn trên giấy. Nếu Garrett đã viết lên một tờ giấy kê bên trên tấm bản đồ, tên một thị trấn hoặc một địa chỉ, chúng ta sẽ đọc được.”
“Chà, chúng tôi không có thiết bị ấy. Hay để tôi gọi cho cảnh sát bang?”
“Thôi, chẳng cần. Ben, hãy chiếu đèn pin theo một góc thấp lên tấm bản đồ. Xem có nét hằn nào không.”
Ben thực hiện và mặc dù rà soát từng ly từng tí họ cũng không phát hiện ra nét chữ hay nét đánh dấu nào.
Rhyme yêu cầu Ben kiểm tra tấm bản đồ thứ hai, tấm bản đồ Lucy tìm thấy tại cối xay. “Hãy xem có dấu vết gì ở các mép gấp không. Phiếu đặt mua tạp chí thì nhỏ quá. Giũ nó ra một tờ báo vậy.”
Nhiều cát rơi xuống. Rhyme ngay lập tức thấy đây thực tế là cát ven biển, loại cát có ở khu Bờ Ngoài - các hạt cát trong suốt chứ không mờ đục như cát đất liền.
“Hãy chạy một mẫu qua máy tách hợp chất. Xem có dấu vết gì hữu ích không.”
Ben khởi động cái máy kêu ầm ầm.
Trong lúc chờ đợi kết quả, anh ta trải tấm bản đồ ra bàn Bell, Ben và Rhyme xem xét nó cẩn thận. Nó thể hiện dải bờ biển miền đông nước Mỹ với các tuyến đường hàng hải từ Norfolk Virginia và Hampton Roads xuôi xuống tận Nam Carolina. Họ xem xét từng ly từng tí, nhưng Garrett chẳng khoanh tròn hay đánh dấu bất cứ địa điểm nào.
Tất nhiên là không, Rhyme nghĩ thầm, không bao giờ lại dễ dàng như thế. Họ cũng chiếu đèn pin lên tấm bản đồ này. Tuy nhiên không phát hiện ra nét bút hằn nào cả.
Kết quả từ máy tách hợp chất lóe sáng trên màn hình. Rhyme liếc nhanh qua nó. “Chẳng giúp ích mấy. Natri clorua - muối ăn thông thường - cùng với muối, các chất hữu cơ. Tất cả đều liên quan đến nước biển. Nhưng hầu như không có dấu vết gì khác. Chẳng giúp ích mấy cho chúng ta trong việc liên hệ chỗ cát này với một địa điểm cụ thể.” Rhyme hất đầu chỉ đôi giày để trong hộp cùng với tấm bản đồ. Anh hỏi Ben: “Xem có dấu vết gì khác ở đôi giày không?”
Chàng thanh niên xem xét chúng cẩn thận, thậm chí tháo cả dây giày ra - đúng lúc Rhyme đang định bảo anh ta. Cậu chàng này có khả năng trở thành một nhà hình sự học giỏi đây, Rhyme tự nhủ thầm. Cậu ta không nên lãng phí tài năng cho những con cá bị loạn thần kinh.
Đôi giày cũ kỹ hiệu Nikes - là loại giày phổ biến tới nỗi không thể nào lần ra cửa hàng mà Garrett đã mua nó.
“Vết lá khô, trông có vẻ thế. Lá thích hoặc lá sồi. Nếu tôi bắt buộc phải phỏng đoán.”
Rhyme gật đầu. “Còn gì khác trong hộp không?”
“Không.”
Rhyme ngẩng nhìn các bảng chứng cứ trước. Ánh mắt anh dừng lại ở chất camphene.
“Sachs, trong cối xay, có những cái đèn đốt cổ treo trên tường không? Hoặc là đèn lồng?”
“Không”, Sachs trả lời. “Không có.”
“Em có chắc chắn không?”, Rhyme cộc cằn gặng. “Hay em hoàn toàn không chú ý?”
Sachs khoanh tay trước ngực, nói giọng đều đều: “Sàn lát gạch hai mươi lăm<31> màu nâu đỏ sẫm, tường là vách trát vữa. Một bức có dòng chữ graffiti bằng sơn phun màu xanh da trời: “Josh và Brittany, yêu nhau mãi mãi”, từ “love” (yêu) được viết thành L-U-V. Có một chiếc bàn kiểu Shaker, bị nứt ở giữa và sơn màu đen, ba chai nước hiệu Deer Park, một phong kẹo sôcôla nhân bơ lạc hiệu Reese’s, năm túi Doritos, hai túi khoai tây chiên Cape Cod, sáu lon Pepsi, bốn lon Coke, tám phong bích quy bơ lạc với phó mát hiệu Planters. Có hai cửa sổ. Một bịt ván. Một không bịt ván thì chỉ còn một tấm kính lành lặn - các tấm khác đã bị đập vỡ - và tất cả các quả đấm cửa, các chốt cài cửa sổ đều đã bị đánh cắp. Có các công tắc điện kiểu cũ gắn trên tường. Và, phải, em chắc chắn rằng không có cái đèn đốt cổ nào cả.”
“Ái chà, ông thua chị ấy rồi, Lincoln”, Ben vừa nói vừa cười to.
Về phe với Sachs, chàng thanh niên nhận được cái quắc mắt của Rhyme. Nhà hình sự học lại đăm đăm nhìn bảng chứng cứ rồi lắc đầu, bảo Bell: “Tôi xin lỗi, Jim, tôi chẳng thể nói được gì hơn ngoài việc cô gái có lẽ đang bị giữ trong một ngôi nhà không cách xa biển nhưng - nếu những loài cây thay lá mọc gần đó - nó không ởsát biển. Vì sồi và thích không có ở vùng cát. Và đó là một ngôi nhà cổ - vì có đèn đốt bằng camphene. Từ thế kỷ XIX. Tôi e rằng tôi chỉ nói được vậy thôi.”
Bell nhìn tấm bản đồ bờ biển miền Đông, lắc đầu. “Chà, tôi sẽ nói chuyện lại với Garrett, xem hắn có chịu hợp tác không. Nếu không, tôi sẽ gọi cho ủy viên công tố và tính tới một thỏa thuận điều đình nhận tội để đổi lấy thông tin. Trong trường hợp xấu nhất, tôi sẽ tiến hành lục soát khu Bờ Ngoài. Tôi phải nói với anh Lincoln, anh là ân nhân cứu mạng. Tôi không thể cảm ơn anh cho đủ được. Anh còn ở đây một lát nữa chứ?”
“Chỉ đủ để bảo Ben cách thu dọn các thiết bị thôi.”
Rhyme tự nhiên lại nghĩ tới biểu tượng may mắn của mình, Henry Davett. Nhưng anh ngạc nhiên thấy sự phấn chấn vì nhiệm vụ đã kết thúc bị lấn át bởi nỗi thất vọng khi câu trả lời cuối cùng cho bài toán tìm kiếm Mary Beth McConnell vẫn trốn tránh anh. Tuy nhiên, như vợ cũ anh từng nói mỗi lần anh bước ra khỏi cửa căn hộ của hai người lúc một hay hai giờ sáng để đi khám nghiệm hiện trường một vụ án, “anh không thể cứu vớt cả thế giới”. “Tôi chúc anh may mắn, Jim.”
Sachs bảo Bell: “Anh không cảm thấy phiền nếu tôi đi cùng anh chứ? Đi gặp Garrett?”
“Xin cứ tự nhiên”, viên cảnh sát trưởng đáp. Anh ta xem chừng muốn nói thêm điều gì - có thể là về việc cái duyên dáng của nữ giới sẽ giúp họ khai thác thông tin từ gã trai. Nhưng rồi anh ta rõ ràng là - và Rhyme tự nhủ thầm, như thế là khôn ngoan - đã suy nghĩ lại.
“Chúng ta bắt tay vào việc nào, Ben”, Rhyme nói. Anh lăn xe đến chỗ chiếc bàn đặt các ống nghiệm thử tỷ trọng. “Bây giờ thì hãy lắng nghe cho cẩn thận này. Dụng cụ của một nhà hình sự học cũng giống như vũ khí của một sĩ quan tác chiến vậy. Chúng phải được gói ghém và bảo quản đúng cách. Cậu đối xử với chúng như thể tính mạng một người nào đó sẽ phụ thuộc vào chúng vì, tin tôi đi, sẽ đúng là như thế đấy. Cậu có nghe không đấy, Ben?” Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
“Tôi đang nghe đây ạ.”
Chú Thích:
<31> Gạch vuông, mỗi cạnh hai mươi lăm centimét.
16.06.2015
PHẦN 2: CON NAI CÁI LÔNG TRẮNG
CHƯƠNG 18
Dịch giả: Đinh Minh Hương
Nguồn: NXB Văn học
Nội dung thu gọn
Khu tạm giam của Tanner’s Corner cách văn phòng cảnh sát trường hai khối phố dài.
Sachs và Bell bước dọc theo vỉa hè nóng bỏng để đến đấy. Hai gã say rượu ốm yếu họ trông thấy khi mới tới vẫn còn ở khu trung tâm, ngồi trên chiếc ghế băng, câm lặng. Một phụ nữ gầy giơ xương, tóc chải ôm sát lấy đầu, đỗ chiếc Mercedes vào dãy đỗ xe trống không, trèo ra khỏi xe và bước vào tiệm làm móng. Chiếc xe hào nhoáng xem chừng hoàn toàn lạc lõng trong thị trấn nhỏ này. Chẳng còn ai ngoài phố. Sachs để ý thấy dăm bảy cơ sở kinh doanh từng hoạt động. Một trong số đó từng là cửa hiệu bán đồ chơi. Một manơcanh trẻ con mặc bộ đồ nỉ đã bị ánh nắng làm cho bạc màu nằm trong khung cửa sổ. Cô lại nghĩ, trẻ con ở đâu hết rồi?
Rồi Sachs trông sang bên kia đường và bắt gặp một bộ mặt đang quan sát cô từ căn phòng tối mờ mờ của quán bar Eddie. Cô nheo mắt. “Ba cái gã kia kìa?”, cô hất đầu nói.
Bell nhìn. “Culbeau và các chiến hữu của anh ta ấy à?”
“Vâng. Mấy gã thích gây chuyện. Mấy gã đã lấy khẩu súng tôi đang đeo trên người”, Sachs nói. “Một gã trong số đó. O’Sarian.”
Viên cảnh sát trưởng cau mày. “Sự việc như thế nào rồi?”
“Tôi đã lấy lại”, Sachs trả lời ngắn gọn.
“Chị có muốn tôi đưa anh ta về đồn không?”
“Không. Có điều tôi nghĩ là anh nên biết: mấy gã khó chịu vì bị tuột mất phần thưởng. Tuy nhiên, nếu anh hỏi tôi, tôi sẽ nói rằng còn hơn thế nữa kia. Mấy gã đang tìm cơ hội tấn công thằng nhãi.”
“Bọn họ và tất cả những người còn lại của thị trấn.”
Sachs nói: “Nhưng tất cả những người còn lại của thị trấn không vác những khẩu lúng đi nạp đạn đi lung tung.”
Bell tủm tỉm cười. “Ờ, dù sau thì cũng không phải tất cả những người còn lại.”
“Tôi cũng hơi tò mò muốn biết làm sao mà mấy gã tình cờ mò đến được chỗ cối xay.”
Viên cảnh sát trưởng suy nghĩ một lát. “Chị cho là Mason?”
“Vâng”, Sachs đáp.
“Giá mà tuần này anh ta đi nghỉ. Nhưng chẳng mong hòng gì được chuyện đó. Chà, chúng ta tới nơi rồi. Không giống một nhà tù lắm. Nhưng nó làm việc hiệu quả đấy.”
Họ bước vào tòa nhà một tầng xây bằng những khối bê tông. Chiếc máy điều hòa nhiệt độ kêu ì ì giữ cho căn phòng mát mẻ dễ chịu. Bell bảo Sachs bỏ súng vào két sắt. Anh ta cũng làm thế và họ bước vào phòng thẩm vấn. Anh ta đóng cánh cửa lại.
Mặc bộ đồ nỉ màu xanh da trời được phát, Garrett Hanlon ngồi bên chiếc bàn bằng gỗ ép công nghiệp, đối diện với Jesse Corn. Viên cảnh sát mỉm cười chào Sachs và cô đáp lại bằng nụ cười dè dặt hơn. Rồi cô nhìn gã trai và lại bị ấn tượng vì gã trông mới buồn bã, tuyệt vọng làm sao.
Tôi sợ. Bắt hắn ngừng bắn đi!
Trên mặt và cánh tay Garrett có những vết lằn mà lúc trước chưa có. Sachs hỏi: “Da dẻ cậu bị làm sao vậy?”.
Garrett nhìn xuống cánh tay và ngượng ngập gãi gãi. “Do lá sồi độc”, gã lẩm bẩm.
Bell nói giọng tử tế: “Cậu đã nghe các quyền của cậu rồi, phải không? Cảnh sát Kerr đã đọc cậu nghe chưa?”
“Rồi.”
“Và cậu hiểu các quyền đó?”
“Tôi nghĩ thế.”
“Luật sư đang trên đường tới đây. Ông Fredericks. Ông ấy vừa rời khỏi một cuộc họp ở Elizabeth City và ông ấy sẽ sớm có mặt. Cậu không phải nói gì cho tới lúc ông ấy tới. Cậu hiểu điều ấy chứ?”
Gã trai gật đầu.
Sachs liếc nhìn tấm gương một chiều. Băn khoăn tự hỏi ai đang ở phía bên kia của tấm gương, điểu khiển máy quay video.
“Nhưng chúng tôi hy vọng cậu sẽ trò chuyện, Garrett”, Bell tiếp tục. “Chúng tôi muốn hỏi cậu một số việc thực sự quan trọng. Thứ nhất, có đúng như thế không? Mary Beth vẫn còn sống?”
“Chắc chắn cô ấy vẫn còn sống.”
“Cậu đã cưỡng hiếp cô ấy?”
“Nói chung, tôi không bao giờ làm cái việc đó”, gã trai trả lời, trong khoảnh khắc vẻ thống thiết nhường chỗ cho vẻ phẫn nộ. Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
“Nhưng cậu đã bắt cóc cô ấy”, Bell nói.
“Không hẳn.”
“Không hẳn?”
“Cô ấy, nói chung, không hiểu rằng Bến tàu kênh Nước đen là chốn nguy hiểm. Tôi bắt buộc phải đưa cô ấy đi, nếu không cô ấy sẽ không an toàn. Vậy thôi. Tôi đã cứu cô ấy. Nói chung, đôi khi mình phải bắt buộc một người nào đó làm những việc mà người ta không muốn. Vì lợi ích của chính bản thân người ta. Và rồi thì ông biết đấy, người ta sẽ hiểu.”
“Cô ấy đang ở chỗ nào đó gần bãi biển, đúng không? Khu Bờ Ngoài, đúng không?”
Nghe điều này, Garrett chớp mắt, cặp mắt đỏ ké nhíu lại. Gã nhận ra rằng họ đã tìm thấy tấm bản đồ và đã trao đổi với Lydia. Gã nhìn xuống mặt bàn gỗ ép. Không trả lời gì cả.
“Chính xác thì cô ấy ở đâu, Garrett?”
“Tôi không nói cho ông được.”
“Con trai, cậu đang gặp rắc rối nghiêm trọng. Cậu đang phải đối diện với tội giết người đấy.”
“Tôi không giết Billy.”
“Làm sao cậu biết tôi đang định nói tới Billy?”, Bell hỏi ngay. Jesse Corn nhướn một bên lông mày với Sachs, khâm phục sự nhanh trí của sếp mình.
Garrett búng móng tay. “Cả thế giới biết Billy bị giết.” Ánh mắt láo liên của gã đảo xung quanh căn phòng, liên tục dừng lại ở Amelia Sachs. Cô chỉ chịu đựng được ánh mắt van nài này một lát rồi phải nhìn đi chỗ khác.
“Chúng tôi có dấu vân tay của cậu trên chiếc xẻng đã giết chết Billy.”
“Chiếc xẻng? Cái đã giết chết Billy ấy à?”
“Phải.”
Garrett dường như hình dung lại việc đã xảy ra. “Tôi nhớ đã nhìn thấy nó nằm dưới đất. Tôi nghĩ có lẽ là tôi đã cầm nó lên.”
“Tại sao?”
“Tôi không biết. Lúc ấy tôi không nghĩ gì cả. Tôi cảm thấy thật đáng sợ. Khi nhìn thấy Billy nằm đó, nói chung, toàn máu là máu.”
“Ờ, cậu có biết ai đã giết Billy không?”
“Gã đàn ông này. Mary Beth bảo tôi rằng cô ấy, nói chung, đang thực hiện một dự án cho nhà trường ở đó, bên bờ sông, và Billy dừng lại nói chuyện với cô ấy. Rồi gã đàn ông này xuất hiện. Gã đã bám theo Billy và bọn họ bắt đầu cãi vã và choảng nhau. Gã này chộp chiếc xẻng đập chết Billy. Rồi tôi đến và gã bỏ chạy.”
“Cậu trông thấy hắn ta?”
“Vâng, thưa ông.”
“Bọn họ cãi vã về việc gì?”, Bell hoài nghi hỏi.
“Ma túy gì đó, Mary Beth nói vậy. Nghe như là Billy đang bán ma túy cho lũ ôn con trong đội bóng bầu dục. Nói chung, các thứ thuốc chứa steroid ấy hả?” Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
“Ái chà”, Jesse Corn vừa nói vừa gượng cười.
“Garrett”, Bell cất lời. “Billy không dây vào ma túy. Tôi biết cậu ta. Và chúng tôi chưa bao giờ có báo cáo nào về chất steroid ở trường trung học.”
“Tôi hiểu rằng Billy Stail từng trêu chọc cậu rất nhiều”, Jesse Corn nói. “Billy và một vài cậu khác trong đội bóng.”
Sachs nghĩ như thế này thật không nên - hai cảnh sát to lớn hợp sức với nhau tấn công Garrett.
“Các cậu ấy đã giễu cợt cậu. Gọi cậu là Thằng Bọ. Cậu đã một lần đâm Billy và Billy cùng với đám bạn đã nện cậu nhừ tử.”
“Tôi không nhớ nữa.”
“Thầy Hiệu trưởng Gilmore đã cho chúng tôi biết”, Bell nói. “Họ phải gọi bảo vệ tới.”
“Có thể. Nhưng tôi không giết Billy.”
“Ed Schaeffer đã qua đời, cậu biết đấy. Ông ấy bị lũ ong bắp cày trong cái chòi săn đốt chết.”
“Tôi rất tiếc vì việc đã xảy ra. Nhưng chẳng phải lỗi tại tôi. Tôi không đặt cái tổ ong vào đấy.”
“Không phải một cái bẫy à?”
“Không, chẳng qua nó ở đấy, trong cái chòi săn. Tôi đến đấy suốt - thậm chí ngủ ở đấy - và chúng chẳng làm phiền gì tôi. Lũ ong chỉ đốt khi chúng lo sợ rằng người ta đang định phá hoại gia đình chúng.”
“Ờ, hãy cho chúng tôi biết về gã đàn ông mà cậu bảo đã giết Billy”, viên cảnh sát trưởng nói. “Cậu đã trông thấy gã ở xung quanh đây bao giờ chưa?”
“Rồi, thưa ông. Hai hay ba lần trong vòng vài năm qua. Đi bộ xuyên những cánh rừng xung quanh Bến tàu kênh Nước đen. Rồi một lần tôi trông thấy gã gần trường học.”
“Da trắng hay da đen?”
“Da trắng. Và gã thuộc loại cao. Có lẽ bằng tầm tuổi ông Babbage...”
“Tứ tuần à?”
“Vâng, tôi nghĩ thế. Gã tóc vàng. Và gã mặc quần yếm. Màu nâu vàng. Sơ mi trắng.”
“Nhưng chỉ có dấu vân tay của cậu và của Billy trên chiếc xẻng”, Bell nêu nhận xét. “Không có của ai khác.”
Garrett đáp: “Nói chung, tôi nghĩ lúc ấy gã đi găng tay.”
“Tại sao gã lại đi găng tay vào thời gian này trong năm chứ?”, Jesse hỏi.
“Có lẽ như vậy gã sẽ không để lại dấu vân tay”, Garrett đáp trả.
Sachs suy nghĩ lại về các dấu vân tay trên chiếc xẻng. Cô và Rhyme đã không tự lấy các dấu vân tay. Đôi khi có thể lấy dấu găng tay da. Dấu găng tay vải hay len khó phát hiện hơn rất nhiều, tuy nhiên những sợi vải lại có thể tuột ra và mắc vào chỗ nhám trên bề mặt gỗ, trên tay cầm của một dụng cụ chẳng hạn.
“Chà, Garrett, điều cậu nói có thể đã xảy ra”, Bell bình luận. “Nhưng xem chừng chẳng ai nghĩ đó là sự thật được.”
“Billy đã chết! Tôi chỉ cầm chiếc xẻng lên xem. Việc đáng lẽ tôi không nên làm. Nhưng tôi đã làm. Tất cả chỉ có như vậy thôi. Tôi biết Mary Beth đang gặp nguy hiểm nên tôi đưa cô ấy đi cho an toàn.” Garrett nói điều này với Sachs, đăm đăm nhìn cô bằng ánh mắt cầu khẩn.
“Chúng ta hãy quay lại chuyện Mary Beth”, Bell đề nghị. “Tại sao cô ấy gặp nguy hiểm?”
“Vì cô ấy ở Bến tàu kênh Nước đen.” Garrett lại búng móng tay... Khác với thói quen của mình, Sachs tự nhủ thầm. Mình chọc móng tay vào da thịt, còn hắn thì búng móng tay vào nhau. Thói quen nào tệ hơn? Cô băn khoăn tự hỏi. Thói quen của mình, cô đi đến kết luận, có hại hơn.
Garrett lại hướng cặp mắt ướt nhoèn, đỏ ké về phía Sachs.
Thôi đi! Tôi không thể chịu đựng được cái nhìn đó! Sachs nghĩ, đưa ánh mắt qua chỗ khác.
“Thế Todd Wilkes? Thằng bé đã tự treo cổ ấy? Cậu đã đe dọa nó phải không?”
“Không!”
“Tuần trước anh trai nó trông thấy cậu quát tháo nó.”
“Nó thả diêm đang cháy vào các tổ kiến. Như thế thật độc ác và đê tiện, tôi bảo nó đừng làm như thế nữa.”
“Còn Lydia?”, Bell hỏi. “Tại sao cậu bắt cóc cô ấy.”
“Tôi cũng lo lắng cho cô ta.”
“Vì cô ấy ở Bến tàu kênh Nước đen?”
“Vâng.”
“Cậu định cưỡng hiếp cô ấy, phải không?”
“Không!” Garrett bắt đầu khóc. “Tôi không định làm hại cô ta. Hay bất cứ ai! Và tôi không giết Billy! Tất cả mọi người đang cố gắng ép tôi nhận đã làm những việc tôi không làm!”
Bell lôi lên một tờ khăn giấy hiệu Kleenex, đưa cho gã trai.
Cánh cửa bật mở tung, Mason Germain bước vào. Anh ta có lẽ là người ngồi quan sát qua tấm gương một chiều và vẻ mặt anh ta thể hiện rõ ràng rằng anh ta đã mất kiên nhẫn. Sachs ngửi thấy sặc sụa mùi nước hoa cologne. Cô bắt đầu ghét cái mùi thơm đến ngạt thở ấy.
“Mason...”, Bell lên tiếng.
“Nghe tao này, thằng nhãi, mày hãy nói cho chúng tao biết cô gái đang ở đâu và mày hãy nói ngay bây giờ! Vì nếu không mày sẽ được đưa đi Lancaster và mày sẽ ở đó cho tới khi người ta xét xử mày... Mày đã nghe nói tới Lancaster rồi, phải không? Trong trường hợp mày chưa nghe bao giờ, để tao nói…”
“Được rồi, đủ rồi đấy”, một giọng the thé ra lệnh.
Một người thấp bé sải bước vào phòng - một người đàn ông thậm chí còn thấp hơn Mason, với mái tóc cắt tỉa gọn gàng được xịt keo giữ nếp một cách hoàn hảo. Bộ com lê màu xám, tất cả các khuy cài chặt, chiếc sơ mi màu trứng sáo và cà vạt kẻ sọc. Ông ta đi đôi giày cao ba inch.
“Đừng nói thêm lời nào nữa”, ông ta bảo Garrett.
“Xin chào, Cal”, Bell nói, không vui vẻ gì khi vị khách xuất hiện. Viên cảnh sát trưởng giới thiệu Sachs với Calvin Fredericks, luật sư của Garrett.
“Các vị đang thẩm vấn thân chủ tôi cái quái quỷ gì khi tôi chưa có mặt tại đây thế?” Ông ta hất đầu bảo Mason. “Và vụ Lancaster là cái quái quỷ gì? Tôi nên yêu cầu người ta tống giam anh vì kiểu ăn nói với cậu ấy như vậy.”
“Hắn biết cô gái đang ở đâu, Cal”, Mason lẩm bẩm. “Hắn không chịu khai với chúng tôi. Hắn đã được nghe đọc về các quyền của mình. Hắn...”
“Một cậu thiếu niên mười sáu tuổi? Chà, tôi những muốn vứt ngay cái vụ này đi và ăn tối cho sớm.” Fredericks quay sang Garrett. “Này, anh bạn trẻ, cậu cảm thấy thế nào?”
“Mặt tôi bị ngứa.”
“Họ xịt hơi cay khống chế cậu hả?”
“Không, thưa ông, chẳng may thôi.”
“Chúng ta sẽ yêu cầu được chăm sóc. Bôi kem hoặc đại loại vậy. Bây giờ, tôi sẽ là luật sư của cậu. Chính quyền bang chỉ định tôi. Cậu không phải trả tiền. Họ đã đọc cho cậu nghe các quyền của cậu? Đã bảo cậu không phải nói gì cả?”
“Vâng, thưa ông. Nhưng cảnh sát trưởng Bell muốn hỏi tôi vài câu.”
Fredericks bảo Bell: “Ồ, việc này hay đấy, Jim. Các vị đang nghĩ gì thế hả? Bốn cảnh sát có mặt tại đây à?”
Mason nói: “Chúng tôi đang nghĩ về Mary Beth McConnell. Cô gái mà hắn đã bắt cóc”.
“Bị cho là đã bắt cóc.”
“Và cưỡng hiếp”, Mason lẩm bẩm.
‘Tôi không làm cái việc ấy!”, Garrett hét lên.
“Chúng tôi thu được một tờ khăn giấy thấm máu và đầy tinh dịch của hắn”, Mason giọng gay gắt.
“Không, không!”, gã trai nói, gương mặt đỏ bừng một cách đáng sợ. “Mary Beth tự làm mình bị thương. Chuyện đã xảy ra như thế. Cô ấy bị đập đầu và tôi, nói chung, đã lau máu cho cô ấy bằng một tờ Kleenex tôi thấy trong túi quần. Còn về việc kia... thỉnh thoảng tôi chỉ, các ông biết đây, chỉ tự… Tôi biết là tôi không nên. Tôi biết là nó sai trái. Nhưng tôi không đừng được.”
“Xuỵt, Garrett”, Fredericks nói. “Cậu không phải giải thích bất cứ điều gì với bất cứ ai.” Ông ta bảo Bell: “Bây giờ, cuộc thẩm vấn này đã kết thúc. Đưa cậu ấy quay lại phòng giam đi.”
Khi Jesse Corn đang dẫn Garrett ra khỏi cửa thì gã đột ngột dừng lại, quay về phía Sachs. “Xin cô, cô phải giúp tôi một việc. Xin cô! Phòng riêng của tôi ở nhà - có một số lọ.”
“Đi đi, Jesse”, Bell ra lệnh. “Đưa hắn đi.”
Nhưng Sachs thấy mình lên tiếng: “Khoan đã.” Cô hỏi Garrett: “Những cái lọ? Đựng côn trùng ấy à?”
Gã trai gật đầu. “Cô sẽ đổ nước vào chứ? Hay ít nhất hãy cho chúng bò ra - ra bên ngoài - để chúng có cơ hội tồn tại. Ông bà Babbage, họ sẽ chẳng làm gì giúp chúng sống sót đâu. Xin cô...”
Sachs do dự, cảm nhận được ánh mắt tất cả mọi người đang hướng về phía mình, rồi gật đầu. “Tôi sẽ làm. Tôi hứa.”
Gương mặt Garrett thoáng một nụ cười dành cho Sachs.
Bell nhìn Sachs đầy ẩn ý, rồi hất đầu về phía cửa và Jesse dẫn gã trai ra. Ông luật sư dợm bước theo nhưng Bell gí ngón tay trỏ vào ngực ông ta. “Anh không đi đâu cả, Cal. Chúng ta sẽ chờ ở đây cho tới lúc McGuire đến.”
“Đừng động vào tôi, Fredericks lẩm bẩm. Nhưng ông ta cũng ngồi xuống theo như mệnh lệnh, “Lạy Chúa, tất cả cái chuyện ngu ngốc này là gì, các vị thẩm vấn một thiếu niên mười sáu tuổi mà không...
“Ngậm miệng lại đi, Cal. Tôi chẳng định moi lấy lời thú tội đâu. Hắn chưa thú gì cả mà nếu có thì tôi cũng không sử dụng. Chúng tôi đã nắm trong tay nhiều bằng chứng hơn mức cần thiết để tống giam hắn vĩnh viễn. Tôi chỉ quan tâm đến việc tìm thấy Mary Bell. Cô ấy đang ở chỗ nào đó khu Bờ Ngoài và nếu không được giúp đỡ thì khó khăn ngang mò kim đáy bể.” Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
“Đừng hòng. Cậu ta sẽ không khai thêm một lời nào đâu.”
“Cô ấy có thể chết khát, Cal, cô ấy có thể chết đói. Bị say nắng, bị ốm...”
Khi ông luật sư không đáp lời, viên cảnh sát trưởng nói: “Cal, thằng nhãi đó là một mối đe dọa. Hắn có cả đống báo cáo các vụ việc chống lại hắn…”
“Những báo cáo mà thư ký của tôi đã đọc cho tôi nghe trên đường đến đây rồi. Rõ khỉ, phần lớn là về tội trốn học. Ồ, và về tội nhìn trộm - khi cậu ta, thật tức cười, thậm chí không ở trong phạm vi đất đai nhà cửa của người đâm đơn kiện, chỉ đi loăng quăng trên vỉa hè.”
“Vụ cái tổ ong bắp cày cách đây mấy năm”, Mason tức tối nói. “Meg Blanchard.”
“Các vị đã thả cậu ta ra”, ông luật sư vui vẻ lưu ý mọi người. “Thậm chí không truy tố gì cả.”
Bell nói: “Vụ này khác, Cal. Chúng tôi có nhân chứng, chúng tôi có những chứng cứ chắc chắn và bây giờ thì Ed Schaeffer đã qua đời. Chúng tôi gần như có thể muốn làm gì thằng nhãi thì làm.”
Một người đàn ông mảnh khảnh mặc bộ vét vải sọc màu xanh lơ bước vào phòng thẩm vấn. Mái tóc muối tiêu thưa thớt, khuôn mặt đầy nếp nhăn của tuổi năm mươi lăm. Ông ta nhìn Amelia với cái gật đầu lơ đãng, rồi nhìn Fredericks vẻ u ám hơn. “Tôi đã nghe được thông tin đủ để nghĩ rằng đây là một trong những vụ giết người, bắc cóc và cưỡng hiếp dễ dàng nhất mà tôi từng thụ lý suốt nhiều năm qua.”
Bell giới thiệu Sachs với Bryan McGuire, công tố viên quận Paquenoke.
“Cậu ta mới mười sáu”, Fredericks nói.
Ông ủy viên công tố đáp lại bằng giọng điềm tĩnh: “Sẽ không tòa án nào ở bang này định xét xử hắn như xét xử một kẻ đã thành niên và tống giam hắn hai trăm năm cả.”
“Thế thì, thẳng thắn luôn đi, McGuire”, Fredericks sốt ruột nói. “Các anh đang muốn thương lượng. Tôi biết cái giọng đó.”
McGuire gật đầu với Bell và Sachs suy luận rằng viên cảnh sát trưởng và ông ủy viên công tố trước đấy đã có một cuộc trao đổi về chính vấn đề này.
“Tất nhiên chúng tôi sẽ thương lượng”, Bell tiếp tục. “Khả năng lớn là cô gái vẫn còn sống và chúng tôi muốn tìm thấy cô ấy trước khi cô ấy chẳng còn sống nữa.”
McGuire nói: “Chúng tôi có rất nhiều lời buộc tội trong vụ này, Cal ạ, anh sẽ kinh ngạc với mức độ xử lý linh hoạt của chúng tôi”.
“Hãy làm tôi kinh ngạc đi”, ông luật sư bào chữa kiêu ngạo đáp.
“Tôi có thể đưa ra hai điểm buộc tội về tấn công và giam giữ người trái phép, hai điểm buộc tội về giết người cấp độ một - một cho Billy Stail, một cho viên cảnh sát đã chết. Thưa ngài, tôi sẵn sàng làm thế đấy. Tất cả nhằm tìm thấy cô gái vẫn còn sống.”
“Ed Schaeffer”, ông luật sư phản công. “Đó là một tai nạn.”
Mason nổi khùng: “Đó là một cái bẫy ghê gớm do thằng nhãi sắp đặt.”
“Tôi sẽ dành cho các anh tội giết người cấp độ một đối với Billy”, McGuire đề nghị. “Và tội ngộ sát đối với cảnh sát Schaeffer.”
Fredericks cân nhắc một lát. “Để xem tôi có thể làm gì.” Gót giày khua vang, ông luật sư biến mất về phía các phòng giam để tham khảo ý kiến thân chủ. Năm phút sau, ông ta quay lại, không vui vẻ gì.
“Tình hình thế nào?”, Bell hỏi, thất vọng trước vẻ mặt ông luật sư.
“Không may mắn rồi.”
“Bế tắc à?”
“Hoàn toàn bế tắc.”
Bell lẩm bẩm: “Cal, nếu anh biết được điều gì mà không nói với chúng tôi, tôi đếch thèm quan tâm đến quyền trao đổi riêng tư giữa luật sư và thân chủ...”
“Không, không, Jim, thật đấy. Cậu ta bảo cậu ta đang che chở cho cô gái. Cậu ta bảo cô gái sung sướng được ở đó và các anh phải đi mà tìm kiếm cái gã mặc quần yếm màu nâu vàng, sơ mi trắng.”
Bell nói: “Hắn thậm chí đã không cung cấp một sự mô tả rõ ràng và nếu có chăng nữa thì ngày mai sự mô tả cũng sẽ thay đổi vì hắn chỉ đang bịa đặt mà thôi.”
McGuire vuốt ngược mái tóc vốn dĩ đã được chải mượt ra đằng sau rồi. Ông luật sư dùng keo Aqua Net, Sachs có thể nhận ra mùi. Ông công tố viên dùng keo Brylcreem. “Cal, nghe này, đây là vấn đề của anh. Tôi đang đề nghị anh những gì tôi có thể đề nghị. Anh giúp chúng tôi biết được nơi đang giam giữ cô gái và tìm thấy cô ấy vẫn còn sống, tôi sẽ giảm các điểm buộc tội. Nếu không, tôi sẽ đưa ra cho tòa án xét xử và sẽ buộc tội nặng. Thằng nhãi không bao giờ được nhìn thấy cuộc đời bên ngoài nhà tù nữa. Cả tôi lẫn anh đều biết điều đó.”
Một thoáng im lặng.
Fredericks nói: “Tôi nghĩ thế này.”
“Ờ.” McGuire hoài nghi đáp lại.
“Không, nghe này... Cách đây ít lâu tôi đã gặp một vụ ở Albermarle, người phụ nữ đó khẳng định rằng con trai mình bỏ nhà đi. Nhưng chuyện có vẻ đáng ngờ vực.”
“Vụ nhà William chứ gì?”, McGuire hỏi. “Cái bà da đen ấy?”
“Phải rồi.”
“Tôi đã nghe nói tới. Anh đại diện cho bà ta à?”, Bell hỏi.
“Phải. Bà ta kể với chúng tôi những câu chuyện khá kỳ quặc và có tiền sử bệnh tâm thần. Tôi thuê một bác sĩ tâm lý từ Avery đến, hy vọng ông ta có thể cho tôi kết luận rằng bà ta bị rối loạn thần kinh Ông ta tiến hành vài bài trắc nghiệm. Lúc đang tiến hành một trong những bài trắc nghiệm đó thì bà ta trở nên cởi mở và nói với chúng tôi về việc đã xảy ra.”
“Thôi miên à - cái trò khôi phục trí nhớ vớ vẩn?”, McGuire hỏi.
“Không, một thủ thuật khác. Ông ta gọi nó là liệu pháp chiếc ghế trống. Tôi chẳng biết chính xác cơ chế tác động của nó, tuy nhiên nó thực sự đã khiến cho bà ta trò chuyện. Giống như tất cả những gì bà ta cần là đẩy nhẹ một cái. Để tôi gọi cho ông bác sĩ này và bảo ông ta đến đây nói chuyện với Garrett. Thằng bé có thể sẽ thấy lẽ phải… nhưng...” Bây giờ thì tới lượt ông luật sư gí ngón tay trỏ vào ngực Bell. “Mọi điều họ trao đổi với nhau là bí mật, các anh không được biết một chút gì trừ phi người giám hộ hợp phápvà tôi đồng ý.”
Bell nhận ánh mắt của McGuire và gật đầu. Ông ủy viên công tố nói: “Gọi cho ông ta đi.
Được rồi. Fredericks bước tới chỗ chiếc máy điện thoại đặt trong góc phòng thẩm vấn.
Sachs nói: “Xin lỗi ông”.
Ông luật sư quay sang cô.
“Cái vụ mà bác sĩ tâm lý đã giúp đỡ ông ấy? Vụ nhà Williamấy?”
“Thì sao?”
“Chuyện gì đã xảy ra cho cậu con trai? Cậu ta bỏ nhà đi à?”
“Không, người mẹ đã giết cậu ta. Dùng lưới thép mỏng bó cậu ta vào một khối bê tông và dìm cậu ta chết đuối dưới cái ao đằng sau nhà. Này, Jim, gọi điện ra bên ngoài bằng cách nào?”
Cô hét to tới mức cổ họng khô khốc đau rát như phải bỏng và tất cả những gì Mary Beth biết là các dây thanh của cô sẽ vĩnh viễn bị tổn thương.
Nhà truyền giáo, đang bước tới gần bìa rừng, dừng lại. Ông ta một vai đeo chiếc ba lô, tay cầm chiếc bình trông giống như bình xịt thuốc diệt cỏ. Ông ta liếc nhìn xung quanh.
Làm ơn, làm ơn, làm ơn, Mary Beth nghĩ thầm. Phớt lờ cơn đau, cô cố gắng lần nữa. “Ở đằng này! Cứu tôi!”
Nhà truyền giáo nhìn ngôi nhà gỗ. Ông ta bắt đầu bước đi.
Mary Beth hít sâu một hơi, nghĩ tới tiếng búng móng tay tanh tách của Garrett Hanlon, nghĩ tới cặp mắt ướt nhoèn và cái kia cương cứng, nghĩ tới cuộc từ biệt cõi đời đầy can đảm của cha cô, nghĩ tới Virginia Dare... Và cô hét một tiếng to chưa từng thấy.
Lần này, nhà truyền giáo dừng bước, lại nhìn về phía ngôi nhà gỗ. Ông ta tháo mũ, bỏ ba lô và chiếc bình xuống đất, bắt đầu chạy về phía Mary Beth.
Cảm ơn... Cô bật khóc nức nở. Ôi, cảm ơn!
Nhà truyền giáo vóc dáng mảnh khảnh nhưng da sạm nắng. Ở tuổi ngũ tuần, tuy nhiên vẫn còn phong độ. Rõ ràng là một người hay hoạt động ngoài trời.
“Có chuyện gì thế?”, ông ta hỏi to, hổn hển, khi còn cách chừng năm mươi feet, ông ta chuyển sang đi túc tắc “Cô có sao không?”
“Làm ơn!”, Mary Beth nói với giọng khàn khàn. Cơn đau nơi cổ họng cô dâng trào. Cô nhổ ra nhiều máu hơn.
Nhà truyền giáo thận trọng bước tới chỗ ô cửa sổ bị đập vỡ, nhìn những mảnh kính trên đất.
“Cô cần giúp đỡ à?”
“Tôi không thể ra ngoài được. Có người đã bắt cóc tôi...”
“Bắt cóc à?”
Mary Beth lau khuôn mặt ướt mồ hôi lẫn với nước mắt sung sướng. “Một nam sinh trung học ở Tanner’s Corner.”
“Hẵng khoan… Tôi có nghe nói về việc ấy. Tin tức trên các phương tiện truyền thông. Cô là người hắn đã bắt cóc ư?”
“Phải ạ.”
“Bây giờ hắn đâu?”
Mary Beth cố gắng nói nhưng cổ họng đau quá. Cô thở thật sâu và rốt cuộc cũng trả lời được: “Tôi không biết. Hắn rời khỏi đây đêm hôm qua. Làm ơn... ông có nước không?”
“Một bi đông, đang để với các thứ của tôi đằng kia. Tôi sẽ mang lại đây cho cô.”
“Và gọi cảnh sát. Ông có điện thoại chứ?”
“Tôi không mang theo.” Nhà truyền giáo nhăn nhó lắc đầu.
“Tôi đang làm việc hợp đồng cho quận.” Ông ta hất đầu về phía chiếc ba lô và bình xịt. “Chúng tôi tiêu diệt cần sa, cô biết đấy, bọn trẻ trồng xung quanh đây. Quận phát máy di động cho chúng tôi nhưng tôi chẳng bao giờ dùng tới nó cả. Cô đau lắm à?” ông ta xem xét đầu cô, chỗ máu đã đông lại.
“Không sao. Nhưng... nước. Tôi cần nước.”
Nhà truyền giáo túc tắc đi trở lại phía bìa rừng và trong một khoảnh khắc kinh khủng Mary Beth lo sợ rằng ông ta sẽ cứ đi mãi. Nhưng ông ta đã cầm lên chiếc bi đông màu xanh xám, chạy trở lại.
Cô đón lấy nó bằng đôi bàn tay run rẩy và bắt buộc mình phải uống từ từ. Nước nóng và có mùi mốc nhưng cô chưa bao giờ được uống thứ gì tuyệt vời hơn thế.
“Tôi sẽ cố gắng đưa cô ra”, người đàn ông nói. Ông ta bước tới cửa trước. Lát sau, cô nghe thấy một tiếng huỵch nhẹ khi ông ta hoặc là đã dùng chân đá cánh cửa hoặc là đã cố gắng dùng vai phá nó. Một lần nữa. Hai lần. Ông ta nhặt một tảng đá đập mạnh vào cánh cửa gỗ. Không ăn thua. Ông ta quay lại chỗ cửa sổ. “Nó chẳng nhúc nhích gì.” Ông ta lau mồ hôi trên trán trong lúc xem xét các chấn song cửa sổ. “Trời đất, hắn đã tự mình xây dựng một nhà tù ở đây. Dùng cưa sắt phải mất hàng tiếng đồng hồ. Được rồi, tôi sẽ đi gọi người giúp đỡ. Tên cô là gì?”
“Mary Beth McConnell.”
“Tôi sẽ gọi cảnh sát rồi quay lại đưa cô ra.”
“Làm ơn, đừng đi lâu.”
“Tôi có người bạn ở cách đây không xa lắm. Tôi sẽ tới đây gọi 911 và chúng tôi sẽ quay lại đây. Thằng kia... hắn có súng không?”
“Tôi không biết. Tôi không trông thấy. Nhưng tôi không biết.”
“Cô ngồi nguyên đấy, Mary Beth. Cô sẽ ổn thôi. Bình thường thì tôi không chạy nhưng hôm nay tôi sẽ chạy.” Nhà truyền giáo quay đi và bắt đầu băng ngang qua cánh đồng cỏ.
“Ông... cảm ơn ông.”
Nhưng nhà truyền giáo không đáp lại lời cảm ơn của Mary Beth. Ông ta guồng chân chạy qua những đám lau lách và cỏ cao, mất hút vào rừng, thậm chí không dừng lại lấy đồ của mình. Mary Beth vẫn đứng trước cửa sổ, ôm lấy chiếc bi đông đu đưa y như thể nó là một đứa bé sơ sinh vậy.
16.06.2015
PHẦN 2: CON NAI CÁI LÔNG TRẮNG
CHƯƠNG 19
Dịch giả: Đinh Minh Hương
Nguồn: NXB Văn học
Nội dung thu gọn
Bên kia phố đối diện khu tạm giam, Sachs trông thấy Lucy Kerr đang ngồi trên chiếc ghế băng công viên phía trước cửa hiệu bán đồ ăn, uống một ly trà đá Arizona. Hai người phụ nữ gật đầu với nhau.
Sachs để ý thấy tấm biển phía trước cửa hiệu. BIA LẠNH. Cô hỏi Lucy: “Ở Tanner’s Corner có luật cấm uống bia rượu ngoài phố à?”
“Vâng”, Lucy nói. “Và chúng tôi thực hiện khá nghiêm. Luật quy định là nếu anh định uống từ chai, lon gì đó thì nó dứt khoát phải được mở hay khui ra rồi.”
Hiểu ngay câu đùa<32>, Sachs cười to, nói: “Chị muốn thứ gì nặng đô hơn không?”
Lucy hất đầu chỉ ly trà đá. “Cái này tốt rồi.”
Một phút sau, Sachs quay ra với suất bia Sam Adams trào bọt đựng trong cốc nhựa dùng một lần cỡ lớn. Ngồi xuống bên cạnh người nữ đồng nghiệp, cô kể cho Lucy nghe về cuộc thảo luận giữa McGuire và Fredericks, về vị bác sĩ tâm lý kia.
“Hy vọng cách ấy đem lại hiệu quả”, Lucy nói. “Theo Jim tính toán thì có hàng nghìn ngôi nhà cũ ở khu Bờ Ngoài. Chúng tôi sẽ phải phần nào thu hẹp được phạm vi rà soát.”
Họ im lặng vài phút. Một cậu thiếu niên trượt vèo qua trên đôi patanh kêu loảng xoảng rồi mất hút. Sachs bình luận về sự vắng bóng trẻ em trong thị trấn này.
“Đúng”, Lucy nói. “Tôi chưa bao giờ suy nghĩ về điều này nhưng không có nhiều trẻ em ở đây thật. Tôi cho là hầu hết các cặp vợ chồng trẻ đã chuyển đi, có thể là đến những khu vực giáp ranh giữa các bang hoặc những thị trấn lớn hơn. Tanner’s Corner chẳng phải nơi phù hợp với bất cứ ai muốn vươn lên.”
Sachs hỏi: “Chị có đứa nào không? Con cái ấy?”
“Không. Buddy và tôi chưa bao giờ có con. Rồi chúng tôi chia tay nhau và tôi chưa hề gặp ai sau đó. Tôi sẽ phải nói rằng đối với tôi đây là sự hối tiếc lớn nhất. Không con cái.”
“Chị ly hôn bao lâu rồi?”
“Ba năm.”
Sachs ngạc nhiên vì người phụ nữ này chưa tái hôn. Cô rất hấp dẫn - đặc biệt là đôi mắt. Thời gian Sachs còn làm người mẫu chuyên nghiệp ở New York, trước khi cô quyết định đi theo nghề nghiệp cảnh sát của cha cô, cô thường xuyên làm việc với nhiều cô gái đẹp tuyệt. Nhưng họ hay có cái nhìn trống rỗng. Mà nếu đôi mắt không đẹp, Amelia Sachs đã đi đến kết luận, thì con người cũng không đẹp.
Sachs bảo Lucy: “Ồ, rồi chị sẽ gặp ai đó, và sẽ có một gia đình.”
“Tôi có công việc”, Lucy nói nhanh. “Người ta không cần phải làm hết thảy mọi việc trong cuộc đời, cô biết đấy.”
Một cái gì đó không được nói ra ở đây - một cái gì đó mà Sachs cảm thấy là Lucy không muốn tiết lộ. Sachs băn khoăn không biết mình có nên gạn hỏi không. Cô thử đi đường vòng. “Chắc hẳn cả nghìn đàn ông quận Paquenoke muốn hẹn hò với chị đến chết đi được.”
Im lặng một lát, Lucy nói: “Thực ra, tôi chẳng hẹn hò mấy.”
“Thật sao?”
Lại im lặng. Sachs nhìn xuôi nhìn ngược con phố bụi bặm vắng ngắt. Cậu bé trượt patanh đã khuất đằng xa. Lucy hít một hơi định nói gì, nhưng lại thôi, hớp một ngụm dài trà đá. Rồi đường như bất chợt, người nữ cảnh sát nói: “Cô biết cái lần điều trị y tế tôi đã nói với cô đấy?”
Sachs gật đầu.
“Ung thư vú. Chưa tiến triển nhanh, nhưng bác sĩ bảo có lẽ họ nên xử lý cho thật triệt để. Và họ đã xử lý như thế.”
“Tôi rất lấy làm tiếc”, Sachs nói, chau mày lại cảm thông. “Chị đã trải qua các cuộc điều trị à?”
“Phải. Đầu trọc lốc mất một thời gian. Trông cũng thú vị.” Lucy nhấp thêm một ít trà. “Đã ba năm rưỡi rồi. Cho tới bây giờ thì tình hình vẫn ổn”, Lucy tiếp tục. “Căn bệnh đó thực sự là cái thòng lọng bỗng dưng quăng vào cổ tôi. Gia đình tôi không ai mắc nó cả. Bà tôi khỏe như vâm. Mẹ tôi vẫn làm việc năm ngày mỗi tuần tại khu Bảo tồn Sinh thái Quốc gia Mattamuskeet. Cha mẹ tôi cũng đi bộ việt dã trên rặng Appalachian mỗi năm hai, ba lần.” Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Sachs hỏi: “Chị không thể có con vì chạy xạ à?”
“Ồ, không, họ đã sử dụng tấm chắn bảo vệ... Tôi nghĩ là tôi không muốn hẹn hò cho lắm. Cô biết bàn tay đàn ông sẽ đưa đến chỗ nào ngay sau cái hôn nghiêm túc đầu tiên...”
Sachs chẳng thể phủ nhận điều ấy.
“Tôi sẽ gặp một anh chàng tử tế và chúng tôi sẽ đi uống cà phê chẳng hạn, nhưng chỉ mười phút thôi tôi bắt đầu lo lắng tự hỏi anh ta sẽ nghĩ gì khi phát hiện ra sự thật. Cuối cùng là tôi không nhận các cuộc điện thoại của anh ta.”
Sachs nói: “Vậy chị từ bỏ việc lập gia đình?”
“Có lẽ, khi nhiều tuổi hơn, tôi sẽ gặp một ông góa vợ có vài đứa con đã trưởng thành. Như thế sẽ dễ chịu.”
Lucy nói vẻ hờ hững, nhưng nghe giọng cô Sachs thấy được là cô đã thường xuyên tự nhắc đi nhắc lại điều này với chính mình. Có lẽ là hàng ngày.
Lucy cúi đầu, thở dài. “Tôi sẽ ngay lập tức từ bỏ công việc để có những đứa con. Nhưng, ái chà, cuộc đời đâu phải bao giờ cũng đi theo hướng chúng ta muốn.”
“Và chồng cũ chia tay chị sau khi chị làm phẫu thuật à? Chị nói lại xem tên anh ta là gì nhỉ?”
“Bud. Không phải ngay sau đó. Mà là tám tháng sau. Rõ khỉ, tôi không thể trách móc anh ấy.”
“Tại sao chị nói vậy?”
“Gì cơ?”
“Nói rằng chị không thể trách móc anh ta được?”, Sachs hỏi.
“Đơn giản là, tôi không thể, tôi đã thay đổi và rốt cuộc khác với mọi người. Tôi biến thành một cái gì đó anh ấy vốn chẳng dự tính đến.”
Sachs im lặng một lát, rồi nói: “Lincoln khác với mọi người. Rất khác”.
Lucy cân nhắc ý này. “Thế thì mối quan hệ giữa hai người còn hơn là đồng nghiệp, phải không?”
“Phải”, Sachs nói.
“Tôi đã nghĩ có lẽ là như vậy.” Rồi Lucy cười to. “Này, cô là một cảnh sát thuộc loại cứng cỏi ở thành phố lớn… Cô cảm thấy thế nào về chuyện con cái?”
“Tôi thích có vài đứa. Pop - cha tôi - vốn vẫn muốn có cháu bế. Ông cũng là một cảnh sát. Ông thích cái ý tưởng về ba thế hệ cùng tham gia lực lượng. Cho rằng tạp chí People hẳn sẽ đăng một câu chuyện về gia đình chúng tôi hoặc đại loại vậy. Trước, ông cụ mê tờ tạp chí ấy lắm.”
‘Trước?
“Ông cụ mất cách đây mấy năm.”
“Vì bệnh tim à?”
Sachs cân nhắc nhưng cuối cùng cũng trả lời: “Ung thư.” Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Lucy im lặng một lát. Cô nhìn nghiêng Sachs, xoay lưng lại khu tạm giam. “Anh ấy có con được không? Lincoln ấy?”
Bọt bia xẹp xuống trong cốc bia và Sachs hớp một ngụm lớn. “Về lý thuyết thì có.”
Và cô quyết định không kể cho Lucy nghe rằng sáng hôm nay, tại Viện Nghiên cứu Thần kinh ở Avery, cái lý do khiến cô đi ra khỏi phòng theo Tiến sĩ Weaver là để hỏi xem liệu cuộc phẫu thuật có ảnh hưởng đến khả năng làm cha của Rhyme không. Người bác sĩ nói sẽ không có ảnh hưởng và đang bắt đầu trình bày về những kỹ thuật can thiệp cần thiết để cho cô thụ thai thì Jim Bell xuất hiện với lời khẩn cầu giúp đỡ.
Cô cũng không kể cho người nữ đồng nghiệp nghe rằng mỗi lần cô nói đến đề tài con cái thì Rhyme lại lảng tránh và cô đành tự phỏng đoán về nguyên nhân khiến anh ngần ngại quá như vậy. Tất nhiên, nguyên nhân có thể là rất nhiều: anh sợ gia đình sẽ cản trở công việc điều tra hình sự, một công việc đòi hỏi anh phải giữ đầu óc được tỉnh táo. Hoặc anh biết, ít nhất về mặt thống kê, người liệt tứ chi có tuổi thọ ngắn hơn người bình thường. Hoặc biết đâu anh muốn tự do để ngày nào đấy thức dậy, quyết định rằng anh đã sống đủ và không mong sống thêm nữa. Có lẽ là tất cả những nguyên nhân này, kết hợp với cái suy nghĩ đinh ninh là anh và Sachs khó có thể làm những người cha người mẹ bình thường nhất (tuy cô vẫn phản công rằng: Vậy chính xác thì ngày nay như thế nào là bình thường?).
Lucy trầm ngâm. “Tôi luôn luôn tự hỏi nếu có con liệu tôi còn tiếp tục làm việc không? Phần cô, cô nghĩ thế nào?”
“Tôi mang theo vũ khí thật, nhưng chỉ chủ yếu làm nhiệm vụ khám nghiệm hiện trường. Tôi sẽ không tham gia những công việc mạo hiểm nữa. Ngay bây giờ tôi đang có chiếc Camaro 360 mã lực đậu trong ga ra nhà tôi ở Brooklyn. Tôi thực sự chẳng thể hình dung ra một chỗ ngồi cho trẻ nhỏ lắp trong xe.” Sachs bật cười. “Tôi nghĩ mình phải học lái một chiếc Volvo gia đình số tự động. Chắc tôi học được.”
“Tôi có thể hình dung ra cô rồ ga lao vụt khỏi bãi đỗ xe của một cửa hiệu Food Lion.”
Im lặng trùm xuống, sự im lặng giữa những con người xa lạ vừa chia sẻ với nhau các bí mật phức tạp và nhận thấy họ chẳng thể chia sẻ thêm được nữa.
Lucy nhìn đồng hồ đeo tay. “Tôi phải quay lại trụ sở. Giúp Jim gọi điện ra khu Bờ Ngoài.” Cô quăng cái chai không vào thùng rác, lắc đầu. “Tôi vẫn suy nghĩ về Mary Beth. Chẳng biết cô gái đang ở đâu, có làm sao không, có sợ hãi không.”
Tuy nhiên, khi Lucy nói điều này, Amelia Sachs không nghĩ về cô gái kia mà nghĩ về Garrett Hanlon. Vì họ vừa trò chuyện về con cái, Sachs tưởng tượng tới cảm giác của mình nếu cô có một đứa con trai bị buộc tội bắt cóc và giết người. Kẻ đang nhìn vào cái viễn cảnh phải trải qua đêm đêm trong tù. Có thể là hàng trăm đêm, có thể là hàng nghìn.
Lucy ngừng lại. “Cô cũng trở về chứ?”
“Một, hai phút nữa.”
“Hy vọng được gặp cô trước khi cô rời khỏi đây.” Người nữ cảnh sát đi ngược lên trên con phố, khuất dần.
Vài phút sau, cánh cửa khu tạm giam mở và Mason Germain bước ra. Sachs chưa lúc nào trông thấy anh ta mỉm cười và lúc này anh ta cũng không cười. Anh ta sải bước trên vỉa hè nứt vỡ, mất hút vào một tòa nhà - một cửa hiệu hay quán bar gì đó - trên đường đi về phía trụ sở chính quyền quận.
Rồi một chiếc xe dừng lại bên kia con phố và hai người đàn ông bước ra. Một người là Cal Fredericks, luật sư của Garrett, và một người to béo trạc ngũ tuần. Ông ta mặc sơ mi, thắt cà vạt - khuy cổ không cài, còn cái nút thắt cẩu thả của chiếc cà vạt kẻ sọc bị kéo trễ xuống chừng vài inch. Tay áo xắn lên và chiếc áo vét màu xanh tím than vắt trên cánh tay. Chiếc quần màu nâu vàng nhăn nhúm. Gương mặt ông ta có nét hiền hậu của một thầy giáo tiểu học. Họ bước vào khu tạm giam.
Sachs quăng cái cốc vào chiếc thùng rác vốn là thùng đựng dầu nhớt đặt bên ngoài cửa hiệu. Cô băng ngang con phố không bóng người và vào theo họ.
Chú Thích:
<32> Luật này được gọi bằng tiếng Anh là “open-container law”: luật (về) chai/lon... đã mở/khui. Thực chất đây là luật cấm chế biến và/hoặc uống bia rượu từ chai/lon... đã mở/khui ở một số nơi công cộng, ví dụ như phố xá.
16.06.2015
PHẦN 2: CON NAI CÁI LÔNG TRẮNG
CHƯƠNG 20
Dịch giả: Đinh Minh Hương
Nguồn: NXB Văn học
Nội dung thu gọn
Cal Predericks giới thiệu Sachs với Tiến sĩ Elliott Penny.
“Ồ, cô đang làm việc cùng Lincoln Rhyme à?”, ông bác sĩ hỏi, khiến Sachs ngạc nhiên.
“Vâng.”
“Cal cho tôi biết là hầu như nhờ cô và anh ấy mà họ bắt được Garrett. Anh ấy có mặt tại đây không? Lincoln ấy?”
“Ngay bây giờ thì anh ấy đang ở trụ sở chính quyền quận. Có lẽ anh ấy chẳng còn ở lại đây lâu nữa.”
“Chúng tôi có một người bạn chung. Tôi muốn được chào anh ấy. Tôi sẽ ghé thăm nếu thuận tiện.”
Sachs nói: “Anh ấy còn lưu lại đây chừng một tiếng đồng hồ”. Cô quay sang Cal Fredericks: “Tôi hỏi ông việc này được không?”
“Vâng, thưa cô.” Ông luật sư bào chữa trả lời thận trọng. Về lý thuyết, Sachs đang làm việc cho phía đối lập.
“Lúc nãy Mason Germain vừa nói chuyện với Garrett tại đây. Anh ta có nhắc tới Lancaster. Đó là nơi nào vậy?”
“Đó là Trung tâm Tạm giam Tội phạm mang tính côn đồ. Cậu ta sẽ bị chuyển đến đấy sau khi bên nguyên phát đơn kiện. Sẽ bị giữ ở đấy cho tới lúc tòa án xét xử.”
“Chỗ đó dành cho trẻ vị thành niên à?”
“Không, không. Dành cho người thành niên chứ.”
“Nhưng hắn mới mười sáu”, Sachs nói.
“Ồ, McGuire sẽ đưa cậu ta ra xét xử như xét xử một người thành niên - nếu chúng tôi không thể đi đến một thỏa thuận điều đình nhận tội.”
“Chỗ đó tồi tệ tới mức nào?”
“Cái gì, Lancaster á?” Ông luật sư nhún đôi vai hẹp. “Cậu ta sẽ bị đánh đập. Đây là cái thực tế phải chấp nhận. Tôi không biết nó tồi tệ tới mức nào. Nhưng cậu ta sẽ bị đánh đập. Một thằng bé như cậu ta ở Trung tâm Tạm giam sẽ là một con tép thuộc hàng bét gí, bị đủ thứ đầu gấu bắt nạt.”
“Hắn có thể được đối xử đặc biệt không?”
“Không phải ở đó. Họ nhốt chung tất cả. Về cơ bản, chỉ có độc một phòng giam lớn. Nhiều nhất thì chúng tôi cũng chỉ hy vọng lính gác sẽ trông chừng cho cậu ta.”
“Thế còn việc bảo lãnh tại ngoại?”
Fredericks cười to: “Chẳng thẩm phán nào trên đời này lại cấp giấy tại ngoại cho một trường hợp như trường hợp cậu ta đâu. Cậu ta luôn luôn chỉ chờ cơ hội chạy trốn.”
“Chúng tôi có thể làm gì để hắn được đưa tới nơi giam giữ khác không? Lincoln có bạn bè ở New York.”
“New York?” Fredericks mỉm cười một cách lịch sự nhưng châm biếm của người miền Nam. “Tôi nghĩ nó không có trọng lượng lắm ở phía nam biên giới Mason-Dixon<33>. Có lẽ thậm chí cũng không có trọng lượng lắm ở phía tây sông Hudson.” Ông ta hất đầu chỉ Tiến sĩ Penny. “Không, tốt nhất là chúng tôi thuyết phục được cậu ta hợp tác, rồi vạch ra một thỏa thuận điều đình nhận tội.”
“Cha mẹ nuôi hắn có nên đến đây không?”
“Có, nên đến. Tôi gọi điện cho họ nhưng Hal bảo thằng bé hãy tự mình quyết định lấy mọi việc. Ông ta thậm chí sẽ không để tôi nói chuyện với Maggie, mẹ của cậu ta.”
“Nhưng Garrett chẳng thể tự quyết định được. Hắn vẫn còn là một đứa trẻ.”
“Ồ” Fredericks giải thích. “Trước khi có lời buộc tội hoặc thương lượng về bào chữa, tòa án sẽ chỉ định một người giám hộ hợp pháp. Yên tâm, cậu ta sẽ có người chịu trách nhiệm.”
Sachs quay sang ông bác sĩ: “Ông sẽ làm gì? Thực hiện bài trắc nghiệm chiếc ghế trống à?”
Tiên sĩ Penny liếc nhìn ông luật sư, ông này gật đầu cho phép giải thích. “Nó không phải một bài trắc nghiệm. Nó là một kiểu trị liệu Gestalt - một kỹ thuật được biết có thể giúp người ta nhanh chóng hiểu những cách ứng xử nhất định. Tôi sẽ để Garrett tưởng tượng rằng Mary Beth đang ngồi trên một chiếc ghế trước mặt cậu ta và để cậu ta trò chuyện với cô gái. Trình bày với cô ấy lý do tại sao cậu ta bắt cóc cô. Tôi hy vọng sẽ khiến cậu ta hiểu được rằng cô ấy đang lo lắng, hoảng sợ và rằng việc cậu ta đã làm là sai trái. Rằng cô ấy sẽ vui hơn nếu cậu ta nói với chúng tôi nơi đang giam giữ cô.”
“Và kỹ thuật này sẽ có tác dụng?”
“Nó không thực sự nhằm giải quyết các tình huống thuộc loại này, nhưng tôi nghĩ nó có thể có tác dụng.”
Ông luật sư liếc nhìn đồng hồ đeo tay. “Sẵn sàng chưa, tiến sĩ?”
Ông ta gật đầu.
“Chúng ta đi thôi. Ông bác sĩ và Fredericks bước vào phòng thẩm vấn.
Sachs do dự, vặn lấy một cốc nước từ bình nước có bộ làm lạnh. Chậm rãi hớp từng ngụm. Khi viên cảnh sát ở bàn tiếp khách lại chăm chú với tờ báo, Sachs vội vã bước qua cánh cửa phòng quan sát, nơi đặt máy quay video ghi hình các đối tượng. Phòng không có ai. Cô kéo cho cánh cửa đóng lại và ngồi xuống, nhìn sang phòng thẩm vấn. Cô trông thấy Garrett ngồi trên một chiếc ghế đặt ở giữa phòng. Ông bác sĩ ngồi bên bàn. Cal Fredericks ngồi trong góc, hai tay khoanh trước ngực, bắt chéo chân, để lộ chiều cao của đôi gót giày vuông chằn chặn.
Một chiếc ghế khác, không có ai ngồi, đặt đối diện với Garrett.
Trên bàn bày những lon Coke. Nước ngưng đọng lại ở mặt ngoài lon.
Qua cái loa rẻ tiền kêu rột roạt gắn bên trên tấm gương, Sachs nghe thấy giọng họ.
“Garrett, tôi là Tiến sĩ Penny. Cậu khỏe chứ?”
Không có câu trả lời.
“Trong này hơi ấm, nhỉ?”
Garrett vẫn chẳng nói gì. Hắn nhìn xuống. Ngón cái và ngón trỏ búng móng vào nhau. Sachs không nghe được tiếng búng. Cô phát hiện ra ngón cái của chính mình đang bấm vào chỗ thịt đầu ngón trỏ. Cảm giác ươn ướt, trông thấy máu chảy. Dừng lại dừng lại dừng lại, cô tự nhủ và ép mình buông bàn tay xuống hai bên sườn.
“Garrett, tôi ở đây để giúp đỡ cậu. Tôi làm việc với luật sư của cậu, ông Fredericks đây và chúng tôi đang cố gắng để giảm án cho những tội cậu đã phạm phải. Chúng tôi có thể giúp đỡ cậu nhưng chúng tôi cần cậu hợp tác.”
Fredericks nói: “Ông bác sĩ sẽ trò chuyện với cậu, Garrett. Chúng tôi sẽ cố gắng tìm hiểu một số điều. Tuy nhiên, tất cả những gì cậu nói sẽ chỉ là giữa chúng ta mà thôi. Chúng tôi sẽ không nói lại với bất cứ ai nếu không có sự đồng ý của cậu. Cậu hiểu chứ?”
Garrett gật đầu.
“Hãy nhớ nhé, Garrett”, ông bác sĩ nói. “Chúng tôi là những người tử tế. Chúng tôi đứng về phía cậu… Bây giờ, tôi muốn thử cái này.”
Ánh mắt Sachs chiếu vào gương mặt gã trai. Gã gãi gãi một vết lằn đỏ. Gã bảo: “Tôi cũng nghĩ thế.”
“Cậu trông thấy chiếc ghế kia không?”
Tiến sĩ Penny hất đầu chỉ chiếc ghế và gã trai liếc nhìn nó. “Có.”
“Chúng ta sẽ chơi một trò chơi. Cậu sẽ giả vờ là một người nào đó vô cùng quan trọng đang ngồi ở chiếc ghế ấy.”
“Như là tổng thống chẳng hạn á?”
“Không, tôi muốn nói, một người nào đó quan trọng đối với cậu. Một người nào đó cậu biết trong đời thực. Cậu sẽ giả vờ như người đó đang ngồi trước mặt cậu. Tôi muốn cậu trò chuyện với họ. Và tôi muốn cậu hết sức thành thật với họ. Cậu nói bất cứ điều gì mà cậu muốn nói. Chia sẻ với họ những bí mật của cậu. Nếu cậu tức tối với họ, hãy nói ra. Nếu cậu yêu mến họ, hãy nói ra. Nếu cậu thèm muốn họ - kiểu như cậu vốn vẫn thèm muốn một cô gái - cũng hãy nói ra. Hãy nhớ, nói bất cứ điều gì đều được cả. Sẽ chẳng ai bực bội với cậu đâu.”
“Cứ trò chuyện với chiếc ghế?”, Garrett hỏi ông bác sĩ. “Vì sao?”
“Vì một điều, nó sẽ khiến cậu cảm thấy thoải mái hơn sau những chuyện tồi tệ đã xảy ra hôm nay.”
“Ông muốn nói ví dụ chuyện bị bắt ấy à?”
Sachs mỉm cười.
Bản thân Tiến sĩ Penny xem chừng cũng kìm nén một nụ cười và dịch chiếc ghế lại gần Garrett hơn chút ít. “Bây giờ, hãy tưởng tượng rằng ai đấy quan trọng đang ngồi ngay kia. Mary Beth McConnell chẳng hạn. Hãy tưởng tượng rằng cậu có chuyện muốn nói với cô ấy và lúc này đây là cơ hội cho cậu. Chuyện gì đó cậu chưa từng nói bao giờ vì nó quá khó nói. Chuyện gì đó thực sự quan trọng. Không phải những chuyện vớ vẩn.”
Garrett bối rối nhìn xung quanh căn phòng, nhìn ông luật sư của gã, ông ta gật đầu động viên. Gã trai hít sâu một hơi và thở ra từ từ. “Được rồi. Tôi nghĩ là tôi đã sẵn sàng.”
“Tốt. Bây giờ, hãy hình dung về Mary Beth trong...”
“Nhưng tôi không muốn nói gì với cô ấy cả”, Garrett ngắt lời.
“Cậu không muốn?”
Gã lắc đầu. “Tôi đã nói hết với cô ấy mọi điều tôi muốn nói rồi.”
“Không còn điều gì nữa ư?”
Garrett lưỡng lự. “Tôi không biết. Có lẽ. Chỉ có điều... tôi thích hình dung ra một người khác đang ngồi ở chiếc ghế kia hơn. Chúng ta có thể, nói chung, làm như thế không?”
“Chà, bây giờ, chúng ta hãy cứ làm với Mary Beth. Cậu nói có lẽ còn điều gì đó cậu muốn nói với cô ấy. Điều gì vậy? Cậu muốn nói cô ấy đã bỏ rơi và làm tổn thương cậu như thế nào à? Hay muốn nói cô ấy làm cậu giận? Cậu muốn trả thù cô ấy ra sao? Bất cứ điều gì, Garrett ạ. Cậu có thể nói bất cứ điều gì. Không sao đâu.”
Garrett nhún vai. “Ừm, tại sao không thể là một người khác?”
“Bây giờ, chúng ta hãy cứ bảo rằng đây phải là Mary Beth đi.”
Gã trai bất chợt quay về phía tấm gương một chiều và nhìn thẳng vào vị trí Sachs đang ngồi. Cô bất giác lùi lại, y như thể gã biết là cô đang ngồi đấy, tuy gã thực ra không thể nào trông thấy cô.
“Cố gắng lên”, ông bác sĩ khuyến khích.
Gã trai quay lại với Tiến sĩ Penny. “Được rồi. Tôi nghĩ là tôi sẽ nói rằng tôi mừng vì cô ấy đang an toàn.”
Ông bác sĩ cười tươi: “Tốt Garrett. Chúng ta hãy bắt đầu ở đó nhé. Nói với cô ấy rằng cậu đã cứu cô ấy. Nói với cô ấy lý do tại sao.” Ông ta hất đầu chỉ chiếc ghế.
Garrett băn khoăn nhìn chiếc ghế trống. Gã bắt đầu: “Cô ấy đã đến Bến tàu kênh Nước đen và...
“Không, hãy nhớ rằng cậu đang nói chuyện với Mary Beth. Hãy giả vờ như cô ấy đang ngồi trên chiếc ghế kia.”
Garrett hắng giọng. “Chị đã đến Bến tàu kênh Nước đen. Chỗ đó, nói chung, rất rất nguy hiểm. Người ta bị làm hại ở Bến tàu kênh Nước đen, người ta bị giết chết ở đó. Tôi lo lắng cho chị. Tôi không muốn gã đàn ông mặc quần yếm làm hại cả chị nữa.”
“Gã đàn ông mặc quần yếm à?”, ông bác sĩ hỏi.
“Cái gã đã giết Billy.”
Ông bác sĩ nhìn qua Garrett tới chỗ ông luật sư, ông này lắc đầu.
Tiến sĩ Penny nói: “Garrett, cậu biết đấy, dù cậu đã cứu Mary Beth, cô ấy vẫn có thế nghĩ là cô ấy đã làm gì đó khiến cậu nổi giận.”
“Nổi giận à? Cô ấy chẳng làm gì khiến tôi nổi giận cả.”
“Chà, cậu đã đưa cô ấy đi khỏi gia đình cô ấy đấy thôi.”
“Tôi đưa cô ấy đi để đảm bảo cho cô ấy được an toàn.” Garrett nhớ ra luật chơi và lại nhìn chiếc ghế: “Tôi đưa chị đi để đảm bảo cho chị được an toàn.”
Ông bác sĩ tiếp tục nói giọng dịu dàng: “Tôi không thể không nghĩ rằng cậu còn muốn nói chuyện gì đó. Từ lúc trước tôi đã cảm nhận được điều này - rằng còn có chuyện gì đó khá quan trọng để nói mà cậu không muốn nói ra.”
Sachs cũng trông thấy điều này trên bộ mặt gã trai. Ánh mắt gã bộc lộ vẻ lo lắng, nhưng gã bị trò chơi của ông bác sĩ gây tò mò. Điều gì đang đi qua tâm trí gã? Có chuyện gì đó gã muốn nói. Chuyện gì?
Garrett nhìn xuống những móng tay dài, đầy đất cát. “À, ờ, có lẽ là có chuyện này.”
“Cố gắng lên.”
“Đây là... chuyện khó nói.”
Cal Fredericks ngồi vươn người ra phía trước, bút giơ lăm lăm trên một tập giấy.
Tiến sĩ Penny nói nhẹ nhàng: “Chúng ta hãy hình dung khung cảnh nào... Mary Beth ở ngay kia. Cô ấy đang chờ đợi. Cô ấy muốn cậu nói ra.”
Garrett hỏi: “Cô ấy muốn? Ông nghĩ thế à?”
“Tôi nghĩ thế, ông bác sĩ cam đoan với Garrett. “Cậu muốn bảo cô ấy điều gì đó liên quan đến chỗ cô ấy đang ở chăng? Chỗ cậu đã đưa cô ấy tới? Nó như thế nào? Có thể là lý do tại sao cậu lại đưa cô ấy tới cái chỗ đó?”
“Không”, Garrett đáp. “Tôi không muốn nói bất cứ điều gì về việc ấy.”
“Thế cậu muốn nói gì?”
“Tôi...” Giọng Garrett nhỏ đi. Móng tay búng tanh tách.
“Tôi biết là khó nói.”
Trên ghế của mình, Sachs cũng ngồi vươn người ra phía trước. Nào, cô thấy mình tự nhủ, nào, Garrett. Chúng tôi muốn giúp đỡ cậu. Hãy thỏa hiệp với chúng tôi đi.
Tiến sĩ Penny tiếp tục, giọng như thôi miên: “Bắt đầu nào, Garrett. Mary Beth ngồi ngay trên chiếc ghế kia. Cô ấy đang chờ đợi. Cô ấy băn khoăn không biết cậu sắp sửa nói gì. Hãy trò chuyện với cô ấy”. Ông bác sĩ đẩy lon nước ngọt lại gần Garrett và gã uống từng hơi dài, chiếc còng va lanh canh vào vỏ lon vì gã cầm bằng cả hai tay. Sau chốc lát nghỉ giải lao này, ông bác sĩ tiếp tục. “Chuyện cậu thực sự muốn nói với cô ấy là gì? Cái chuyện quan trọng đó? Tôi có thể thấy cậu muốn nói ra. Tôi có thể thấy cậu cần nói ra. Và tôi nghĩ cô ấy cần được nghe.” Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Ông bác sĩ đẩy chiếc ghế trống lại gần hơn. “Cô ấy kia, Garrett, ngồi ngay kia, trước mặt cậu, nhìn cậu. Chuyện cậu sẽ nói với cô ấy mà từ trước tới nay chưa thể nói là gì? Bây giờ là cơ hội cho cậu. Bắt đầu đi.”
Một ngụm Coke nữa. Sachs để ý thấy đôi bàn tay gã trai run run. Điều gì sẽ tới? Cô băn khoăn tự hỏi. Gã sắp sửa nói gì?
Bỗng nhiên, Garrett vươn mình ra phía trước, buột thốt lên với chiếc ghế khiến cả hai người đàn ông trong căn phòng đều kinh ngạc “Tôi thực sự, thực sự thích chị, Mary Beth. Và... và tôi nghĩ là tôi yêu chị”. Gã hít sâu mấy hơi, búng móng tay vài lần, rồi bối rối túm lấy tay vịn ghế và cúi đầu, mặt đỏ như gấc.
“Đó là điều cậu muốn nói?”, ông bác sĩ hỏi.
Garrett gật đầu.
“Còn điều gì nữa không?”
“Ừm, không.”
Lần này tới lượt ông bác sĩ liếc nhìn ông luật sư và lắc đầu.
“Ông”, Garrett lên tiếng. “Bác sĩ… Tôi, nói chung, có câu hỏi này.”
“Cậu hỏi đi, Garrett.”
“Được rồi... tôi có cuốn sách ở nhà và tôi rất muốn nó được đem tới đây. Đó là cuốn Thế giới thu nhỏ. Liệu có được không?”
“Chúng tôi sẽ xem có thể thu xếp không”, ông bác sĩ nói. Ông ta nhìn qua Garrett tới chỗ Fredericks, ông này đảo mắt thất vọng. Hai người đàn ông đứng dậy, mặc áo khoác.
“Tạm thời thế đã, Garrett.”
Gã trai gật đầu.
Sachs vội vã đứng dậy và bưóc trở ra văn phòng. Viên cảnh sát đang trực không để ý việc cô nghe trộm.
Fredericks và ông bác sĩ bước ra ngoài trong lúc Garrett bị dẫn quay lại phòng giam.
Jim Bell lao ào qua cửa. Fredericks giới thiệu anh ta với ông bác sĩ, và viên cảnh sát trưởng hỏi: “Có kết quả gì không?”
Fredericks lắc đầu: “Không gì cả”.
Bell nói cương quyết: “Tôi vừa làm việc với bồi thẩm đoàn. Sáu giờ, họ sẽ tiến hành buộc tội hắn và cho hắn đến Lancaster trong đêm nay”.
“Đêm nay?”, Sachs hỏi.
“Nên đưa hắn ra khỏi thị trấn thì hơn. Xung quanh đây có vài người muốn tự tay mình giải quyết vấn đề với hắn.”
Tiến sĩ Penny nói: “Tôi có thể thử lại sau. Ngay bây giờ cậu ta đang rất bối rối”.
“Tất nhiên là hắn bối rối”, Bell lẩm bẩm. “Hắn vừa để bị bắt vì tội bắt cóc và giết người. Như thế nếu là tôi, tôi cũng bối rối. Hãy làm bất cứ việc gì ông muốn ở Lancaster, nhưng McGuire đang vạch lời buộc tội hắn và chúng tôi sẽ đưa hắn đi bằng tàu thủy trước lúc trời tối. À mà này, Cal, tôi phải bảo anh: McGuire sẽ buộc tội giết người đấy.”
Ở trụ sở chính quyền quận, Amelia Sachs thấy Rhyme đang khó chịu đúng như cô nghĩ.
“Nào, Sachs, hãy giúp đỡ cậu Ben tội nghiệp thu dọn các thiết bị và chúng ta rời khỏi đây thôi. Anh đã bảo Tiến sĩ Weaver là anh sẽ có mặt tại bệnh viện trong năm nay mà.
Nhưng cô cứ đứng bên cạnh cửa sổ, nhìn ra bên ngoài. Cuối cùng, cô nói: “Rhyme.”
Nhà hình sự học ngẩng lên, nheo mắt xem xét cô theo cái cách anh vẫn xem xét một dấu vết mà anh chưa thể xác định được. “Anh không thích như thế đâu, Sachs.”
“Cái gì?”
“Anh không thích chút nào cả. Ben, không, cậu phải tháo phần ứng ra trước khi đóng nó lại.”
“Phần ứng ấy ạ?” Ben đang chật vật đóng thiết bị thay đổi nguồn sáng, được sử dụng làm hiện các chất mà mắt thường không trông thấy được.
“Cái bút quang”, Sachs giải thích và tiếp quản công việc này.
“Cảm ơn.” Ben bắt đầu cuộn dây máy vi tính lại.
“Dáng vẻ của em ấy, Sachs ạ. Đó là cái anh không ưa. Dáng vẻ và giọng điệu của em.”
“Ben”, Sachs hỏi. “Cậu có thể cho chúng tôi nói chuyện riêng mấy phút được không?”
“Không, cậu ta không thể, Rhyme quát. “Chúng ta không có thời gian. Chúng ta phải gói ghém đồ đạc và rời khỏi đây.”
“Năm phút”, Sachs nói.
Ben nhìn từ Rhyme sang Sachs và vì cô chiếu vào anh ta ánh mắt cầu khẩn chứ không phải ánh mắt tức giận, cô giành chiến thắng. Anh chàng to lớn bước ra khỏi phòng.
Rhyme cố gắng chặn trước: “Sachs, chúng ta đã làm tất cả những gì chúng ta có thể. Chúng ta đã cứu Lydia. Chúng ta đã bắt được kẻ tội phạm. Hắn sẽ chấp nhận một thỏa thuận điều đình nhận tội và khai với họ Mary Beth đang ở đâu.”
“Hắn không định khai cô ấy đang ở đâu.”
“Nhưng đó chẳng phải vấn đề của chúng ta. Chẳng còn gì nữa...”
“Em không nghĩ hắn đã làm việc đó.”
“Giết Mary Beth ấy à? Anh đồng ý. Vết máu cho thấy cô gái có lẽ vẫn còn sống, nhưng…”
“Ý em là, giết Billy ấy.”
Rhyme lắc lắc đầu để hất một lọn tóc khó chịu cứ xõa xuống trán. “Em tin tưởng vào câu chuyện về gã đàn ông mặc quấn yếm màu nâu vàng mà Jim đề cập tới à?”
“Vâng, em tin.”
“Sachs, hắn là một thằng bé bất hạnh và em cảm thấy thương hại hắn. Anh cũng vậy. Nhưng...”
“Điều đó chẳng liên quan gì.”
“Em đúng đấy, chẳng liên quan gì”, Rhyme nói gay gắt. “Điềuduy nhất liên quan là bằng chứng. Mà bằng chứng thì cho thấy không có gã đàn ông mặc quần yếm nào, đồng thời cho thấy Garrett đã phạm tội.”
“Bằng chứng gợi ý rằng hắn đã phạm tội, Rhyme. Nó chưa chứng minh được điều ấy. Bằng chứng có thể được diễn giải theo nhiều cách khác nhau. Vả lại, em có một số bằng chứng của chính mình.”
“Ví dụ?”
“Hắn nhờ em trông nom đến lũ côn trùng hắn nuôi.”
“Thế ư?”
“Không có vẻ hơi kỳ cục sao, khi một kẻ giết người máu lạnh lại quan tâm đến những gì xảy ra cho những con bọ chết tiệt nào đó?”
“Đây chẳng phải là bằng chứng, Sachs ạ. Đấy là chiến thuật của hắn. Là cuộc chiến tâm lý, nhằm cố gắng phá vỡ sự phòng thủ của chúng ta. Thằng nhãi ấy thuộc loại thông minh, hãy nhớ như thế. Chỉ số IQ cao, điểm số các môn học ở trường cao. Và hãy nhìn những thứ hắn đọc. Toàn những điều khôn ngoan - hắn đã học hỏi rất nhiều từ lũ côn trùng. Và một đặc điểm của chúng là chúng chẳng có nguyên tắc đạo đức gì cả. Chúng chỉ quan tâm đến việc tồn tại thôi. Đấy là những bài học hắn đã học. Đấy là sự phát triển của hắn ở tuổi ấu thơ. Nó đáng buồn, tuy nhiên nó chẳng phải vấn đề của chúng ta.”
“Anh biết cái bẫy hắn đã đặt. Cái bẫy cành thông ấy?”
Rhyme gật đầu.
“Nó chỉ sâu hai feet. Và cái tổ ong bắp cày bên trong thì sao? Không có gì. Không có con ong bắp cày nào cả. Và cái bẫy ammonia không được bố trí để làm hại ai. Chỉ để cảnh báo hắn là một đội tìm kiếm đang đến gần cối xay.”
“Đây không phải các bằng chứng thực tế, Sachs ạ. Không phải các bằng chứng như tờ khăn giấy thấm máu chẳng hạn.”
“Hắn bảo rằng hắn từng thủ dâm. Rằng Mary Beth bị đập đầu và hắn dùng tờ khăn giấy ấy lau vết thương. Dù sao, nếu hắn đã cưỡng hiếp cô gái, một tờ khăn giấy sẽ có ích lợi gì?”
“Để chùi sạch sẽ sau đó.”
“Chẳng phù hợp với mô tả nào về tội phạm cưỡng dâm em từng biết cả.”
Rhyme tự trích dẫn mình, từ lời nói đầu cuốn sách giáo khoa về hình sự học anh viết: “Sự mô tả là người hướng dẫn. Chứng cứ là…”
“Chúa Trời”, Sachs đọc nốt. “Được rồi, thế thì - có biết bao nhiêu dấu chân ở hiện trường vụ án. Hãy nhớ rằng hiện trường vụ án bị xéo nát. Một số dấu chân có thể là của gã đàn ông mặc quần yếm.”
“Không có các dấu vân tay khác trên vũ khí giết người.”
“Hắn khẳng định gã đàn ông đó đã đi găng tay”, Sachs phản công.
“Nhưng cũng không có vân da.”
“Có thể là găng tay vải. Để em kiểm tra và...”
“Có thể, có thể... Thôi nào, Sachs, đây đơn thuần là sự phỏng đoán.”
“Nhưng anh nên nghe những lời hắn nói về Mary Beth mới phải. Hắn lo lắng cho cô gái ấy.”
“Hắn đang đóng kịch đấy. Quy tắc thứ nhất của anh là gì?”
“Anh có nhiều quy tắc lắm”, Sachs lẩm bẩm.
Rhyme tiếp tục chẳng chút bối rối: “Đó là quy tắc không thể tin tưởng vào nhân chứng được.”
“Hắn nghĩ hắn yêu cô gái, hắn quan tâm đến cô ấy. Hắn thực sự đinh ninh rằng hắn đang bảo vệ cô ấy.”
Một giọng nói cắt ngang. “Ồ, hắn đúng là đang bảo vệ cô gái. Sachs và Rhyme nhìn ra phía cửa. Tiến sĩ Elliott Penny. Ông ta nói thêm! “Bảo vệ cô ấy trước chính bản thân hắn.”
Sachs giới thiệu hai người với nhau.
“Tôi muốn gặp anh, Lincoln. Tôi chuyên nghiên cứu về tâm lý pháp lý. Năm ngoái Bert Markham và tôi cùng tham gia một hội đồng xét xử, anh ấy đánh giá cao về anh.
“Bert là người bạn tốt”, Rhyme nói. “Vừa được bổ nhiệm làm Trưởng phòng Khám nghiệm Sở Cảnh sát Chicago.
Tiến sĩ Penny hất đầu chỉ ra hành lang. “Ngay lúc này, luật tư của Garrett đang thảo luận với ủy viên công tố, nhưng tôi không nghĩ kết quả sẽ rất thuận lợi cho thằng bé đâu.”
“Ông có ý gì khi nói tới việc bảo vệ cô gái trước chính bản thân hắn?”, Sachs hoài nghi hỏi. “Một kiểu đa nhân cách vớ vẩn à?”
“Không”, ông bác sĩ đáp, chẳng hề bị vẻ hoài nghi đáng khó chịu của Sachs gây bối rối. “Rõ ràng là có những kiểu rối loạn tinh thần và xúc cảm, tuy nhiên không có gì kỳ cục như đa nhân cách. Garrett biết chính xác việc hắn làm với Mary Beth và Billy Stail. Tôi khá chắc chắn rằng hắn đang giấu cô gái ở đâu đó để cô gái tránh xa được Bến tàu kênh Nước đen, nơi có lẽ hắn quả đã sát hại những người khác mấy năm qua, và khiến cho - tên thằng bé là gì nhỉ? - thằng bé nhà Wilkes sợ hãi tới mức tự tử. Tôi nghĩ hắn dự định cưỡng đoạt và giết Mary Beth cùng lúc hắn giết Billy, nhưng cái phần trong hắn nói yêu cô gái không để hắn làm việc này. Hắn đã đưa cô gái đi khỏi Bến tàu kênh Nước đen càng nhanh càng tốt để khỏi hãm hại cô ấy. Tôi nghĩ hắn quả đã cưỡng hiếp cô gái, tuy đối với hắn đó không phải là cưỡng hiếp, đó đơn giản là việc hoàn tất cái mà hắn nhìn nhận như là một mối quan hệ. Hắn thấy nó bình thường như là vợ chồng đang trong tuần trăng mật. Nhưng hắn vẫn cảm thấy nỗi thôi thúc phải giết chết cô gái nên hôm sau hắn quay lại Bến tàu kênh Nước đen và tóm được nạn nhân thay thế, Lydia Johansson. Không nghi ngờ gì, hắn đã sắp sửa sát hại cô gái ấy thay thế cho Mary Beth.”
“Tôi hy vọng ông không xuất hiện trong phần bào chữa”, Sachs nói gay gắt. “Nếu đây là lời chứng mang tính thông cảm của ông.”
Tiến sĩ Penny lắc đầu. “Căn cứ vào những chứng cứ tôi đã nghe được, thằng bé đó sẽ bị bỏ tù dù có hay không có nhân chứng.”
“Tôi không nghĩ hắn giết cậu thiếu niên kia. Và theo tôi vụ bắt cóc chẳng hiển nhiên như chúng ta đang khiến cho nó trở thành hiển nhiên đâu.”
Tiến sĩ Penny nhún vai: “Quan điểm nghề nghiệp của tôi nói hắn đã phạm tội. Hiển nhiên tôi chưa thực hiện tất cả các bài trắc nghiệm, nhưng hắn đã thể hiện những hành vi phản xã hội và rối loạn nhân cách rõ ràng - và tôi đang nghĩ tới cả ba hệ thống chẩn đoán quan trọng. Phân loại bệnh quốc tế, Sổ tay chẩn đoán và thống kê về rối loạn tâm thần, Liệt kê có sửa chữa bổ sung các chứng tâm thần.Bình thường tôi có phải tiến hành tất cả các bài trắc nghiệm không? Tất nhiên. Nhưng hắn đã bộc lộ rõ ràng một nhân cách tội phạm, phản xã hội vô cảm. Hắn có chỉ số IQ cao, hắn thể hiện những lối tư duy chiến lược và hành vi phạm tội mang tính tổ chức, coi việc trả thù là chấp nhận được, không tỏ ra ăn năn... hắn là một kẻ rất nguy hiểm”.
“Sachs”, Rhyme nói. “Vấn đề là gì? Đây đâu còn là cuộc chơi của chúng ta nữa.”
Sachs phớt lờ Rhyme và ánh mắt như mũi dùi của anh. “Nhưng, thưa tiến sĩ...”
Ông bác sĩ giơ bàn tay lên: “Tôi có thể hỏi cô một câu không?”.
“Gì ạ?”
“Cô có con không?”
Một thoáng lưỡng lự. “Không”, Sachs trả lời. “Sao cơ?”
“Cô thông cảm với hắn là điều có thể hiểu được, tôi nghĩ tất cả chúng ta đều thông cảm với hắn, tuy nhiên có lẽ cô đang lẫn lộn tình cảm này với bản năng làm mẹ tiềm ẩn.”
“Nghĩa là thế nào?”
Ông bác sĩ tiếp tục: “Tôi muốn nói nếu bản thân cô đang khao khát được làm mẹ, cô có thể không có quan điểm khách quan về sự vô tội hay có tội của một thằng bé mười sáu tuổi. Đặc biệt là một thằng bé mồ côi từng phải chịu đựng những năm tháng nghiệt ngã trong cuộc đời”.
“Tôi có thể đóng vai trò hoàn toàn khách quan”, Sachs nói gay gắt. “Quá nhiều điều chẳng hợp lý gì cả. Động cơ của Garrett là vô lý, hắn...”
“Động cơ là cái chân không vững vàng của chiếc ghế chứng cứ, em biết điều đó mà, Sachs.”
“Em chẳng cần thêm bất cứ câu châm ngôn nào, Rhyme”, Sachs nói gay gắt.
Nhà hình sự học thở dài thất vọng, liếc nhìn đồng hồ treo tường.
Tiến sĩ Penny tiếp tục: “Tôi đã nghe thấy cô hỏi Cal Fredericks về Lancaster, về những gì sẽ xảy ra với thằng bé.”
Sachs nhướn một bên lông mày.
“Chà, tôi nghĩ cô có thể giúp đỡ hắn”, ông bác sĩ nói. “Việc hữu ích nhất mà cô có thể làm là dành chút thời gian cho hắn. Chính quyền quận sẽ bố trí một nhân viên công tác xã hội để liên lạc với người giám hộ do tòa án chỉ định và cô phải được phê chuẩn, nhưng tôi chắc chắn rằng chuyện này có thể thu xếp. Hắn thậm chí có thể cởi mở với cô về Mary Beth.”
Trong lúc Sachs đang cân nhắc thì Thom xuất hiện ở ngưỡng cửa: “Xe bên ngoài rồi, Lincoln”.
Rhyme liếc nhìn tấm bản đồ một lần cuối cùng, rồi quay về phía ngưỡng cửa. “Hãy xông lên một lần nữa, hỡi các anh em...”<34>
Jim Bell bước vào phòng và đặt bàn tay lên cánh tay đã mất mọi cảm giác của Rhyme: “Chúng tôi đang tổ chức một cuộc lục soát khu Bờ Ngoài. Với chút ít may mắn, chúng tôi sẽ tìm thấy cô gái sau vài ngày. Nghe này, tôi chẳng thể cảm ơn anh cho đủ được, Lincoln.”
Rhyme lảng tránh sự biết ơn ấy bằng cái gật đầu và chúc viên cảnh sát trưởng may mắn.
“Tôi sẽ đến bệnh viện thăm anh, Lincoln”, Bell nói. “Tôi sẽ mang rượu Scotch tới. Lúc nào thì họ cho phép anh uống lại, nhỉ?”
“Không sớm lắm đâu.”
“Em sẽ giúp đỡ Ben thu dọn”, Sachs nói với Rhyme.
Bell bảo cô: “Chúng tôi sẽ cho xe đưa chị đi Avery.”
Sachs gật đầu: “Cảm ơn. Em sẽ đến đó sớm, Rhyme.”
Nhưng dường như nhà hình sự học đã rời khỏi Tanner’s Corner rồi, về tinh thần nếu không phải là về thể xác, và anh không nói gì. Sachs chỉ nghe thấy tiếng rít nhỏ dần khi chiếc Storm Arrow lao nhanh về phía cuối dãy hành lang.
Mười lăm phút sau, họ thu dọn xong phần lớn thiết bị khám nghiệm và Sachs cho Ben Kerr về nhà, cảm ơn anh ta đã tình nguyện giúp đỡ.
Theo sau anh ta, Jesse Corn xuất hiện bên cạnh Sachs. Cô băn khoăn tự hỏi liệu có phải Jesse đã rình rập bên ngoài hành lang, chờ đợi cơ hội gặp cô một mình không.
“Ông ấy là một người thật đáng nể, phải không? Ông Rhyme ấy.” Anh chàng cảnh sát bắt đầu xếp thành chồng những cái hộp chẳng cần xếp.
“Anh ấy là như thế đấy”, Sachs đáp vẻ hờ hững.
“Cuộc phẫu thuật mà ông ấy nói tới. Nó có chữa khỏi cho ông ấy không?”
Nó sẽ giết chết anh ấy. Nó sẽ khiến bệnh tình anh ấy trầm trọng hơn. Nó sẽ khiến anh ấy phải sống đời sống thực vật. Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
“Không.”
Sachs nghĩ Jesse sẽ hỏi: Thế thì tại sao ông ấy lại tiến hành phẫu thuật? Nhưng anh chàng cảnh sát đã đưa ra thêm một trong những câu châm ngôn của mình: “Đôi khi người ta thấy cần phải làm một việc gì đó. Dù cho nó có vẻ vô vọng.”
Sachs nhún vai, tự nhủ thầm: Phải, đôi khi người ta cứ như thế.
Sachs bấm những cái khóa khóa hộp kính hiển vi và cuộn lại những đoạn dây điện cuối cùng. Cô để ý thấy một chồng sách trên bàn, mấy cuốn sách cô tìm được trong phòng riêng của Garrett tại nhà cha mẹ nuôi gã. Cô cầm cuốn Thế giới thu nhỏ lên, cuốn sách gã trai đã đề nghị Tiến sĩ Penny đem đến cho. Cô mở nó ra. Lật qua các trang, đọc một đoạn.
Có 4.500 loài thú được biết tới trên thế giới này, nhưng có 980.000 loài côn trùng được biết tới và ước tính chừng hai đến ba triệu loài nữa vẫn chờ đợi được phát hiện. Tính đa dạng và tính kiên cường đáng kinh ngạc của những sinh vật này đem lại cho người ta còn hơn cả sự ngưỡng mộ thuần túy. Người ta nghĩ tới thuật ngữ “biofilia” do E.O.Wilson, Giáo sư sinh vật học và côn trùng học Harvard, đưa ra, ý muốn nói cái tình cảm gắn bó mà con người cảm thấy đối với các sinh vật khác. Chắc chắn cũng có cơ hội lớn cho một mối liên hệ giữa con người với côn trùng, giống như mối liên hệ giữa con người với một con chó cảnh hay một con ngựa đua lấy giải hay thực tế, giữa con người với con người.
Sachs liếc nhìn ra bên ngoài hành lang, nơi Cal Fredericks và Bryan McGuire vẫn đang mê mải với cuộc khẩu chiến. Ông luật sư của Garrett rõ ràng sẽ thua.
Sachs đóng ập cuốn sách lại. Cô nghe thấy trong tâm trí những lời nói của ông bác sĩ.
Việc hữu ích nhất cô có thể làm là dành chút thời gian cho hắn.
Jesse bảo: “Có thể ra trường bắn thì hơi cập rập. Nhưng chị có muốn đi uống cà phê không?”
Sachs phá lên cười thầm. Thế là rốt cuộc cô cũng nhận được một lời mời cà phê cà pháo. “Có lẽ không được. Tôi sẽ đem cuốn sách này tới phòng tạm giam. Rồi tôi phải tới bệnh viện ở Avery. Để dịp khác nhé?” Truyện "Cái Ghế Trống " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
“Thế là chị nhận lời rồi đấy nhé.”
Chú Thích:
<33> Biểu tượng cho biên giới văn hóa giữa các bang miền Bắc và miền Nam nước Mỹ.
<34> Nguyên văn là “Once more into the breach, dear friends...”: Rhyme đọc một câu trong vở kịch Henry V của Shakespeare.