22
Người dịch: Vũ Kim Thư
Nguồn: NXB Văn Nghệ TPHCM
Nội dung thu gọn
Trong phòng ngủ của lão Knopf, một bóng ma từ từ xuất hiện giữa bóng mờ. Phải mất một lúc lâu dưới ánh nắng gay gắt giữa trưa tôi mới nhận ra cái bóng ma đó là lão Knopf bằng xương bằng thịt.
Thế là lão vẫn còn sống và vừa bước xuống giường đi tới cửa sổ. Cái đầu thò ra khỏi áo ngủ màu xám đang ngẩng nhìn trời với đôi mắt sâu hoắm.
Tôi gọi Georges :
- Lại đây xem, lão ta không chịu chết trong chuồng. Con ngựa chiến chuẩn bị ra trận lần cuối tại các bãi chiến rượu ở Werdenbruck.
Chúng tôi cố nhìn kỹ. Râu mép lão ta trễ xuống, mắt màu chì. Lão liếc nhìn một lần nữa về phía thị trấn, rồi quay vào.
- Cái nhìn cuối cùng! Cảm động chưa! Lão già cặn bã của quân trại cảm thấy cần phải nhìn lần chót ánh sáng của thế giới để nói lời vĩnh biệt.
Georges bỗng kêu lên :
- Lão trở ra kìa!
Tôi vội vàng rời khỏi máy phóng ảnh, chạy tới.
Phía sau cửa kính, lão thượng sĩ hồi hưu đang đưa một vật gì lên ngang miệng để uống.
- Lão ta uống thuốc! Gần rã nát cả ra mà vẫn cố bám lấy sự sống.
Georges sáng mắt hơn tôi. Y lại kêu lên :
- Thuốc cái quái gì! Có ai lại đổ thuốc vào chai rượu bao giờ?
- Hả?
Chúng tôi mở cửa kính ra. Georges nói đúng. Không còn chối cãi gì nữa, lão già ghiền rượu đang giải khát bằng một chai đựng rượu. Có lẽ đó là mưu kế của vợ lão. Bà ta đã đổ nước vào chai rượu không để cho chồng nuốt dễ dàng hơn. Tất cả các xó xĩnh trong nhà đã được lục soát tỉ mỉ, làm gì còn rượu nữa.
Tuy nhiên, Georges vận nghi ngại :
- Nếu là nước thì lão đã ném cả chai xuống sân rồi. Từ khi biết lão tới nay, tôi chưa hề thấy lão uống nước bao giờ, có khát lão chỉ uống rượu, còn nước chỉ để tắm rửa mà lại còn ghê tởm nữa. Chắc chắn là lão đang nốc loại cháy ruột mà cuộc bố ráp không tìm ra. Louis, chú đang chứng kiến một cảnh tượng cao cả của một con người dũng cảm bước thẳng vào mạng số. Lão thượng sĩ hồi hưu muốn được chết ngoài chiến trận hơn là chết trên giường.
- Có nên báo động cho bà cụ không?
- Chú tưởng là bà ấy có thể can thiệp hữu hiệu à?
- Không.
- Bác sĩ cho lão thêm hai ngày nữa. Nếu lão chỉ thu ngắn lại có vài giờ thì cũng chẳng có gì khác nhau đâu.
- Có chớ. Đó là sự khác nhau của một tín đồ Thiên Chúa và một người theo định mệnh thuyết.
Và tôi kêu to :
- Ông Knopf! Thượng sĩ Knopf!
Chẳng biết lão có nghe không, nhưng dường như lão đương đưa chai lên chào. Và rồi lão lại kê miệng vào cái kèn tử thần.
Tôi gào thật to :
- Ông Knopf! Bà Knopf đâu!
Georges lẳc đầu :
- Chậm mất rồi.
Knopf đã uống cạn. Lão múa tít vỏ chai như một nhạc
trưởng lới lúc chấm dứt một khúc quân hành.
Chúng tôi đứng lặng yên, chờ đợi lão gục xuống. Theo lời bác sĩ thì chỉ một giọt rượu cũng đủ khiến lão đi đứt. Bây giờ lão đang vào trong, từ từ biến mấtnhư một con quái vật từ từ lặn xuống nước.
Georges chép miệng :
- Chết như vậy cũng yên lành.
- Mình nên cho gia đình lão hay.
- Cứ để họ yên. Lão là tai họa của họ. Cả bốn mẹ con đều sẽ hài lòng khi lão không còn nữa.
- Tôi không rõ gì cả nhưng đôi khi tình cảm thường mượn những lối thoát bất ngờ. Người ta vẫn có thể bơm rượu ra khỏi dạ dầy. Truyện "Bia Mộ Đen Và Bầy Diều Hâu Gãy Cánh " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
- Lão sẽ chiến đấu hết mình để giữ lại, rồi chú sẽ thấy. Nhưng nếu muốn lương tâm ngủ yên thì gọi bác sĩ đi. Gọi Hirschmann.
Quay số xong, nghe có tiếng trả lời ở đầu dây tôi hét vào ống nói :
- A lô! Ông già Knopf vừa mới nốc cạn cả chai rượu mạnh, chúng tôi nhìn thấy rõ ràng.
- Uống một hơi?
- Hai lần. Dường như vậy. Bác sĩ cần biết chi tiết đó để làm gì?
- Có làm gì đâu, tò mò thôi. Cầu chúc ông ta bình yên.
- Không còn cách nào thử cứu vãn sao?
Hirschmann đáp ngay :
- Không còn. Tôi ngạc nhiên là ông ta còn sống được tới bây giờ. Tìm cho ông ấy một cái bia giống hình chai rượu.
- Bác sĩ không có trái tim ả?
- Chẳng phải không có tim mà là vô liêm sỉ. Bạn dư biết điều đó vì chúng mình cùng đứng một phe. Hãy uống một ly để tưởng niệm cái lò già cỗi không bao giờ còn cất rượu được nữa.
Tôi cúp máy, nói với Georges :
- Georges, theo tôi thấy thì mình nên bỏ quách cái nghề này. Nó làm cho mình đần độn ra.
Càng tệ hại hơn. Đối với mội đoàn viên của hội Thi văn Werdenbruck thì đó là điều ngạc nhiên, sợ hãi, kính trọng, trừ cái chết, anh sẽ là cái gì nếu người ta biến anh thành ngân phiếu và mộ bia?
- Dẹp cái giọng trữ tình đó đi, Louis. Dầu sao tôi cũng hiểu chú. Và bây giờ, tới quán Edouard cụng ly để tưởng nhớ ông xếp cũ.
Buổi chiều, chúng tôi trở về nhà. Một tiếng đồng hồ sau có tiếng náo động trong nhà lão Knopf. Truyện "Bia Mộ Đen Và Bầy Diều Hâu Gãy Cánh " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Georges lên tiếng trước :
- Cầu cho người chết được an nghỉ! Thôi, mình qua bên đó chia buồn cho phải lễ.
- Chẳng biết mấy mẹ con bà Knopf đã may xong tang phục chưa?
Chúng tôi đi thẳng vào không nhận chuông. Một cảnh tượng bất ngờ hiện ra trước mắt. Lão Knopf đang đứng sừng sững giữa nhà gậy trong tay, áo quần ra phố. Bà và ba cô con gái thì núp sau các máy may.
Giận dữ, lão Knopf vừa múa gậy vừa chửi rủa, một tay vịn vào cỗ máy để giữ thăng bằng. Đường gậy của lão không có gì đáng sợ nhưng lão vẫn múa hết mình. Những bộ đồ tang nằm rải rác trên nên nhà.
Tình trạng đã rõ ràng. Thay vì giết chết, rượu lại càng làm cho lão mạnh dạn thêm nên lão mặc đồ vào để đánh một vòng qua các quán rượu trong thành phố như thường lệ. Không một ai báo cho biết là lão đang ở trong tình trạng lâm tử cả, bà vợ thì sợ lão trả thù nên lặng thinh luôn.
Lão đã vượt qua hơn một lần tình trang nguy hiểm đó, đối với lão lần sau cùng chẳng có gì thảm hại hơn bao nhiêu lần trước. Cơn giận của lão không phải là không hợp lý, một gia trưởng có bao giờ để mặc cho vợ con tự nhiên tế sống mình, đã vậy còn tốn tiền để mua sắm đồ tang trong khi lão chưa lạnh cứng.
Lão gầm thét :
- Đồ thúi! Vừa lòng lắm hả? Đập vỡ mặt bọn này ra.
Lão đập hụt bà vợ và thở phì phò giận dữ. Bà Knopf cuống cuồng quơ tay nắm trúng đầu gậy và giữ chặt :
- Ông ơi, mẹ con tôi chỉ lo chuyện phòng xa thôi. Đâu có dám nghĩ quấy, ông bác sĩ...
- Bác sĩ cái con... Buông gậy tao ra, đồ quỷ cái. Tao bảo buồng gậy ra có nghe không?
Người đàn bà mập tròn, nhỏ thó, buông tay. Được tụ đo, lão lại múa loạn lên và đập trúng một trong ba cô gái. Cả ba cô, bất cử cô nào cũng có thể đoạt cây gậy dễ dàng nhưng không một ai dám. Hết cô này tới cô kia chụp lấy đầu gậy vừa khóc vừa giải thích. Nhưng ông cha nhứt định chẳng chịu nghe :
- Buông ra, lũ chồn hôi! Ném tiền qua cửa sổ, tao sẽ cho bọn mày biết tay.
Lại được tự do, lão múa loan lên rồi đập mạnh xuống. Chiếc gậy chằng trúng vào ai, cũng không đụng phải vật gì khiến lão mất thăng bằng, quỵ xuống. Bọt miẽệng sùi ra hai bên mép, dính vào râu. Lão lại gượng đựng lên múa gậy.
Các cô gái vừa khóc vừa van lạy :
- Ba ơ, đừng cử động nhiều. Ba làm như vậy là...
- Bình tĩnh lại, ba! Ba sống là tụi con mừng lắm. Truyện "Bia Mộ Đen Và Bầy Diều Hâu Gãy Cánh " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
- Ba! Ba có muốn uống cà phê không?
Lão dừng tay, trố mắt :
- Cà-phê hả? Cà-phê cái con mẹ mày, đồ thúi tha! Tao đập nát tụi mày ra! Ném tiền qua cửa sổ...
- Không sao đâu ba. Tụi con còn bán lại được mà.
- Bán. Bán cái gì? Có tao đem tụi mày đi bán... đồ xác chết sình...
- Chưa trả tiền vải mà ông.
Bà Knopf phải cố gắng lắm mới dám nói chen vào. Không ngờ đó lại chính là câu nói giá trị nhứt.
Lão Knopf hạ gậy xuống :
- Nói sao?
Chúng tôi can thiệp. Georges mở lời :
- Ông Knopf, thành thật mừng ông sớm lành bệnh.
Lão nhăn mặt :
- Đừng làm tôi mắc ỉa. Bộ mấy người không thấy gia đình đang có chuyện lộn xộn hả?
- Xin ông đừng cử động mạnh, có hại cho sức khỏe.
- Hả? Mấy người cũng lo cho thằng già này nữa à? Chỉ nội mấy con quỷ cái này cũng đủ chết ngộp này.
- Không đâu. Bà Knopf chẳng những không hoang phí mà còn làm được một việc hay ho. Ngày mai, nếu đem bán lại tất cả tang phục đó đi, gia đình ông sẽ lời vào khoảng vài tỷ nhờ lạm phát... nhứt là chưa trả trước tiền vải.
Cả bốn mẹ con đều đồng thanh kêu lên :
- Đúng là chưa trả tiền vải.
- Vậy là nên mừng mới phải, ông Knopf. Trong khi ông bất an, đồng Mỹ kim đã leo mau vùn vụt. Vậy là không cần biết gì cả chỉ nhắm mất ngủ, ông cũng đã có một gia tài nho nhỏ.
Lão thượng sĩ vểnh tai. Nạn lạm phát, dầu không để ý lão cũng đã biết tới qua sự kiện giá rượu tăng đều mỗi ngày.
Lão ấp úng :
- Lời hả? Mấy người nói đúng không?
Rồi quay sang bốn con chim sẽ đang run rẩy, lạo hõi :
- Có mụa mộ bia chưa?
- Dạ chưa.
- Tại sao không?
Tất cả nhìn sững lão ta.
- Ngu như bò. Phải mua rồi, bây giờ bán lại...
Lão quay sang Georges :
- Chắc chắn là có lời, phải không?
- Lời là cái chắc, nhưng với điều kiện là đã trả tiền rồi. Nếu không, chúng tôi chỉ có mỗi một việc là lấy lại.
- Này, không được đâu. Chúng tôi có thể bán nó lại cho hãng Hollmann và Klotz và sau đó thanh toán cho mấy người.
Và lão trừng mắt với vợ con :
- Ngu như bò! Tiền để làm gì? Không trả tiền vải thì còn đó sao lại không chịu mua?
Georges bảo tôi :
- Xong rồi. Kể như đã hạ màn. Mình về thôi.
Nhưng Georges đã lầm. Khoảng mười lăm phút sau, lão Knopf đã có mặt văn phòng chúng tôi, mùi rượu xông ra nòng nặc :
- Các người đừng chơi cha. Tôi đã điều tra cặn kẽ rồi, nói láo cũng vô ích. Mụ già đó thì thú nhận đã có đặt mua một tấm bia.
- Nhưng chưa trả tiền. Bây giờ ông có cần tới nó đâu.
Lão thượng sĩ về hưu gằn từng tiếng với giọng hăm dọa :
- Đặt mua tức là đã chịu mua. Có nhân chứng đàng hoàng. Đừng tìm cách nói quanh, có hay không?
Georges nhìn tôi :
- Nhưng vợ ông chỉ mới hỏi giá chớ đâu phải đã mua.
Lão quát lớn :
- Có hay không?
Georges cố làm dịu cơn quỷ ám của lão già say :
- Ông Knopf, chúng mình đã quen biết nhau từ lâu thì chuyện gì hợp lý là phải chấp nhận.
- Được rồi. Đưa hóa đơn cho tôi.
Chúng tôi nhìn nhau. Không ngờ lão ta mau hiểu đến thế.
- Cần gì giấy tờ. Cứ trả tiền là có tấm bia ngay.
Lão trợn mắt với tôi :
- Câm miệng, đồ lõi con. Đưa hóa đơn đây!
- Thì cứ trả tám tỷ ra.
- Hả? Các người nói gì? Tám tỷ một cục đá?
- Tám tỷ là tám tỷ. Trả tiền mặt.
Knopf cự rất hung hăng cuối cùng đành nhượng bộ. Lão trở về nhà, moi tiền vợ đem qua. Nhịp ngón tay trỏ lên mặt bàn, lão gầm gừ :
- Xong rồi, làm giấy đi.
Lão nhận lấy hóa đơn. Từ cửa sổ nhìn ra tôi thấy bốn mẹ con bà Knopf chùm nhum trước cửa nhà. dáng điệu buồn rầu. Lão đã tước đoạt của họ đến đồng bạc cuối cùng.
Lão hất hàm nói với Georges :
- Bây giờ tôi bán lại. Mua bao nhiêu?
- Tám tỷ.
Lão nhảy dựng lên :
- Sao? Lường gạt hả? Tôi mới vừa trả tám tỷ cho giá cũ. Lạm phát đã qua một ngày mà mấy người vẫn giữ đứng giá được à?
- Chúng tôi biết lắm. Theo thời giá thì tấm bia dó phải là tám tỷ rưỡi. Chúng tôi trả tám tỷ là giá mua, như vậy còn lại năm trăm triệu là tièn lời trên giá bán.
- Đừng bịp bơm! Vậy phần tôi, tiền lời của tôi đâu? Nằm trong túi mấy người, phải không?
Tôi chen vào :
- Ông Knopf, nếu ông mua một chiếc xe đạp rồi một giờ sau ông đem bán lại, ông sẽ không bao giở lấy đúng giá bán. Đó là chuyện buôn bán vặt. Nhờ vậy mà chúng tôi mới có huê lợi.
- Huê lợi, cái đít đây nè. Mua xe đạp là xe đạp cũ còn tấm bia của tôi là tấm bia hoàn toàn mới.
Tôi lại xía mỏ vào :
- Trên lý thuyết thì tấm bia đó đã được dùng rồi, nhứt là về mặt thương mãi. Vả lại, chẳng lẽ ông bắt chúng tôi phải mất tiền túi chỉ vì ông vẫn còn sống?
- Gian lận! Đúng là gian lận!
Georges vẫn từ tốn :
- Ông cứ giữ lấy tấm bia, có sao đâu. Ít ra đó cũng là một thứ của nổi. Vả lại rồi cũng sẽ có những ngày ông cần tới. Có ai bất tử đâu, dầu người đó là một thượng sĩ.
- Được rồi, tôi sẽ bán nó lại cho hãng Hollmann và Klotz. Nếu các người không chịu trả ngay mười tỷ.
Tôi nhấc ổng điện thoại lên :
- Xin mời. Ông cứ thương lượng trực tiếp với họ, không cần trung gian. Gọi số 624.
Thấy tôi hăm hở, lão Knopf mất tự tin và lắc đầu :
- Bọn du đãng! Ngày mai, giá một tấm bia sẽ là bao nhiêu?
- Có thể tăng thêm một tỷ, cũng có thể hai hay ba.
- Và trong một tuần.
Georges hơi khó chịu :
- Ông Knopf, nếu chúng tôi biết trước giá của đô-la thì còn ở đây bán mấy cục đá này làm gì, nhứt là những khách hàng quá tồi tệ cùng một loại với ông.
Tôi chọc tức :
- Không chừng chỉ trong một tháng ông trở thành tỷ tỷ phú.
Knopf suy nghĩ một lúc lâu truớc khi càu nhàu :
- Mẹ nó! Mình cứ giữ lại. Tiếc là đã trả tiền rồi.
- Chúng tôi vẫn sẵn sàng mua lại.
- Mua lại à? Ngon quá! Tôi giữ để lấy lời.
Lão nhìn ra ngoài và lẩm bẩm :
- Chẳng biết trời mưa có sao không?
- Bia đá luôn luôn chịu đựng nổi mọi thời tiết.
- Láo khoét! Không hư thì cũng cũ đi. Tôi yêu cầu cất nó trong kho, nhớ lót rơm ở dưới.
Georges hỏi :
- Tại sao không giữ trong nhà ông để tránh tuyết giá?
- Anh có điên không?
- Không bao giờ. Vô số người có danh vọng và địa vị vẫn để sẵn một quan tài trong nhà. Đó là những người mộ đạo và những người Ý miền Nam. Lại còn nhiều kẻ ngủ cả trong hòm như anh chàng Wilke chẳng hạn.
- Không thể được. Còn mấy người đàn bà. Phải để nó ở đây. Các người phải chịu trách nhiệm nếu làm hư. Nếu sợ thì xuất liền túi ra bảo hiểm.
Không chịu nổi cái giọng chỉ huy đó, tôi trả đũa ngay :
- Đề nghị ông mỗi sáng qua đây xem lại. Có vậy ông mới nhìn thấyy tận mắt là hòn đá của ông vẫn còn so hàng với mấy tấm bia khác, vẫn còn bóng láng với các bệ hót vào như bụng một tân binh và tất cả những cây con quanh đó đều đứng nghiêm. Nếu muốn, ông có thể đòi hỏi Henri Kroll mặc quân phục vào rồi thổi kèn gọi nó tập họp? Chắc là Henri khoái lắm!
Lão lườm tôi :
- Thế giới sẽ sáng sủa hơn nếu có được một chút kỷ luật của nước Phổ.
Mùi rựợu từ người lão xông ra nồng nặc sau một tiếng ợ khan. Có lẽ suốt ngày lão chưa ăn. Lão lại ợ thêm một cái nữa. Lần này âm thanh nghe êm dịu và kéo dài. Tiếng ợ thứ nhứt chỉ là cái hốc của kẻ ghiền rượu. Và cái ợ thứ hai rõ ràng là sự khiêu khích của một người cục mịch tự biết không ai thèm dây dưa tới.
Với lão, không thể nào giận được. Không thể nào giận một kẻ vừa từ bên kia thế giởi trở về! Lão vẫn còn nhìn chúng tôi với đôi mắt khắc nghiệt và sộp nước vì thiếu ngủ quá lâu. Lão quay người, suýt té, gượng lại rồi băng qua sân. Trong túi, ít ra lão cũng còn được vài tỷ bạc cuối cùng của gia đình.
Chân mang dép, vai vắt khăn bếp. Gerda đang đứng trước bếp nấu dầu làm món cải su nhồi thịt. Không khí loáng thoáng mùi mỡ heo, bột gạo và hương ướp. Bên ngoài khung cửa sổ, là nho rừng đỏ úa với ánh nắng Thu.
- Anh đến phải lúc lắm. Sáng mai tôi dọn khỏi nơi này.
- Vậy à?
Gerda vẫn thản nhiên và vô tư trước bếp lò :
- Anh cũng chú ý đến chuyện đó à?
Nàng quay lại nhìn tôi. Tôi nói mau :
- Sao lại không. Em dọn đi đâu?
- Tới nhà hàng Walhala.
Tôi kêu lên :
- Tới Edouard?
- Phải, ở với Edouard.
Gerda lật trở những món cải nhồi thịt rồi hỏi :
- Anh có cần lặp lại không?
Biết nói gì đây? Tôi cố giữ giọng bình thường :
- Và không làm ở Moulin Rouge nữa?
- Thôi làm ở Moulin Rouge khá lâu rồi. Anh có để ý gì tới đâu. Không thể được, tôi không thể theo đuổi mãi cái nghề để rồi chết đói. Tôi phải sống ở thành phố.
- Ở nhà Edouard?
- Phải, ở nhà Edouard, ông ta giao cho tôi coi sóc nhà hàng.
- Và ở luôn tại nhà hàng Walhala.
- Ở từng trên, sát với mái nhà. Tiện làm việc hơn. Tôi có còn quá trẻ như anh tưởng đâu, phải cố tìm một chỗ sống chắc chắn trước khi không tìm ra một chỗ làm. Không còn chuyện gánh xiệc nữa.
- Nhưng em vẫn có thể tái ký hợp đồng với họ vài năm nữa. Đừng kiếm chuyện.
- Anh không hiểu gì cả. Tôi biết việc gì cần phải làm.
Tôi nhìn những lá nho đỏ úa đọng đưa phía trong khung cửa sổ và bất giác tự thấy mình không hơn một tên vô lại. Đối với Gerda có lẽ tôi chẳng khác gì hơn một lên lính đi nghỉ phép.
Gerda vẫn nói với giọng đều đều :
- Tôi định chờ gặp anh để tự mình cho biết.
- Em định cho biết là chuyện của mình kể như đã hết?
Gerda lắc đầu :
- Tôi luôn luôn thẳng thắn. Edouard đề nghị giúp tôi một chỗ làm, tôi thấy đó là một chỗ xứng đáng. Tất cả cần phải rõ rệt.
Và nàng cười dòn :
- Vĩnh biệt tuổi trẻ! Thôi sửa soạn ăn. Chín rồi.
Nàng lo dọn bàn. Tôi ngồi nhìn và chợt thấy buồn :
Nàng hỏi tôi :
- Còn tình yêu thượng giới của anh ra sao? Cái cô gì mà anh đánh phong cầm cho nghe đó?
- Gerda, đứng nói nữa.
Nàng lấy món ăn ra dĩa :
- Đây là một lời khuyên, cưng nên ghi nhớ. Lần tới, nếu có găp cô nào, đừng nên nhắc tới những người tình cũ hiểu chưa?
- Hiểu. Anh khổ lắm, Gerda.
- Thôi, cho xin, đừng lải nhải nữa, ăn đi.
Vẫn bình tĩnh, Gerda lúc nào cũng nhìn thẳng vào sự việc. Nét mặt nàng rắn rỏi và trong sáng. Từ nhỏ đã phải sống một thân một mình nên Gerda đã hiểu rõ thế nào là định mệnh và sẵn sàng xoay trở cho phù hợp. Nàng có tất cả những gì tôi không có và tôi muốn yêu nàng
- Anh đã biết là tánh tôi chẳng bao giờ đòi hỏi thái qua. Người ta đã nuôi tôi lớn bằng gậy gộc, kế đó tôi phải trốn đi, bây giờ đã quá chán cái nghề nhào lộn rồi tôi thích được ở yên một chỗ. Edouard cũng không phải là người quá tệ.
- Nhưng hắn kiêu căng và hà tiện.
Vừa nói xong tôi biết là đã lỡ lời.
- Con hơn là xốc xếch lôi thôi lại thích xài tiền mà cứ muốn có vợ con.
- Em định thành hôn với hắn à? Còn tin cậy hắn thật sự chưa? Coi chừng hắn lợi dụng đến lúc nhừ cả rồi, hắn đi cưới một cô gái khác có của hồi môn to lớn.
- Ông ta không hứa gì với tôi cả. Tôi chỉ ký hơp đồng trong coi nhà hàng, thế thôi. Một hợp đồng ba năm. Trong ba năm, ông ta có đủ thì giờ để hiểu là không thể thiếu tôi được nữa.
- Em đã thay đổi quá nhiều.
- Vậy sao? Vẫn cứ ngớ ngẩn! Đây chỉ là một quyết định chứ có gì khác đâu.
- Tới lúc về tới Edouard, chắc em sẽ cho là anh và Georges đang cố làm tàn mạt hắn với mấy cái phiếu khẩu phần mất giá.
- Bộ còn nhiều lắm sao?
- Khoảng một tháng rưỡi nữa.
Gerda cười lớn :
- Tôi không chống báng đâu, tin đi. Dầu sao các anh cũng đã mua đúng với giá tiền lúc đó.
- Đó là vố chứng khoán thành công duy nhứt của anh và Georges.
Tôi nhìn Gerda ở phía sau trong khi nàng lấy dĩa đi.
- Anh sẽ giao hết mấy phiếu còn lại cho Georges. Không tới Walhala nữa.
Nàng xoay người lại, mỉm cười, nhưng ánh mắt không cười :
- Tại sao?
- Không biết, mới có ý nghĩ đó. Có thể sẽ trở lại vào một ngày...
- Chắc chắn là anh sẽ trở lại đó. Tại sao không?
- Chắc vậy, tại sao không?
Từ từng dưới tiếng dương cầm vang lên inh ỏi. Tôi ra đứng ở cửa sổ :
- Lại gần hết năm rồi, mau quá.
Gerda tới gần tôi :
- Mau thật... nhưng có điểm này, nói ra thì rõ là cổ điển “tôi rất thích anh, nhưng anh lại không thích hợp với tôi”.
Và nàng đẩy tôi ra :
- Thôi, về đi. Trở về với mối tình thượng giới của anh đi. Anh. Không bao giờ anh hiểu nổi đàn bà, có phải không?
- Chẳng hiểu gì cả.
Nàng mỉm cười :
- Khoan, chờ chút. Đây rồi, cầm lấy và đi đi!
Nàng trao tôi một cái huy chương. Tôi hơi ngạc nhiên :
- Cái gì đây?
- Huy chương của một người từng giúp những kẻ khác vượt nước. Đây là vật đem tới hạnh phúc.
- Nó đã đem hạnh phúc tới cho em chưa?
- Ồ! Nhiều lắm, hàng khối hạnh phúc. Thôi, cút đi!
Nàng đẩy tôi ra và khóa cửa lại. Tôi lững thững xuống lầu. Hai người đàn bà du mục đi về phía tôi ở ngoài sân.
Mấy tay nữ đô vật đã về từ lâu. Người đàn bà trẻ nhứt lên tiếng :
- Bói tương lai, thưa ông?
- Không, cám ơn.
Và tôi bỏ đi mau
Không khí có vẻ căng thẳng tại nhà Karl Brill. Giấy bạc chất cao trên mặt bàn. Ít lắm cũng là hàng ngàn tỷ Đức kim. Đối thủ là một anh chàng đầu hải cau và hai bàn tay quá nhỏ. Hắn vừa tới soát lại cây đinh và trở về chỗ.
Hắn cất giong oang oang :
- Thêm hai trăm tỷ!
Karl đáp ngay :
- Bắt!
Hai người cùng đặt tiền ra :
- Còn ai đánh nữa không?
Không ai trả lời. Tiền cuộc quá cao, chẳng ai theo nổi. Karl đổ mồ hôi hột nhưng hoàn toàn tự tin. Ông ta bắt bốn ăn sáu vì vừa mới nhận cho anh chàng đóng thêm một búa nữa vào đinh. Thế là từ năm ăn năm đổi ra bốn ăn sáu.
Karl hỏi tôi :
- Bạn vui lòng đánh giúp bản “Dạ khúc chim non” được không?
Tôi ngồi vào dương cầm. Bà Beckmann xuất hiện với chiếc kimono đỏ ánh. Dường như người nữ lực sĩ đã mất bớt dáng vẻ uy nghi. Hai ngon đồi trên ngực rung rung như bị động đất. Màu mắt cũng thay đổi. Bà không nhìn về phía Karl như thường lệ.
Karl lên tiếng :
- Clara, em biết quý vị ở đây rồi chứ, có cả người khách mới là ông Schweitzer - Và đưa một tay về phía anh chàng hải cẩu, ông ta giới thiệu - Đây, ông Schweitzer...
Con hải cẩu vừa liếc nhìn đống bạc với ít chút lo âu vừa nghiêng mình chào đáp lễ.
Cây đinh đã được quấn bông gòn và Clara đã tới đứng vào vị trí. Tôi nhấn phím tạo thành một hồi trống rồi ngưng bặt. Tất cả đều im lặng.
Bà Beckmann đang vận sức. Tôi thấy bà rùng mình tới hai lần. Thình lình, bà ta quắc mắt nhìn Karl và nghiến răng :
- Rất tiếc! Không thể được.
Không nhìn bất cứ ai, bà ta rời chỗ và đi thẳng lên lầu.
Karl cuống cuồng gọi to :
- Clara?
Không có tiếng trả lời. Gã hải cẩu cười hô hố, chuẩn bị hốt bạc, Karl Brill ướt như tắm. Ông ta chạy lại xem cây đinh rồi trở về chỗ.
- Khoan! Chưa kết cuộc mà. Mình đánh cá ba lần. Mới có hai.
- Xin lỗi, ba lần rồi.
Ông bạn không rõ đâu. Ông chưa hiểu rõ lãnh vực này đâu. Ông Schweizer. Mới có hai lần thôi.
Những người cùng phe với người chủ hiệu giày tới bây giờ mới phụ họa :
- Đúng vậy, mới có hai lần.
Một cuộc cãi vã bùng nổ. Tôi quay đầu sang hướng khác, chẳng buồn nghe. Tôi có cảm tưởng như đang bềnh bồng trên một hành tinh xa lạ. Đây là một thứ cảm giác ngắn ngủi, nóng sốt, kinh hoàng. Do đó tôi thấy dễ chịu khi trở về với thực tại là những tiếng ồn ào.
Anh chàng hải cẩu lợi dụng sự bối rối của Karl đưa ra thỏa hiệp: chấp nhận làm lại lần nữa với điều kiện bắt ba ăn bảy.
Tháo mồ hôi hột, Karl chấp nhận tất cả. Theo sư phỏng tính của tôi thì ông ta đã đổ vào cuộc chơi này nửa xưởng giầy kể cả cái máy ghép đế.
Karl bảo nhỏ tôi :
- Lên trên đó với tôi. Nó quá quắt lắm rồi. Phải làm cho nó thay đổi ý kiến.
Chúng tôi bước từng bốn bực một. Bà Beckmann nằm trên giường trong chiếc kimono thêu phượng, trông đẹp lộng lẫy nhứt là với những ai thích hạng phụ nữ phốp pháp.
Karl năn nỉ :
- Clara, sao vậy? Em làm vậy coi sao được?
- Nè, khéo ăn, khéo nói một chút!
- Anh biết mà, anh thề là...
- Thề thốt cái g, đồ khốn, tao biết mày ngủ với con nhỏ thâu ngân ở khách sạn Hohenzollern từ lâu rồi. đồ điếm đực!
- Anh à? Sao có chuyện đó! Ai nói?
- Đó, mày mới vừa tự thú nhận còn hỏi gì nữa?
- Thú nhận gì đâu?
- Không có gì hả? Chính mày mới hỏi tao ai nói. Làm sao tao biết được nếu chuyện không có thật?
Tôi bỗng thấy thương hại cho nhà lực sĩ bơi lội Karl Brill. Ông la không sợ khi đập vỡ tuyết ra để chui vào đó cùng tắm với hội bơi lội của ông ta, nhưng bây giờ thì khác hẳn. Lúc lên lầu tôi đã khuyên ông ta cố mềm dẻo, đừng nói nhiều mà chỉ quỳ xuống xin lỗi, nhưng đứng thú nhận gì cả.
Nhưng bây giờ, tình hình bỗng biến đổi quá mau: một quả đấm giáng trúng mũi khiến Karl lảo đảo lùi lại, hai tay ôm mặt. Rồi không tự kiềm chế được nữa, ông ta gầm lên như thú dữ, khom xuống xoắn lấy tóc bà Beckmann, lôi tuột ra khỏi giường, xô sấp xuống và một chân đạp vào gáy, một tay dùng dây nịt da quất túi bụi vào cặp mông đồ sộ của bà Beckmann.
Tôi dùng mũi giày đá nhẹ vào đít Karl. Ông ta quay phắt lại, toan nhảy sổ vào tôi, nhưng bắt gặp ánh mắt nhắc nhở của tôi, với hai tay đưa lên trời, với những lời nói nhỏ, cơn giận giết người của ông ta tan biến mất.
Karl gật đầu, máu mũi đổ ròng ròng, quay người lại rồi ngồi xệp xuống giường :
- Clara, anh thề là anh chẳng có gì cả, nhưng anh vẫn xin lỗi em.
- Quân bẩn thỉu! Cái áo của tao!
Bà ta kéo vạt áo lên, máu mũi của Karl rơi trên vải trải giường. Karl, con người giản dị và trung tín, tưởng rằng hễ đã chịu quỳ là xong chuyện, bây giờ vẫn cứ còn chửi nên đã bắt đầu nóng lại. Nếu một trận nữa xảy ra thì kể như hết cứu vãn.
Tôi vừa đạp vào ngón chân ông ta vừa rống to :
- Bà Beckmann, xin nghe đây, tôi thề chịu đứt đầu ông Karl không lỗi lầm gì cả. Chính tôi mới là kẻ phạm tội, ông nhà là vật hy sinh.
- Hả? Cái gì?
- Lỗi tại tôi, hoàn cảnh do tôi. Ông Karl và tôi từng ở chung đơn vị trong thời chiến. Anh em giúp nhau, tình chiến hữu...
Bà Beckmann cắt ngang :
- Sao? À, các người viện tới tình chiến hữu thiêng liêng hả, đồ láo khoét. Cậu muốn tôi phải tin một chuyện tầm phào như thế à?
Tôi vẫn ong óng :
- Bà không biết bọn đàn ông đã từng sống chết bên nhau đâu. Chính ông Karl đã hy sinh cho tôi, thật một trăm phần trăm, ông Karl đã vì tôi, đã liên lạc với cô ta, cô thư ký thu ngân.
Bà Beckmann chống tay ngồi dậy, mất bà như đổ lửa :
- Không đúng, không thể được. Còn quả trẻ như cậu không thể nào có chuyện tình ái lăng nhăng với một con gấu ngựa cỡ đó được. Đúng là một loại bè đi biển.
- Bà Beckmann, bà không hiểu được đâu. Người sắp chết đuối có bao giờ lựa chọn thuyền bè. Sự cô đơn của tuổi trẻ mà.
Bà Beckmann lắc đầu :
- Không được, còn trẻ thế này không bao giờ đi tìm một con chằng như thế cả.
- Trẻ thì tôi hãy còn trẻ, nhưng nghèo, thưa bà, tôi lại quá nghèo. Thời này, các cô gái tân thời cứ đòi đi phòng trà đi ca nhạc, làm sao tôi chịu nổi. Bây giờ nếu thú thật cả ra chắc bà hiểu rõ ngay. Giữa thời buổi lạm phát này, một thằng nghèo kiết xác như tôi vớ được một nữ thư ký thu ngân, dầu có xấu như chằng, dữ như gấu, cũng đã là có phước rồi. Còn ông Karl sẵn có một cơ sở làm ăn phát đạt, sẵn một người bạn đẹp như bà ông ấy có cần gì. Chỉ tội nghiệp, vì tình chiến hữu.
Bà Beckmann dịu giọng trong khi ánh lửa trong mắt bà gần như tắt lịm đi :
- Được rồi, để tôi điều tra lại.
A ha! Thế là trận chiến chẳng xảy ra. Cuộc thương nghị không nói thành lời tự nhiên đã có kết quả.
Trước khi rút xuống lầu cùng tôi, Karl hứa sẽ mua đền cho bà Beckmann một cái kimono màu tím có thêu hoa sen và thiên nga.
Trong khi ông ta lau rửa mặt mũi, bà Beckmann đứng lên, hỏi tôi :
- Tiền đánh cuộc tất cả là bao nhiêu?
- Không thể tưởng tượng nổi. Hằng triệu tỷ.
Bà Beckmann nhìn Karl :
- Karl! Đánh cho cậu Bodmer hai trăm năm mươi tỷ!
- Được rồi. Clara. Louis với anh là chiến hữu mà.
Chúng tôi xuống lầu. Anh chàng đầu hải cẩu ngồi đợi, chung quanh là người của Karl, sẵn sàng can thiệp nếu hắn có ý định bỏ đi.
Vừa xuống tới chỗ, chúng tôi được hắn báo cáo ngay là hắn toan chơi lận nhưng đồng bọn của Karl đã kịp thời giựt búa lại. Thế là cây đinh vẫn như cũ.
Bà Beckmann mỉm cười khinh bỉ khi bước tới chỗ cây đinh, và không đầy ba mươi giây sau đó, cây đinh đã rơi xuống đất. Đầu ngẩng cao, bà ta oai vệ rời khỏi xưởng trong khi tôi đánh bản “Cháy lớn trong dãy núi Alpes”.
Khi mọi người đã ra về, Karl nói với tôi bằng giọng cảm động chưa từng có :
- Một chiến hữu là một chiến hữu. Không gì hơn được.
Tôi không khỏi nhột nhạt :
- Thôi, bỏ đi. Nhưng câu chuyện cô thư ký thu ngân thật sự ra sao?
- Có gì đâu. Ban đêm, con người thường có ý nghĩ rung động. Nhưng con quỷ cái đó chẳng biết giữ gìn gì cả lại đem nói toạc ra. Vây mới chết! Bây giờ bạn cần gì cứ lựa chọn theo ý muốn.
Ông ta chỉ vào một chồng da :
- Muốn loại nào, cứ chọn loại thật tốt, tôi sẽ tự tay đóng lấy cho bạn: da bò con hay da hoẳng, đen, nâu hay vàng?
- Nếu được, xin cho một đôi đánh vec-ni.
Vừa về tới nhà, tôi gặp ngay một bóng người trong sân. Lại lão Knopf đang sửa soạn tưới cái tháp đen.
Tôi chụp tay lão :
- Thượng sĩ, từ nay trở đi ông đã có một chỗ để xả bọng đái rồi. Hòn đá đó còn mới nguyên...
Tôi bảo lão tới tấm bia mà lão đã mua và đứng đó chờ xem.
Knopf trợn mắt :
- Cái bia này là của tôi mà. Chú mày có điên không? Tới giờ này, giá bán là bao nhiêu?
- Theo hối suất bữa nay thì là chín tỷ.
- Vậy mà chú mày bảo tôi đái vào. Nè, tôi giao cho giữ, phải săn sóc cho cẩn thận.
Lão đảo mắt vài lượt từ phải sang trái, rồi khập khểnh đi về nhà. Không ngờ tinh thần tư hữu lại có thể biến cải con người mau đến thế. Từ nay trở đi chắc chắn lão chỉ tiểu tiện ở phòng vệ sinh trong nhà lão. Đừng ai nói với tôi về chủ nghĩa tập thể nữa. Quyền tư hữu giúp cho con người ý thức được trật tự. Tôi đứng lại ở ngưỡng cửa thêm một lúc để nghĩ tới sự huyền bí của thiên nhiên: vi trùng, cá, ếch nhái loài có xương sống... biết bao nhiêu biến thể để kết thành một sinh vật hữu nhũ và đứng thẳng mang tên Knopf... chỉ biết sống để nốc cạn những chai rượu mạnh.
Tôi lên phòng, mở đèn và tới đứng trước gương. Đối diện tôi là một kỳ quan khác nữa của thiên nhiên nhưng chẳng có giá trị bao nhiêu. Tôi tắt đèn, tôi chỉ thích thay đồ trong bóng tối.
29.07.2014
23
Người dịch: Vũ Kim Thư
Nguồn: NXB Văn Nghệ TPHCM
Nội dung thu gọn
Trên lối đi vương vãi lá vàng khô, một thiếu nữ tiến về phía tôi. Lúc nãy tôi thấy nàng đi bên cạnh.
Nàng mặc áo cánh màu xám lợt, hoàn toàn vừa vặn, đâu đội nón nỉ, chân mang giầy da hoẳng. Tên nàng là Geneviève Terhoven nhưng nàng đã hoàn toàn xa lạ đối với tôi.
Sau thánh lễ, tôi đi thơ thẩn trong vườn không một chút hy vọng, và bây giờ nàng - Isabelle - đang đi về phía tôi. Tôi dừng bước. Nàng đã tới, mảnh khảnh và thanh thoát. Đột nhiên, quá khứ như siết nghẹt cổ họng tọi. Không thể nói được một lời.
Dầu Wernicke không báo trước là Isabelle đã hoàn bình phục tôi cũng có thể đoán ra qua sự khác lạ ở nàng. Đầu óc tôi bỗng quay cuồng, máu như dồn cả lên tiểu não, tay chân như tê liệt. Tôi gọi nhỏ :
- Isabelle!
- Tôi à?
Nàng hỏi với một nếp nhăn trên trán.
Tôi bỡ ngỡ. Có lẽ chỉ cần nhắc lại một đôi câu, nàng sẽ nhớ ra.
- Isabelle! Cô không nhận ra tôi sao? Rudopf đây.
- Rudopf? Rudopf...ông nói gì, xin lỗi.
Tôi hoàn toàn lạc hướng :
- Chúng mình đã từng nói chuyện với nhau, đã quen nhau, cô không còn nhớ ra sao?
Nàng gật đầu :
- Vâng, tôi đã ở đây cũng khá láu, nhưng xin lỗi, tôi quên mất phần lớn những gì đã xảy ra. Còn ông, chắc ông cũng ở đây lâu lắm rồi, phải không?
- Tôi à? Không đâu... tôi đến để đánh phong cầm...
Geneviève tỏ ra lịch sự :
- Phong cầm à, phải rồi! Ông đàn trong tiểu giáo đường. Tôi nhớ ra rồi. Xin lỗi, tôi hay quên quá. Ông đàn hay lắm.
Tôi đứng đó như một gã ngu đần, tự hỏi sao chưa chịu bỏ đi. Dường như Geneviève cũng đang đặt một câu hỏi tương tự .
Nàng bỗng lên tiếng :
- Xin lỗi ông, tôi còn nhiều việc phải làm. Tôi sắp rời khỏi nơi đây.
- Cô sắp đi?
Nàng ngạc nhiên không hiểu sao tôi hỏi thế nhưng vẫn đáp :
- Vâng.
- Và cô chẳng còn nhớ gì cả?... Những danh tánh rớt vào trời đêm, những bông hoa biết nói?
Isabelle không hiểu gì cả. Nàng cười :
- A! Một bài thơ, phải không? Tôi rất thích thơ nhưng nhiều quá làm sao nhớ hết?
Tôi đành thua cuộc. Nàng đã hoàn toàn bình phục và tôi đã đi ra khỏi trí nhớ của nàng giống như một tờ báo trên tay lão nhà quê ngã gục rơi vào đống lửa.
Nàng đã quên tất cả rồi, như một người bị đánh thuốc mê vừa tỉnh dậy. Geneviève Terhoven không còn nhớ tới Isabelle. Tôi biết là nàng không dối gạt. Tôi đã mất nàng rồi, không phải như điều tôi lo sợ, bởi vì nàng đã thoát vuột từ một thành phàn không giống với giới của tôi và bây giờ nàng lại quay về đó. Không, sự mất mát theo quan niệm của tôi không phải thế. Đây là một sự mất mát nghiêm trọng nhất, sâu đậm nhất, không còn cách nào tìm lại được. Đối với tôi, Isabelle đã chết.
Nàng đã chết nhưng xác thân nàng còn thở, còn xinh đẹp. Nhưng thật ra Isabelle đã chết rồi. Isabelle đã tự trầm trong thân xác của Geneviève Terhoven đã trở thành hiện thân của một thiếu nữ, con nhà gia giáo, một phần tử của xã hội thượng lưu... và một ngày kia người thiếu nữ đó kết hôn và trở thành một người vợ hiền, sanh con đẻ cái...
- Xin lỗi, tôi phải đi. Một lần nữa xin cám ơn về những tiếng đàn phong cầm.
Wernicke hỏi tôi :
- Cậu thấy thế nào?
- Về chuyện gì?
- Đừng giả ngu. Cậu biết là tôi muốn nói về cô Terhoven. Dù sao cậu cũng đã giúp tôi được việc. Luôn ba tuần không gặp cậu cô ấy đã hoàn toàn bình phục. Thành công trọn vẹn?
- Ông cho đó là một thành công?
- Chớ gọi là gì nữa? Cô ấy đã trở lại đời sống bình thường và trở về với gia đình, thời gian sống ở đây đã bị quên khuấy, như một cơn ác mộng. Cô ấy đã trở thành một con người, cậu còn muốn gì hơn? Cậu mới vừa gặp đó. Thế nào?
Tôi lặp lại :
- Thế nào?
Một nữ tu sĩ má hồng như thôn nữ mang vào một chai rượu chát và mấy cái ly.
Tôi hỏi dò :
- Đêm nay có được hân hạnh tiếp đón giáo sĩ tôn kính Bodendick không? Không biết cô Terhoven có phải là tín đồ Thiên Chúa giáo chăng, nhưng cô ta ở vùng Alsace thì chắc đúng. Trong trường hợp đó, Ngài giáo sĩ chắc phải vô cùng hân hoan vì đã đem được một con chiên trở về bầy, một con chiên lạc, nếu muốn sát nghĩa hơn. Truyện "Bia Mộ Đen Và Bầy Diều Hâu Gãy Cánh " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Wernicke cười nửa miệng :
- Ngài tu viện trưởng đã bày tỏ sự hân hoan, cả tuần nay, cô Terhoven mỗi ngày đều có dự thánh lễ.
Isabelle! Isabelle dự thánh lễ! Nàng đã từng nói Chúa bị họ đóng đinh và những kẻ đã làm cho Chúa đổ máu không phải chỉ là những kẻ vô thần. Nàng từng bày tỏ sự gớm ghiếc đó với những kẻ lấy sự đau khổ đó của Chúa để làm niềm an ủi cho mình.
Tôi tiếp tục tìm hiểu :
- Chẳng biết cô ta có xưng tội chưa?
- Tôi không rõ nhưng chắc là đã có. Đúng ra thì cô ấy phải thú nhận tất cả những gì đã làm trong thời kỳ loạn trí nhưng làm thế nào để nhớ được? Kể cũng thích thú đối với một người theo Tân giáo như tôi.
Tôi nhìn ông thầy giũa óc đang uống cạn ly rượu chát :
- Làm thế nào xưng tội được khi mà chỉ trong đầu hôm sớm mai cô ta đã quên bặt quá khứ?
Wernicke rót rượu ra ly :
- Uống đi kẻo vị giáo sĩ tôn kính của chúng ta tới bây giờ. Khói hương cũng là một mùi vị thiêng liêng nhưng chỉ sợ nó làm mất mùi vị rượu chát của mình.
Ông ta uống một ngụm rồi đảo mắt :
- Quên tất cả? Không phải như vậy đâu, không phải đột ngột như thế đâu. Trước đó có những dấu báo hiệu.
Ông ta nói đúng. Tôi đã nhận thấy điều đó ở Isabelle một vài hôm thình lình gặp nhau, nàng không nhận ra tôi. Chợt nhớ tới đêm gặp gỡ cuối cùng, tôi chụp vội ly rượu uống cạn một hơi. Loại Château Reinhardt sao đêm nay lại lạt như nước máy.
Wernicke tỏ ra khoan khoái :
- Tất cả đều đúng như dự định. Cậu có thể chứng kiến việc đó ngay hôm nay. Chút nữa mẹ con cô ấy tới đây dũng điểm tâm.
Tôi muốn bỏ đi ngay nhưng có một cái gì giữ chặt tại chỗ. Một khi có cơ hội làm đau khổ chính mình, con người ít chịu bỏ qua.
Bodendick vào tới và nhìn tôi bằng ánh mắt bao dung. Rồi đến lượt mẹ con cô Terhoven. Một cuộc đàm thoại nhạt nhẽo bắt đầu. Bà mẹ, sắc đẹp bình thường, khoảng bốn mươi lăm tuổi, thỉnh thoảng lại nói những câu vô nghĩa không biết mệt. Lúc nào bà ta cũng sẵn sàng để trả lời mà không cần suy nghĩ.
Tôi nhìn Geneviève. Đôi khi trong một thoáng, tôi chợt thấy khuôn mặt quen thuộc, khả ái, man dại và ngơ ngác của Isabelle, nhưng hình ảnh thân yêu đó tan biến rất mau vào câu chuyện đang pha loãng, đề cập mọi vấn đề nhưng chẳng có vấn đề nào ra hồn cả.
Ngôn ngữ kỳ lạ và huyền bí của Isabelle đâu rồi? Một cơn thủy triều đã xóa chúng mất đi. Bây giờ cũng từ cái miệng xinh xinh đó lại nói ra những lời hoàn toàn khác biệt. Tôi đứng lên :
- Vĩnh biệt cô Terhoven. Theo tôi biết, có phải cô đi trong tuần này không?
Nàng gật đầu. Wernicke hỏi tôi :
- Đêm nay cậu không tới à?
- Có chớ.
- Chúng tôi đợi cậu. Sẽ có một bữa tiệc nhỏ do tôi đãi. Có phải thế không, thưa bà?
Bà mẹ Isabelle trả lời :
- Rất sẵn sàng.
Buổi tối còn thảm hại hơn buổi sáng. Tôi nhìn thấy Isabelle trong giờ hành lễ. Ánh nến mơ hồ chập chờn trên tóc nàng, nàng đứng đó gần như bất động. Những tiếng phong cầm đầu tiên vừa nổi lên, tất cả những người loạn trí đều quay đầu về phía tôi. Riêng Isabelle thì cầu nguyện. Không còn nghi ngờ gì nữa, nàng đã hoàn toàn bình phục.
Sau đó tất cả lại càng tệ hại hơn. Tôi và Geneviève cùng đi một đoạn đường lúc ra sân. Tôi không biết phải nói gì trong khi Geneviève vừa siết chặt áo choàng vừa nói bâng quơ :
- Trời lạnh quá!
- Vâng, trời lạnh lắm. Cô đi trong tuần này à?
- Chắc là vậy. Lâu lắm rồi, tôi chưa về nhà.
- Chắc hài lòng lắm?
- Cố nhiên.
Hết rồi, chúng tôi chẳng còn gì để nói với nhau. Dầu vậy, tôi cũng nhận ra được chút gì của người con gái tôi quen. Dáng đi không thay đổi và khuôn mặt trong tối vô cùng quen thuộc! Một tia hy vọng lóe lên. Ngay trước khi ra khỏi lối đi, tôi gọi nhỏ :
- Isabelle...
Nàng ngạc nhiên :
- Ủa!
Tôi vội nói :
- Chẳng có gì cả. Tôi chỉ gọi một tiểu danh.
Nàng dừng lại :
- Chắc ông lầm. Tiểu danh của tôi là Geneviève.
- Đúng vậy. Tôi khùng quá. Isabelle là tên của một người khác. Tôi và cô ấy đã từng quen biết khá lâu.
- Vậy à? Có thể. Người ta quen nhau, nói với nhau đủ chuyện. Và rồi lại quên đi.
- Đúng lắm.
- Hai người có thân nhau lắm không?
- Có thể gọi là biết nhau chút ít.
Nàng cười nhỏ :
- Thơ mộng quá. Xin lỗi, sao tôi lại mau quên đến thế. À, nhớ ra rồi.
Tôi nhìn nàng đăm đăm và nhận ra nàng chẳng nhớ gì. Để không khí bớt nặng nề, nàng gượng nói :
- Mấy tuần sau này, có quá nhiều chuyện dồn dập tới. Phải từ từ mới nhớ hết ra.
Và để xin lỗi, chuyện chẳng nhớ ra, nàng hỏi tôi :
- Mấy lúc sau này, ông có biết chuyện gì xảy ra không?
- Về vấn đề nào?
- Về chuyện cô Isabelle.
- À, cô ấy đã chết.
Nàng dừng sững lại, hơi hốt hoảng :
- Chết. Sao buồn vậy? Xin lỗi, tôi không biết...
- Cũng không sao. Chúng tôi chỉ tình cờ gặp nhau.
- Chết đột ngột, phải không?
- Vâng. Thật đột ngột. Chết mà không biết mình sắp chết và đang chết.
- Thật đáng buồn - Và nàng chìa tay ra - xin thành thật chia buồn với ông.
Bàn tay nàng gầy, chắc và tươi mát. Nàng không còn sốt nữa... Và đây là bàn tay của một thiếu nữ vừa lỡ bước đã gượng lại được ngay. Nàng lẩm bẩm :
- Isabelle, tên đẹp quá! Ông biết không, trước đây tôi không chịu nổi khi nghe gọi tới tên mình.
- Và bây giờ?
Nàng đáp với giọng thân hữu :
- Bây giờ thì khác hẳn.
Nàng vẫn tiếp tục tỏ ra thân hữu. Đó là lối lịch sự nhạt nhẽo của những người thành phố nhỏ giữa những người gặp nhau rồi quên ngay sau khi vừa quay lưng. Truyện "Bia Mộ Đen Và Bầy Diều Hâu Gãy Cánh " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Tôi bỗng thấy bộ quần áo nhà binh cũ được sửa thành thường phục, trở nên chật chội. Trong lúc đó, Geneviève vẫn mặc đúng thời trang. Nhưng sự sang trọng đó không bao giờ khiến tôi vừa lòng cả.
Nàng và bà mẹ quyết định tới Bá Linh trước và nghỉ ngơi ở đó vài tuần trươc khi về nhà ở vùng Alsace.
Chưa gì, mẹ nàng đã sẵn sàng cả một chương trình :
- Xem hát! Nghe hòa tấu! Trở lại những đô thị lớn bao giờ cũng như được sống lại. Hết gian hàng này tới gian hàng kia. Lại còn những cửa hiệu thời trang.
Bà vỗ nhẹ bàn tay Geneviève :
- Phải ở đó cho tới lúc chán mới thôi, phải không?
Geneviève gật đầu. Mặt Wernicke sáng rỡ. Chữa khỏi một người điên không phải là chuyện bất cứ ai cũng làm được!
Tôi bỗng thấy không chịu đựng nổi nữa và đứng lên. Wernicke nhìn tôi :
- Sao vậy? Sao cứ cựa quậy mãi như... như hối suất Mỹ kim vậy? Truyện "Bia Mộ Đen Và Bầy Diều Hâu Gãy Cánh " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Bà mẹ rướn người lên và thở dài :
- Mỹ kim! Thật là tệ hại! Cũng may là chú Gaston...
Chú Gaston thì ăn thua gì tới tôi. Tôi chợt thấy mình đang ở ngoài sân và nhớ là đã nói với Isabelle :
- Cám ơn về tất cả.
Và nàng đã sững sờ :
- Ủa! Tôi có biết gì đâu.
Tôi lững thững đi xuống đồi. Giã từ, trái tim non dại! Vĩnh viễn giã từ, Isabelle! Em không chết, anh biết là em không chết. Em chỉ biến mất đi thôi, và nó vẫn còn đó, khuôn mặt trước khi được sanh ra, đôi khi nó chường ra ở một khía cạnh khác với cuộc đời, nó làm cho mình lóa mắt trong một giây, và chúng ta không còn là chúng ta nữa.
Tôi bỗng thấy chân bước dài hơn. Hít một hơi dài, tôi bắt đầu chạy. Lúc tới cổng sắt, mình mẩy ướt đẫm mồ hôi, tôi lùi lại. Trong tôi cảm giác giải thoát dâng cao, sống và sự chết chỉ là những ngôn từ, những con ngỗng trời bay qua trên đầu tôi vẫn đã bay từ khi trái đất mới thành hình, không hề có câu hỏi, không hề có những lời giải đáp.
Vĩnh biệt, Isabelle! Anh yêu em, Isabelle? Vĩnh biệt cuộc đời. Vĩnh biệt, trái tim cuồng loạn của em!
Mãi một lúc lâu, tôi mới biết trời đã đổ mưa. Tôi đưa mặt ra hứng lấy những giọt nước và nếm ở đầu lưỡi.
Ngay lúc vượt qua cổng, tôi chợt thấy một bóng người to lớn từ trong chỗ tối đi ra, sặc sụa mùi rượu chát và khói hương, cả hai chúng tôi cùng quay ra, phía sau người gác cổng khép màn lưới sắt vào.
Bodendick hỏi :
- Từ nãy giờ ở đâu? Vẫn còn trên đường đi tìm Chúa?
- Không, tôi đã thấy Chúa rồi.
Ông ta nheo một mắt :
- Ở đâu? Trong thiên nhiên hả?
- Không rõ lắm. Có những nơi nào nhứt định để mình gặp Chúa không?
Bodendick chỉ tay về phía ngôi tiểu giáo đường bên phải chúng tôi :
- Ở bàn thờ. Đó là con đường của tôi. Còn cậu bé?
- Tôi à? Tôi thì con đường nào cũng được cả. Tất cả những con đường. Tất cả, thưa giáo sư.
Ông ta lùi lại. Tôi nghe có tiếng càu nhàu ở phía sau :
- Chẳng lẽ uống thế mà đã say.
Tôi vừa về tới nhà thì một bóng người núp sẵn ở cửa nhảy bổ vào tôi. Hắn vừa ôm siết tôi, vừa gầm gừ :
- Thằng chó đẻ, mầy chết với tao!
Tôi vùng mạnh khiến hắn văng ra, vẫn tưởng đây chỉ một trò đùa nghịch của thằng bạn nào đó. Hắn lấy lại thăng bằng rồi phóng đầu vào bụng khiến tôi ngã ngửa vào cái tháp đen. Tuy thế, trong khi té tôi vẫn kịp phản ứng bằng một đòn chân vào bụng hắn. Có lẽ cú đá không đủ mạnh nên cái bóng lại nhảy xổ vào tôi.
Lần này tôi chợt nhận ra Watzek, gã giết ngựa trong lò sát sanh. Tôi hất tay, xô dạt hắn ra :
- Làm cái gì lạ vậy? Bạn không nhận ra à?
Hắn chồm tới chụp trúng vào cuống họng tôi và nghiến răng :
- Mày là ai, hả? Tao biết là mày và nhứt định mày sẽ chết.
Có lẽ hắn say nhưng tôi không còn thì giờ để suy nghĩ nữa. Watzek nhỏ bé hơn tôi nhưng bắp thit hắn rắn chắc như bò rừng. Tôi vận dụng toàn lực ngồi được lên và ấn mạnh đầu hắn vào cái tháp đen. Mấy ngón tay hắn đã nới lỏng ra, tôi lôi hắn tới bệ đá và đập đầu hắn vào. Tới lúc đó, hắn mới chịu buông tay. Để chắc chắn hơn, tôi đánh vào cằm hắn bằng một đòn vai khiên hắn ngã sóng sượt.
Tôi vội vàng đứng lên, xô cửa và mở đèn ra.
- Sao đây? Bạn muốn gì? Có gì thì nói...
Watzek lồm cồm ngồi dậy, có lẽ còn choáng váng nên lắc đầu luôn mấy cái cho tỉnh táo. Rồi chẳng nói một lời, hắn lại lao đầu vào tôi. Tôi nhảy tránh ra, đồng thời chặn chân hắn lại làm hắn ngã sấp vào cái tháp.
Nếu là người khác thì chỉ một cái té đó cũng đủ bất tỉnh luôn. Thế nhưng nhờ có sức khỏe như voi, hắn lại gượng đứng được. Hắn từ từ xoay người lại, một con dao nhọn và dài đang nằm trong tay hắn. Hắn đã lấy con dao cài ở giầy ống ra trong lúc té sấp. Bây giờ, hắn và con dao vũng phóng lới.
Ngụy hiểm vô cùng! Với mnột kẻ chơi dao nhà nghề như hắn mà đương đầu lại thì cầm bằng như tự sát. Không một giây chậm trễ, tôi vọt bắn người ra sau. Watzek đuổi theo. Rất may là hắn không nhanh nhẹn như tôi. Tôi kêu lớn :
- Điên rồi hả? Bộ muốn bị tử hình sao?
Watzek thở hổn hển :
- Tao sẽ cho mầy chết... mầy dám lấy vợ tao mầy... phải đổ ra...
À, thì ra thề. Hắn cho là tôi đã dụ dỗ Lisa.
- Watzek. bạn sẽ bị tử hình...
- Tử hình mẹ mầy! Tao phải thiến mầy mới được, muốn ra sao thì ra.
Chúng tôi chạy vòng tròn quanh cái tháp đen. Tôi không kịp nghĩ tới kêu cứu bởi tất cả xảy ra quá mau. Vả lại, nếu có kêu chắc cũng chưa có ai dám cứu? Vừa thở hồng hộc tôi vừa cố hét lớn :
- Walzek, bạn lầm rồi! Vợ bạn thì có ra quái gì với tôi!
- Vậy mà mầy ngủ với nó!
Cuộc chạy đua với tử thần tiếp diễn, xoay bên phải trở bên trái. Chân mang giày ống nên Watzek không xoa xở được nhanh.
Khốn nạn! Georges đâu rồi? Chỉ trong vài phút nữa là tôi sẽ giãy chết dưới cái đài tưởng niệm này, chết thay hắn trong khi hắn đang ôm ấp Lisa.
- Sao bạn không hỏi lại Lisa, đồ ngu!
- Tao moi ruột mầy ra, đồ đê tiện!
Tôi sợ hãi nhìn quanh để xem ra có vật gì làm võ khí. Chẳng có gì cả. Trước khi có đủ thì giờ nhấc một tấm lên tôi đã bị chém đứt cổ rồi.
Tôi chợt thấy một viên cẩm thạch lớn bằng nắm tay đang phản chiếu ánh đèn, nằm trên bệ cửa sổ. Tôi chụp lấy hòn đá, tiếp tục nhảy nhót để nhắm thật trúng vào hắn. Hòn đá bay vụt ra, đập mạnh vào phía bên mắt phải. Máu tuôn xối xả khiến hắn chỉ còn nhìn thấy một bên.
Tôi lại rống to :
- Watzek, bạn lầm rồi. Không bao giờ tôi làm chuyện , xin thề có trời!
Watzek đã chậm lại nhưng còn nguy hiểm :
- À, mầy phản bội một chiến hữu. Nhục nhã quá!
Hắn lại phóng lới. Tôi nhảy sang một bên, cúi xuống lượm hòn đá lúc nãy, ném mau ra. Nhưng hòn đá không trúng đích bay vèo vào khóm tử đinh hương.
- Vợ bạn không đáng một xu, ai thèm tới. Hiểu chưa, đồ ngốc!
Gã đồ tể lặng thinh, tiếp tục đuổi bắt. Tôi cố chạy ở phía con mắt bị thương của hắn để hắn không nhìn rõ. Rồi thừa lúc hắn bất ngờ tôi phóng nhanh một đá và cũng ngay lúc đó, con dao của hắn trúng vào đế giày tôi. Tuy thế ngọn đá lần này tỏ ra hữu hiệu. Watzek dừng sững lại, tay buông thõng, máu mặt đổ ròng.
Tôi chỉ tay vào mặt hắn :
- Nghe đây, không được cử động. Ngưng chiến một phút. Sau đó bạn cứ việc phản công và tôi cứ việc đập bể con mắt còn lại.
Tôi vừa nói vừa quắc mắt nhìn thẳng vào mặt hắn như thôi miên. Tôi đã đọc một cuốn sách nói về thuật thôi miên. Tôi nói gằn từng tiếng một cho chữ chui tọt vào óc hắn :
- Tôi... không... hề... dính... líu... tới... vợ... bạn.
Và tôi nói tiếp thật mau :
- Vợ bạn chẳng ăn nhằm gì tới thằng này cả. Khoan! Đứng yên! Thằng này cũng có vợ mà!
Watzek gầm lên :
- Vậy mới càng gớm ghiếc hơn, quân dâm đãng.
Hắn lại lầm lì tấn công. Vì cố rút ngắn đường để chận tôi, hắn vấp phải bệ đá và lảo đảo. Tôi thừa địp phóng mũi giày vào xương ống chân. Mặc dầu nhờ đôi ủng nhưng hắn vẫn đau đớn nên dừng lại, nhưng con dao van còn ở trong tay.
Tôi lại dùng giọng của một nhà thôi miên :
- Nghe đây, đồ ngu như lừa. Thằng này đang si tình một thiếu nữ. Chờ đó, thằng này sẽ cho bạn coi hình.
Watzek vẫn lặng thinh múa dao. Chúng tôi lại chạy vòng tròn quanh cái tháp đen. Trong lúc chạy, tôi móc lấy tấm ảnh của Gerda tặng làm kỷ niệm. Vì quá vội nên khi rút được tấm ảnh từ trong bóp ra tôi đã làm rơi luôn mấy tỉ Đức kim vung vãi trên mắt đất.
Tôi dừng lại cách khoảng đầy đủ để chìa tấm ảnh ra mà không sợ bị hắn nắm tay.
- Đây, xem đi! Có phải vợ bạn đó không?
Hắn ngoẹo đầu cố nhìn với con mắt không đổ máu. Tôi đặt Gerda lên bệ đá :
- Đó coi đi! Coi kỹ có phải là vợ bạn không?
Watzek nhóm tới, toan chụp lấy tay tôi. Tôi phóng lùi ra :
- Đồ ngu! Coi đi! Có một người đẹp như vậy thì Lisa của bạn có nghĩa lý gì.
Không ngờ, đòn tâm lý hạng bét đó lại có hiệu quả. Gã đồ tể quan sát thật kỹ tấm hình Gerda rồi tiu nghỉu .
- Nhưng chắc chắn là phải có một thằng nào đó ngủ với nó.
- Đừng nhảm! Vợ bạn đàng hoàng ít ai bằng.
- Vậy nó làm gì ở đây mỗi đêm?
- Ở đâu?
- Ở đây.
- Bạn chẳng biết gì cả. Có thể là vợ bạn qua bên này mượn điện thoại. Tại sao không? Đàn bãà họ thích nói chuyện bằng điện thoại nhứt là khi ở nhà chỉ có một mình. Muốn vợ đứng đi thì sao không sắm điện thoại riêng?
- Nhưng ban đêm nó cũng ở đây.
Chúng tôi đứng đối diện nhau, cách khoảng bởi cái tháp đen.
- Mới đây thì có, nhưng hôm đó là vì có chuyện lão Knopf say gần chết làm cả xóm náo loạn lên. Vợ bạn chỉ có mặt mấy phút rồi về. Ngoài ra bạn cũng biết là vợ làm cho Moulin Rouge kia mà.
- Nó nói vậy, nhưng...
Con dao chúi mũi có vẻ không nguy hiểm mấy. Tôi khom xuống lấy tấm ảnh Gerda lên và đi vòng tới gần Watzek :
- Bây giờ, bạn có thể lột da tôi như lột da ngựa, nếu bạn muốn. Nhưng tốt hơn hết là nên nói chuyện đàng hoàng giữa đàn ông với nhau. Bạn muốn gì? Muốn đâm lột kẻ vô tội thì cứ làm đi.
- Không... nhưng mà...
Bây giờ hơi tỉnh táo, tôi đã biết là kẻ nào đã đâm thọt với hắn. Ngoài mụ góa chồng Konersmann ra chẳng còn ai. Có điều tôi thầm hãnh diện là mụ đã coi tôi như một gã có số đào hoa.
- Watzek, nếu bạn biết hiện thời đầu óc tôi còn để ở đâu, chắc bạn phải xấu hổ ghê gớm vì đã nghĩ bậy.
Hắn liếc nhìn tấm ảnh với hàng chữ “Trao Louis để nhớ mối tình đẹp của chúng mình. Gerda”.
Chỉ còn có một mắt, chẳng biết hắn có thấy được không?
- Con bé này hơi giống với vợ bồ, cũng một tầm vóc. Có phải vợ bạn có một cái áo choàng màu rỉ sét không?
- Có... nhưng mà...
- Con bé của tôi cũng có một cái giống như vậy. Ở tiệm Max Klein ngoài đại lộ, áo choàng đủ cỡ. Thời trang mà. Chắc bà già Konersmann mắt quáng gà. Bạn thấy rõ rồi chớ?
Thật ra mắt của mụ Konersmann còn tinh hơn loài chim cắt. Nhưng một anh chồng bị cắm sừng có thể tin bất cứ điều gì nếu anh ta muổn tin. Tôi nói tiếp :
- Bà ta lẫn lộn giữa hai người. Con bé của tôi có đến đây mấy lần. Đó quyền của cô ta, phải không?
Tôi làm mọi cách để giản dị hóa sự việc. Nghĩa là tôi hướng dẫn để hắn trả lời có hoặc không. Hay, nếu muốn thì hắn chỉ có thể trả lời bằng động tác của đầu.
- Tốt! Vậy là bạn biết điều! Còn tôi thì suýt bị ám sát.
Walzek buông mình ngồi lên bệ tháp :
- Nhưng bồ có vừa gì đâu, bồ nhìn tôi xem.
- Con mắt vẫn còn mà.
Watzek đưa tay sờ những vệt máu bắt đầu khô lại. Tôi làm ra điều lo ngại dùm hắn :
- Bồ mà còn chơi dao như thế là có ngày tù rục xương.
- Thây kệ, tánh tôi là vậy.
- Vậy sao không tự đâm lấy để khỏi phiền phức?
- Chiến hữu, bạn không biết đâu. Tôi đã nhiều lần nghĩ tới chuyện đó rồi. Tôi yêu nó tới điên lên, còn nó thì cứ coi như tôi là không có.
Tôi bỗng cảm thấy xúc động và cũng buông mình ngồi bên hắn. Hắn buồn thảm kể lể :
- Đó là tại nghề nghiệp. Mùi máu tanh làm nó chịu không nổi. Phải giết ngựa suốt đêm, biết làm sao?
- Bạn không có một bộ khác để thay thế khi ra khỏi lò sát sinh sao?
- Không dễ đâu. Mùi hôi vẫn tiết ra.
- Thì tắm rửa thật kỹ.
- Tắm ở đâu? Ở phòng tắm công cộng. Tất cả đều đóng cửa vào giờ đó. Sáu giờ sáng, ai mở cửa cho?
- Bộ trong chỗ bạn làm việc không có phòng tắm à?
Watzek lắc đầu :
- Chỉ có những ống nước để gội rửa sân nhà. Trời lạnh thế này, tắm bằng ống nước đó chịu sao nổi?
Tôi đã hiểu ra. Nước máy vào giữa tháng Mười một nhất định là không tắm nổi. Họa may chỉ có Karl Brill.
- Có bao giờ bạn nghĩ tới chuyện đổi nghề không?
- Tôi có biết nghề nào khác nữa đâu?
- Hay làm nghề lái ngựa? Tôi thấy bạn có khiếu về ngựa lắm.
Gã đồ tể ngồi lặng thinh, đầu gục xuống. Chúng tôi ngồi như thế rất lâu, chẳng biết nói gì. Vả lại chuyện của hắn thì có liên quan gì tới tôi? Nhưng cuối cùng tôi thấy vẫn phải nói :
- Bạn nên đổi nghề khác đi. Nghề giết ngựa kiếm ăn có được không?
- Không tệ lắm.
- Vậy cũng tốt. Cứ hai ngày ra tắm ở thành phố một lần rồi thay đồ mới vào. Vài cái sơ-mi, một hai cà-vạt. Bạn có thể sắm được chớ?
Watzek suy nghĩ khá lâu trước khi hỏi lại :
- Bạn có tin làm như vậy có hiệu quả tốt không?
Tôi nghĩ lới cái đêm bị bà mẹ của Terhoven quan sát :
- Mặc một bộ đồ mới bao giờ cũng cảm thấy tự tin hơn. Chính tôi đã từng có kinh nghiệm đó.
- Thật hả?
- Rất thật.
Walzek nhìn tôi với đôi chút thích thú :
- Nhưng mà...theo tôi thấy thì bồ có ăn mặc gọn ghẻ gì đâu, vậy mà vẫn có được...
- Cái đó còn tùy.
Watzek ngáp dài :
- Bây giờ chúng mình lại là anh em với nhau. Thật là khó tin.
- Chẳng phải là chuyện khó tin đâu. Tôi có đọc một cuốn sách nào đó, người ta bảo rằng đàn ông đều là anh em với nhau. Nhưng khi nhìn quanh, đôi khi không thể tự hỏi, nói như thế có quá đáng hay không?
Watzek cười :
- Tôi vẫn thấy là khó tin nhưng nó lại có thật vì hai đứa mình suýt cắt cổ nhau.
- Giữa anh em với nhau, chuyện đó cũng rất thường xảy ra.
Gã đồ tể đứng dậy :
- Mai tôi sẽ ra thành phố tắm - Hắn đưa tay sờ vết thương - tôi muốn sắm một bộ quân phục. Ở Munich, người ta đã bắt đầu mặc quân phục.
- Theo tôi thì nên sắm thường phục cho đẹp là hơn. Quân phục không có tương lai.
- Cám ơn. Có lẽ tôi phải sắm cả hai. Đừng giận nghe chiến hữu. Mai, tôi sẽ tặng bồ một khúc dồi ngựa thật ngon.
29.07.2014
24
Người dịch: Vũ Kim Thư
Nguồn: NXB Văn Nghệ TPHCM
Nội dung thu gọn
Georges lại triết lý vặt :
- Người bị căm sừng cũng giống như một con thú để ăn thịt, một con gà hay con thỏ chẳng hạn. Nếu mình không biết nó nuôi ở đâu mình vẫn thản nhiên nhai nuốt. Nhưng nếu mình sống chung với nó, mình nuôi nấng, săn sóc nó thì phải can đảm lắm mới có thể nấu chín hay quay nó để ăn. Kết luận: nên tránh xa những anh chàng bị cặm sừng.
Tôi chỉ tay về phía chiếc bàn có một khúc dồi ngựa no tròn đang nằm giữa những viên đá mẫu.
Georges hỏi tôi :
- Chú dám ăn không?
- Sao không? Lúc tham chiến ở Pháp tôi còn ăn nhiều thứ lệ hại hơn. Nhưng đừng đi lạc đề. Đó là món quà của Watzek. Tôi đang đứng trước một sự lựa chọn tàn nhẫn.
- Dường như chú rất thích thú trong những hoàn cảnh bi thảm?
- Tôi không chối cãi điều đó. Nhưng ít ra tôi cũng đã cứu mạng anh. Mụ Konersmann thế nào rồi cũng tăng cường công cuộc điều tra. Tốt hơn là anh nên bỏ Lisa. Có đáng gì đâu.
Georges lại tủ kiếng lấy một điếu xì gà Ba Tư.
- Watzek đã kể chú là anh em, có phải vì vậy mà lương tâm của chú chẳng được yên?
- Không. Hắn là người của Quốc Xã, không có vấn đề huynh đệ. Nhưng đừng ra ngoài đề chớ.
Georges thổi một hơi khói trắng vào mặt pho tượng nữ thánh Catherine bằng thạch cao.
- Lisa cũng lừa dối tôi như lừa dối chồng của nó. Vậy là chúng tôi cùng mọc một thứ sừng, đương nhiên là anh em với nhau. Anh em trong bất hạnh, nhưng cuối cùng...
- Anh mới khám phá ra?
- Không đâu, chú không thấy nó có hàng tá áo toàn thứ đắt tiền sao? Watzek thì nhất định không sắm nổi. Tôi không nhắm mắt đâu.
- Nghĩa là?
- Nó đã thú nhận với tôi mặc dù tôi không hỏi tới. Nó muốn chuyện đâu ra đấy. Cũng thành thật đó chứ.
- Còn anh thì anh phản bội ả bằng cách nằm mộng với các cô đào trong tạp chí.
- Dĩ nhiên! Nghĩ cho cùng thì lừa dối nghĩa là gì? Tình cảm không một chút liên hệ tới đạo đức. Lisa dối... đó chỉ là ngôn ngữ tầm thường để chỉ bất bình vi diệu, cuộc tìm kiếm sự mỹ hảo, luôn luôn, luôn luôn...
- Khoan đã! Làm ơn nhìn xem! Anh chàng thấp bé nhưng vạm vỡ trên đầu có buớu, đang đi ngoài kia là đồ tể Watzek. Hắn vừa tắm xong vừa mới hớt tóc và có lẽ còn ngợp mùi nước hoa. Hắn muốn làm vừa lòng vợ hắn. Có đáng cảm động chưa?
- Cảm động chớ. Nhưng chắc chắn là hắn thất bại.
- Nhưng tại sao ả chịu lấy hắn?
- Chiến tranh! Nó không có gì ăn trong khi hắn có thể cung cấp đầy đủ thịt tươi.
- Và tại sao ả không ly dị?
- Vì hắn dọa sẽ giết cả nhà.
- Lisa nói hết với anh à?
- Đúng vậy.
- Chúa ơi! Vậy mà anh vẫn tin?
Georges thổi một vòng khói tròn trịa :
- Chừng nào chú trở thành một thằng già vô liêm sỉ như tôi, chú sẽ thấy.
- Rồi anh làm thế nào để dàn xếp giữa con dao của Watzek và cặp mắt mèo rừng của mụ Konersmann?
- Đúng ra thì phiền phức vô cùng. Nhưng có điều Watzek là thằng ngu. Từ ngày bị cặm sừng cuộc sống của hắn đẹp ra. Tự nhiên là Lisa phải tỏ ra ngoan ngoãn và dịu dàng hơn. Và chú thấy nó sẽ biến thành gấu cái ngay nếu nó vẫn trung thành. Thôi, mình ăn đi. Vấn đề này còn có thể thảo luận cho tới tối.
Vửa thấy chúng tôi, Edouard Knoblock như bị trúng phong. Hối suất đô-la đã lên gần một ngàn tỉ vậy mà chúng tôi dường như hãy còn một số phiếu cổ phần vô tận. Hắn chân đứng ngay :
- Bộ các người in lấy, hả?
Georger lên giọng :
- Cho một chai Forster sau bữa ăn?
Edouard như ngửi thấy một quỷ kế :
- Sao? Tại sao sau bữa ăn? Trò gì nữa đây?
Tôi chêm vào :
- Cần phải có rượu chát mới tiêu hóa nổi những món ăn quá lẽ luôn mấy tuần nay.
Mặt Edouard tím lại :
- Ăn bằng phiếu của mùa Đông năm trước, chỉ đáng có bảy ngàn Marks, đã không biết xấu mà còn chỉ trích. Vậy là quá rồi! Phải mời cảnh sát tới.
- Mời đi! Chỉ thêm một tiếng nữa là bọn này ăn xong rồi tới Hohenzollern mua rượu ở đó.
Edouard đành nhượng bộ vì dầu sao ít ra hắn cũng còn bán được rượu cho chúng tôi.
Chúng tôi ngồi nhìn gian phòng trong khi chờ đợi. Tôi liếc trộm để xem Gerda có mặt ở đây không nhưng chẳng tìm thấy. Bỗng một bộ mặt quen thuộc đang đi tới chỗ chúng tôi.
Riesenfield chào chúng tôi. Georges tường thuật ngay vụ Watzek đánh ghen :
- Ông tới vừa đúng lúc để chứng tỏ sự biết ơn. Nhà tư tưởng oắt con của chúng ta vừa mở một trận quyết đấu thay mặt cho ông. Song đấu theo kiểu Mỹ: đá cẩm thạch chống dao găm.
- Thật không? - Hắn gọi một chai bia rồi hỏi tiếp - Chuyện ra sao?
- Walzek, chồng của Lisa mà ông đã tấn công bằng hoa, nghi ngờ bạn nhỏ này là tác giả. Hắn phục kích bằng dao.
Riesenfield hỏi cộc lốc :
- Bị thương?
- Chỉ hư đế giày. Watzek bị thương nhẹ.
- Định giở trò gì nữa đây?
- Không. Chuyện thật trăm phần trăm.
Bỗng nhiên Riesenfield lên giọng kẻ cả :
- Hắn phải đi khỏi chỗ này.
Tôi vểnh tai :
- Ai? Watzek hả?
- Không. Cậu.
- Tôi à? Tại sao không phải là ông? Hay là cả ôrng và hắn?
- Watzek thế nào rồi cũng ra tay lần nữa. Cậu là nạn nhân chỉ định. Hắn không để ý tôi và Georges, nội cái đầu hói của bọn này cũng đủ bảo đảm phần đạo đức. Hiểu chưa?
- Chưa.
- Muốn đặt điều kiện?
- Nhưng không phải vì vụ Lisa.
Riesenfield nhấn mạnh :
- Tôi nói về chuyện điều kiện. Cậu có thích làm dân hạ tiện của một thành phố lớn không?
- A? Trong thành phố lớn của ông, chắc người ta không nuôi heo bằng nước lạnh.
- Nếu có chỗ làm trong một nhật báo, cậu nghĩ sao? Ở Bá Linh.. Dĩ nhiên là lúc đầu lương bổng chẳng bao nhiêu nhưng vừa đủ để nổi lên mặt nước. Sau đó thì tự xoay xở lấy.
Tôi tưởng như nghẹt thở :
- Rồi sao? Cậu hay hỏi tôi xem có việc gì giúp được không. Cậu cũng biết Riesenfield này giao dịch rất nhiều. Bây giờ giúp cậu. Và nghe đây bắt đầu làm từ 1 tháng 1 - 1924. Một công việc nho nhỏ ở Bá Linh. Bằng lòng chưa?
Georges vội vàng can thiệp :
- Không được. Hắn còn một hợp đồng năm năm.
- Vậy là càng nên đi sớm. Đồng ý?
Georges hỏi :
- Lương bao nhiêu?
- Hai trăm Marks.
Tôi trợn mắt :
- Bộ bọn ăn mày chết hết rồi sao? Tiền lương chết giấc đó vẫn tồn tại à?
Risenfield vẫn lạnh lùng :
- Đã bắt đầu trở lại.
- Thật à? Ở đâu? Ở Tân Tây Lan?
- Ngay trên nước Đức yêu quý của chúng la. Tiền lúa mạch. Các người chưa hay biết gì sao?
Tôi và Georges sững sờ nhìn nhau. Gần đây có tin đồn là một loại tiền mới sắp được lưu hành. Trị giá của một Đức kim mới được tính lương đương với một số lượng lúa mạch. Tuy nhiên, mấy lúc sau này, có quá nhiều tin đồn đến mức không biết tin vào đâu nữa.
Riesenfield quả quyết :
- Lần này là có thật. Nguồn tin riêng của tôi luôn luôn không sai chạy. Đồng Đức Kim lúa mạch sẽ trở thành đồng Đức kim vàng. Chánh phủ đang ráo riết vận động.
- Chánh phủ? Thì cũng chính chánh phủ gây ra nạn lạm phát
- Nhưng tất cả đều đã qua rồi. Nước Đức không còn thiếu nợ nữa. Một ngàn tỉ Đức kim lạm phát sẽ trở thành một Đức kim vàng.
- Và đồng Marks vàng lại tới lượt nó bị mất giá, phải không? Và cuộc khiêu vũ lại tái diễn?
Riesenfield hớp một ngụm bia :
-Sao? chấp nhận hay từ chối?
Cả quán ăn dường như bỗng lặng trang. Tôi trả lời như gió thoảng :
- Chấp nhận.
Chính miệng mình nói ra nhưng tôi nghe như có kẻ nào đó nói thay. Tôi không dám nhìn qua Georges. Riesenfield khen :
- Vậy mới đúng là thức thời.
Những tấm thảm dưới chân tôi như đang bềnh bồng trong một vùng biển vô hình. Rồi tôi nghe Georges gọi :
- Mang chai Forster trắng ra đây.
Tới lúc đó, tôi mới dám ngẩng đầu lên :
- Vậy là anh đã cứu giúp chúng tôi...
- Chúng tôi. Sao lại là chúng tôi?
Georges trả lời thay :
- Cuộc sống nào cũng có đôi chút liên hệ với vài người khác.
Tôi nhìn Georges với sự biết ơn. Tôi phản bội y bởi vì tôi chẳng còn cách nào hơn, và Georges đã hiểu rõ điều đó. Tôi nghĩ là phải nói một lời gì với Georges :
- Chừng đó, thỉnh thoảng anh lên thăm tôi và tôi sẽ giới thiệu cho anh các bà các cô cùng mấy cô đào màn ảnh.
Riesenfield quay sang tôi :
- Ôi chao! Chưa chi đã có đại chương trình. Rượu đâu? Tôi cũng vừa cứu giúp cậu.
Georges thở ra :
- Một ngày nào đó trong đời, bất cứ ai cũng có được một lần cứu giúp kẻ khác. Cũng như một ngày nào đó, mình bỗng trở thành kẻ sát nhân một cách vô ý thức.
Chai rượu đã được đặt lên bàn. Bỗng Edouard mặt xanh như lá, quýnh quáng đi mau tới :
- Cho tôi một ly.
Tôi khoát tay.
- Đi chỗ khác. Bọn này vẫn uống được không cần có mặt bạn.
- Các bạn đừng hiểu lầm. Tôi trả tiền chai rượu này. Cho tôi một ly. Tôi cần phải uống...
Giọng hắn gần như rên rỉ nhưng chúng tôi không để ý :
- Bạn giành trả tiền hả? Suy nghĩ kỹ chưa?
Edouard thẫn thờ ngồi xuống :
- Tôi trả. Valentin chết rồi!
- Sao? Valentin bị gì?
- Tim. Vừa mới biết qua điện thoại.
Hắn vồ lấy ly rượu. Tôi nổi nóng :
- Được tin Valentin chết mà bạn còn nhậu được à? Sung sướng vì thoát nạn phải không?
- Không, ngàn lần không. Louis. Bạn biết là chính hắn đã cứu sống tôi.
Riesenfield sửng sốt : Truyện "Bia Mộ Đen Và Bầy Diều Hâu Gãy Cánh " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
- Cái gì? Ông bạn cũng được cứu sống?
- Vãng, chính tôi đây.
Riesenfield kêu lên :
- A! Chúng ta toàn là những cứu tinh cả hay sao?
Georges thở dài :
- Đó là dấu hiệu của thời đại. Trong những năm sau này, rất nhiều người được cứu. Và cũng rất nhiều người gục ngả.
Tôi nhìn chằm chập Edouard. Mắt hắn ươn ướt, nhưng với một người như hắn thì khó biết chắc được gì.
- Không tin được. Bạn vẫn thường mong Valenlin chết để khỏi tốn rượu.
- Tôi thề với bạn là không hề có chuyện đó.
- Nói cho có vậy thôi trong thâm tâm không bao giờ nghĩ thế - Những giọt nước mắt lăn dài trên má - chính hắn đã cứu mạng tôi.
Riesenfield uể oải đứng lên :
- Thôi, đủ lắm rồi. Kroll, chiều nay có ở văn phòng không?
Georges nhún vai :
- Điều quan trọng là ông đừng gởi hoa cho Lisa nữa.
Riesenfield gật đầu bỏ đi, mặt vẫn lạnh lùng.
Môi Edouard run run :
- Mình uống một ly để tưởng niệm Valentin. Thật là khó tin! Đánh giặc, hắn chẳng sao, vậy mà bỗng nhiên lăn ra chết.
Tôi vỗ vai Edouard :
- Nếu bạn thương Valentin thật thì hãy chứng tỏ bằng hành động. Mang ra đây chai rượu mà hắn thường đòi hỏi.
- Johannisberg, được lắm.
Hắn đứng lên ngay và đi thẳng tới quày rượu.
Georges gật gù :
- Chắc là buồn thật.
- Rất buồn nhưng cũng hết sức nhẹ người.
- Tôi cũng định bảo thế...
- Tóm lại, tâm trạng hiện thời của hắn là sửng sốt trước một tin bất ngờ.
Bỗng Georges quyết định :
- Mình nên rời khỏi đây. Cứ để cho Edouard khóc bạn bằng chính rượu của hắn.
Tôi men đài bờ tường trong bóng tối, lẩm bẩm như người điên :
“Em, người em hiền dịu và man dại, vết thương của anh và bó mimosa, yêu em, anh muốn điên! Có ai thử nhốt gió chưa? Rồi còn lại những gì? Một chút hơi tù hãm. Em hãy đi lấy đường em, hãy tìm vui trong rạp hát, trong những buổi hòa nhạc, hãy lấy chồng sĩ quan trừ bị, giám đốc ngân hàng, một kẻ chiến thắng lạm phát. Hãy đi đi tuổi trẻ, hãy lên đường cánh buồm xanh. Đi đi, Isabelle! Đi đi tuổi trẻ trễ muộn của tôi được giành giựt lại từ bàn tay chiến tranh, cả hai, hãy đi đi, và tôi nữa, tôi cũng sẽ đi. chẳng có gì phiền trách nhau, mỗi người một con đường... Sự chết chóc luôn luôn mạnh hơn tất cả, không một ai có thể lừa dối nó. Vĩnh biệt! Chúng ta chết mỗi ngày, chúng ta cũng sống mỗi ngày thêm một ít, em đã nói và anh cũng chẳng quên, và kẻ nào không muốn ôm đồm sẽ có được tất cả. Vĩnh biệt, anh hôn em bằng đôi môi lạnh, anh ôm em trong vòng tay - những cánh tay không hề biết giữ lại - chúc em may mắn, chúc em manh khỏe, em vẫn cứ mãi ở trong anh...” Truyện "Bia Mộ Đen Và Bầy Diều Hâu Gãy Cánh " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Tôi ngồi trên ghế dài trong vườn cây với một chai rượu mạnh trong tay, nhìn bao quát cả khu trại điên.
Trong túi tôi, một ngân phiếu đang nằm đó: ba mươi quan Thụy Sĩ. Những phép lạ nối tiếp nhau. Một tờ báo Zurich mà cách đây hai năm tôi đã gởi tới tấp rất nhiều bài thơ, vừa chọn đăng được một và gởi trả tiền nhuận bút bằng ngân phiếu. Tôi đã tới thẳng ngân hàng người ta cho biết không phải ngân phiếu giả. Một nhân viên ở đó đề nghị tôi đổi ra Đức kim theo thị trường đen. Không. Mảnh giấy quý giá đó đang nằm trong túi áo, cạnh trái tim. Nếu nó tới sớm hơn có lẽ tôi đã dùng nó để sắm một bộ quần áo mới làm dáng với mẹ con bà Terhoven. Mặc! Gió lạnh nổi lên, tờ ngân phiếu phập phều trong túi áo. Tôi ngồi với một bộ lễ phục trong tưởng tượng, với đôi giầy da hoẵng mà Karl Brill hứa đóng cho, với một khăn tay ló ra từ miệng túi. Tôi là một nhà tư bản đang du lịch, cả Moulin Rouge thuộc về tôi, một cái vẫy tay và một chai sâm banh mang tới... và tôi uống, tựa người vào bờ tường xám, phía sau tôi là một lũ oan hồn: Isabelle, tuổi trẻ của anh, mẹ, em, Bodendick - Đại diện nhà trời - Wernicke - vị chủ tể của luận lý - ... và xa xa là bóng dáng quỷ quái của chiến tranh.
Trước mặt tôi là một tòa nhà, viện bảo sanh. Lần đầu tiên tôi nhận ra nó ở quá gần khu trại người điên. Đó là nơi tôi được sanh ra và tôi gần như quên mất. Chào mi, ngôi nhà thân mến, nơi sanh sản của con người. Người ta đã đưa mẹ ta đến với mi, gia đình ta nghèo lắm và mi đã chấp nhận hoàn toàn miễn phí. Xin chào người! Kiến trúc sư xa lạ đã xây dựng tòa nhà sanh đẻ ấy lên, bên cạnh nhà thương điên. Có lẽ người không nhận ra sự kỳ dị đó bởi vì những điều buồn cười nhất lại thường được thực hiện bởi những người nghiêm trang nhất. Tóm lại xin hoan hô lý lẽ nhưng đừng quá tin vào nó. Em. Isabelle em đã tìm thấy được rồi, và Wernicke, ông ấy có quyền xoa tay.
Chai rượu cạn. Tôi cố ném thật xa. Nó rơi phịch trên mảnh đất cày. Tôi đứng dậy. Tôi tự biết đã thấm rượu và cần phải tới Moulin Rouge. Riesenfield hứa đãi một chầu để tiễn tôi lên đường và để nhớ công những kẻ đã cứu người. Georges sẽ có mặt ở đó với Lisa. Chúng tôi phải ăn mừng lạm phát ra đi.
Chúng tôi ra khỏi đường lớn vào lúc đã quá khuya như một lũ say. Ánh đèn soi mà nhạt. Chúng tôi đã chôn vùi năm cũ hơi sớm một tí. Willy và Renée de la Tourterelle bất ngờ nhập bọn. Willy và Riesenfield ngay sau đó đã tranh luận vô cùng sôi nổi. Riesenfield quả quyết là sắp có đồng Đức kim lúa mạch... Willy thì tuyên bố là trong trường hợp đó hắn sẽ bị phá sản. Renée theo dõi câu chuyện, lặng thinh nhưng e ngại.
Xuyên qua bóng đêm và màn gió, bọn tôi chợt thấy một đám đông đang tiến tới. Tôi bảo nhỏ Georges :
- Bảo các bà tránh ra. Chắc chắn không tránh được ẩu đả.
- Đồng ý.
Chúng tôi đang ở gần khu chợ mới. Georges bảo Lisa :
- Nếu thấy có chuyện xảy ra thì chạy ngay tới quán Matz, gọi ban hợp ca của Bodo tới mau tăng viện.
Và quay sang Riesenfield :
- Còn ông, cứ làm như không quen biết bọn này.
Willy cũng lo cho Renée :
- Em cũng tránh ra xa, càng xa càng tốt.
Đám đông đã tới gần. Bọn du đãng đều mang giày ống, có lẽ chúng nuối tiếc cái thờ của những nhà ái quốc Đức. Trừ một vài đứa, tất cả đều ở khoảng mười tám hoặc hai mươi tuổi.
Một tên trong bọn hô lớn :
- Thằng tóc đỏ, tụi bây! Và cái đầu lợp da mông!
Dầu trời tối, chúng vẫn nhận ra ngay cái mớ tóc đỏ của Willy và cái đầu sói của Georges. Một tên khác ra lệnh :
- Nhào tới!
Georges hét :
- Lisa, chạy!
Gót giày của ả khua cồm cộp. Một tên tóc vàng vừa đeo kính vừa đuổi theo, vừa hô lớn :
- Nó kêu cảnh sát.
Willy ngáng chân. Tên tóc vàng lăn kềnh. Thế là trận chiến mở màn.
Bọn tôi có năm người, không kể Riesenfield. Đúng ra thì chỉ có bốn người rưỡi và Hermann Lotz, một chiến hữu, đã cụt mất tay trái. Nó đến với chúng tôi, cùng đi có anh chàng Kohler nhỏ bé.
Tôi kêu to :
- Hermann coi chừng ngã. Cứ đứng ở giữa. Kohler, nếu có té thì cắn bọn nó.
Georges chỉ huy :
- Bảo vệ phía sau!
Lệnh ra rất đúng nhưng lúc đó phía sau chúng tôi là một dãy cửa kính của cửa hiệu thời trong Max Klein. Nước Đức ái quốc bắt đầu xung phong!
Chúng tôi siết chặt hàng ngũ. Nhờ ánh đèn từ phía sau, chúng tôi thấy rõ địch thủ hơn. Tôi nhận ra tên cầm đầu đã từng toan hành hung bọn tôi ở quán Trung Ương. Tôi gọi hắn :
- Nhào vô, con!
Hắn nhìn bọn cận vệ. Ba tên từ từ bước ra. Quả đấm của Willy phóng ra trúng đầu của tên tới trước. Nó ngã quỵ trên thềm đường. Tên thứ hai quất trúng vào tay tôi một dùi cui. Tôi cố chụp lấy cây gậy cao su của nó nhưng không được. Willy vừa thoáng thấy, nhảy bổ vào, bẻ vai. Cái dùi cui rơi xuống. Willy toan lượm lên thì bị tống lật ngửa ra.
Tôi hét lởn :
- Kohler, lượm cây ma-trắc!
Đội hình chiến đấu của chúng tôi bắt đầu rối loạn. Tôi bị hất tung vào cửa kính. Khung cửa rung chuyển nhưng may mắn là không bể kính. Nhiều cửa sổ quanh đó mở ra. Phía sau, những hình nộm bằng gỗ ăn mặc theo thời trang Max Klein lặng lẽ theo dõi cuộc chiến.
Một tên mặt mụn cao lớn bấu vào cổ họng tôi. Mùi cá mòi và rượu bia xông ra, đầu hắn kề sát khiến tôi có cảm tưởng là hắn định hôn mình. Tay trái còn bị tê điếng bởi cú đùi cui, tôi dùng ngón cái tay phải định bấm vào mắt hắn. Nhưng vì cả hai cái đầu đang chạm sát vào nhau, món móc mắt trở thành vô dụng.
Và, đúng vào lúc sắp lăn đùng vì nghẹt thở, tôi bỗng mơ hồ thấy như một đóa hoa vừa nhô ra khỏi đầu hắn, đồng thời mắt hắn trợn dọc lên và những ngón tay từ từ nới lõng ra... Có tiếng đổ loảng xoảng của một bình hoa vỡ... vừa lấy đủ không khí vào buồng phổi tôi lung cả đầu vào cằm khiến hắn quỵ ngay. Một chi tiết lạ kỳ: bình hoa ném từ cửa sổ xuống ngay đầu gã, vỡ toang ra nhưng những cánh bông còn vướng trên tóc hắn. Tôi không hiểu tại sao đầu hắn chẳng nứt tung ra, chắc được làm bằng thép “La Ruhr”. Bởi thế, tuy ngã quỵ nhưng hắn không bất tỉnh và trận chiến tiếp diễn... Truyện "Bia Mộ Đen Và Bầy Diều Hâu Gãy Cánh " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Cuối cùng, tôi quật ngã được hắn đồng thời cũng lãnh gọn một cú đánh lén, rụng rời cả chân tay.
Kẻ địch thắng thế lại có thêm quân tăng viện. Tôi bỗng thấy Hermann Loz đang quỳ gối. Hắn bảo nhỏ :
- Lấy giùm cánh tay tao ra...
Tôi giúp hắn lôi cánh tay giả ra. Cái phần thân thể nhân tạo này bằng kền, ngoài đầu có một bàn tay thép được bao da đen. Chính vì vậy mà Hermann có biệt danh: Lotz hiệp sĩ tay sắt. Hắn tháo rời cánh tay giả ra rồi cầm lấy bàn tay mặt và đứng lên. Tôi báo động cho phe mình :
- Dang ra! Lolz xuất hiện!
Georges và Willy lập tức tránh đường. Cú đầu tiên, Hermann nhắm đúng một tên đầu sỏ. Bọn du đãng kinh hoàng. Lúc này, Hermann giống y một lực sĩ tả xông hữu đột. Cánh tay sắt bay múa giữa đám người. Thỉnh thoảng hắn lại dùng bàn tay mang găng da tát một vài tên khó thương. Bây giờ đến lượt hắn chỉ huy :
- Chạy cả tới cầu tiêu. Tôi bọc hậu.
Bọn tôi chạy ùa về phòng vệ sinh công cộng ở khu chợ mới. Hermann chạy sau, thỉnh thoảng quay người lại, vung cánh tay sắt. Bọn mang giày ống kinh hoảng tột độ, có tên vừa thấy bàn tay mang bao da đen vút qua là kêu thét lên, hai tay ôm mặt.
Chúng tôi đã vào cả bên trong phòng tiểu nhưng để dễ dàng phòng thủ hơn, chúng tôi tràn sang chiếm chỗ dành cho các bà. Phía đàn ông quá trống trải, rất dễ bị tấn công, bên các bà có được vài cửa sổ nhỏ tiện lợi hơn.
Kẻ thù đuổi tới. Bọn chúng khoảng hai mươi đứa, đa số là những tên mới. Chúng cố phá thủng vị trí phỏng thủ của tôi và Kokler.
Trong cơn hỗn loạn tôi chợt nhận thấy bên mình có quân tiếp viện. Và Riesenfield hiện ra với một cái cập da cuộn tròn, bên trong có lẽ đã được dồn gạch đá. Một cái quơ tay của hắn, một tên Quốc Xã ngã quỵ. Trong khi đó, Renée dùng giày cao gót làm võ khí phá vòng vây.
Tôi còn đang mê man theo dõi cuộc chiến ly kỳ bỗng một lên thừa cơ hút mạnh vào người. Tôi từ từ quỵ xuống nhưng vẫn còn đủ sáng suốt nhận thấy phần thắng lợi nghiêng về phe ta.
Tôi gượng đứng lên đồng thời chuẩn bị đón đỡ đòn thứ hài. Và chính ngay lúc đó, tôi bỗng chứng kiến một cảnh tượng oai hùng. Lisa, như một nữ chúa, đang oai vệ tiến tới, bên cạnh là Bodo Ledderhose và phía sau là cả một băng họp ca của hắn. Bỗng một giọng ồm ồm vang lên như sấm :
- Đứng nghiêm!
Đó là sáng kiến của Renée. Một số lớn kẻ địch giựt nẩy người. Và ca đoàn Bodo bắt đầu nhập trận.
Tôi lại gượng đứng lên. Tất cả đều im lặng. Bọn du đãng đã bỏ chạy mang theo những đồng bọn bị thương. Tôi mệt mỏi buông thõng :
- Thèm rượu rồi.
Bodo nói ngay :
- Được rồi, sẽ có ngay. Bây giờ thì rời khỏi chỗ này lập tức. Cảnh sát sắp tới.
Ngay lúc đó, một tiếng chát vang lên. Ngạc nhiên, chúng tôi cùng quay đầu lại. Llsa vừa đánh một ngươi nào đó. Ả lạnh lùng gằn giọng :
- Khốn kiếp! Mầy lo cho vợ bằng cách đó hả?
Bóng người thèu thào :
- Em... em...
Một tiếng nữa vang lên nhưng hơi đục. Chính Watzek! Hắn đang đứng đó, hai tay che đít.
Lisa tru tréo giữa khu chợ trống :
- Trời ơi! Chồng con như vậy đó!
Walzek vẫn im lìm. Máu từ vết thương cũ do tôi gay ra luôn xối xả. Tôi chỉ cái cặp da dồn đá và hỏi nhỏ
Riesenfield :
- Ông đánh hắn?
Riesenfield gật đầu và nhìn chằm chập về gã đồ tể :
- Dường như có gặp hắn ở đâu.
- Tại sao hắn ôm đít? Làm kỳ vậy?
- Bị ong chích.
Renée vừa trả lời vừa cài một cây kim nhọn vào nón.
Tôi đi tới chỗ Watzek :
- Sao! Bây giờ tôi mới biết chính bạn đã húc vào bụng tôi lúc nãy. Trả ơn bằng cách đó hay sao?
Watzek xấu hổ :
- Trời ơi! Tôi có biết đó là bạn đâu.
Lisa đanh đá :
- Hắn thì còn biết tới ai!
Tôi nhận thấy Watzek xấu hổ thật sự. Và tôi cũng nhận thấy hắn đã cố thực hiện lời khuyên của tôi. Chiếc sơ mi trắng của hắn mới tinh. Nhưng hỡi ơi, chính vì vậy mà máu đỏ thêm ra. Bất hạnh!
Lisa bảo chồng :
- Đi về, đồ khốn nạn!
Walzek lẳng lặng đi theo. Georges giúp Hermann buộc lại cánh tay giả.
Bodo mời cả bọn :
- Về đằng tôi kiếm gì uống đi.
Chúng tôi rời nhà Bodo khi trời sắp sáng. Một gã bán báo đi qua. Riesenfield gọi lại mua một tờ. Ở trang nhứt, một hàng tít lớn nổi lên:
Chấm dứt lạm phát.
Một ngàn tỷ ăn một Đức kim.
Riesenfield hỏi :
- Cậu thấy sao?
Tôi chỉ biễt gật đầu trong khi Willy rên rỉ :
- Vậy là chết rồi, sạt nghiệp luôn...
Và hắn quay sang Renée :
- Em thấy không, mới được đó rồi mất đó. Tiền bạc có nghĩa gì...
Renée lạnh lùng :
- Có nghĩa lắm chớ, nhứt là khi thiếu hụt.
Georges cùng tôi ra đường Assomption. Tôi nói với y :
- Kể cũng lạ, Watzek bị tôi và Riesenfield đánh chớ không phải anh. Đáng lý là anh mới phải. Như vậy có vẻ tư nhiên hơn.
- Tự nhiên nhưng không được đúng lắm.
- Tại sao?
- Bởi vì người sói đầu như tôi không nên nói chuyện tay chân mà cần phải vận dụng sự khôn ngoan.
Chúng tôi đã về tới khu vườn. Những cây thánh giá trông xám xịt vào buổi sớm. Cô con gái nhỏ nhất của lão Knopf, mặt còn ngái ngủ ra đón chúng tôi.
- Ba tôi bảo với các ông là ba tôi đồng ý bán lại tấm bia với giá mười hai tỷ.
- Cô nói với ba cô là chúng tôi chỉ trả tám Đức kim thôi. Và nếu chấp thuận thì nên cho biết trước giữa trưa. Tiền bạc lúc này khó kiếm.
Từ buồng ngủ, lão Knopf thò đầu ra :
- Mấy người nói gì?
- Tám Đức kim, thưa ông Knopf. Tới chiều là chỉ còn sáu thôi. Tiền đang tuột dốc. Khó tin lắm phải không?
- Vậy là tôi cứ giữ luôn. Bọn ăn cướp xác chết!
Và lão Knopf đóng sầm cửa lại.
29.07.2014
25
Người dịch: Vũ Kim Thư
Nguồn: NXB Văn Nghệ TPHCM
Nội dung thu gọn
Thi đoàn Werdenbruck tổ chức tiệc tiễn biệt tôi, tại nhà riêng của nhà hàng Walhalla. Các nhà thơ đều làm ra điều cảm động. Hungermann là người đầu tiên niềm nỡ :
- Bạn đã biết những bài thơ của tôi. Chính bạn đã nói, một phát hiện mới thời hậu chiến. Vượt xa Stéphan Georges.
Hắn nhìn tôi chờ xác nhận. Thật ra, không phải tôi nói thế mà thằng Bambuss. Tuy nhiên, đêm nay tôi không muốn làm phật lòng ai.
Bỗng nhiên hắn đổi đề tài :
- Ủa! Bộ đồ mới này đào đâu ra?
Tôi làm vẻ khiêm nhượng :
- Mới sắm bữa nay... bằng tiền Thụy Sĩ. Đã chán ngáy các bộ đồ nhà binh sửa lại. Hoan hô thường phục! Lạm phát chết rồi!
- Tiền Thuy Si? Vậy là cưng trở thành quốc tế rồi. Tiền ở đâu? Tiền của nhà báo?
Tôi gật đầu. Hắn bĩu môi :
- Vậy là đúng. Phần tôi, tôi không bao giờ làm thơ cho nhật báo. Chỉ muốn đăng trên các tạp chí văn nghệ thôi. Rất tiếc là phải bắt buộc bán cho Arthur Bauer một tập phát hành cách nay ba tháng. Thằng cha Bauer không điệu. Bạn có biết bán được bao nhiêu không? Không quá năm trăm tập.
Chính miệng Bauer đã nói với tôi là ấn hành không quá hai trăm tập, bán được hai mươi tám trong số có cả mười chín tập do Hungermann mua lấy. Và không phải chính hắn bị bắt buộc in mà với tư cách giáo sư Đức ngữ, hắn cho Bauer biết nếu không in, hắn sẽ giới thiệu một nhà sách khác cho học trò của hắn, nếu Bauer không chịu in.
- Chửng nào làm việc cho nhà báo, đừng quên bọn này. Tĩnh bạn luôn luôn là nguồn cảm hứng của thi văn.
- Đúng lắm. Và cũng hiếm như tuyết tháng Năm.
- Tuyệt diệu! - Hắn rút một lập thơ ra - Đây, bạn giữ lấy làm kỷ niệm. Nhớ cho một bài giới thiệu rồi gởi về tôi hai số báo. Và nếu bạn quen với một nhà xuất bản nào kha khá... tôi còn một tập sắp hoàn thành.
- Được lắm.
Hắn bắt tay tôi và lay thật mạnh :
- Tôi biết là có thể tin cậy bạn. Còn bạn, chừng nào bạn cho anh em xem một cái gì?
- Tôi à? Bỏ làm thơ rồi.
- Sao? Sao vậy?
- Đang chờ thời. Bây giờ vấn đề cáp bách là tập quen với thế giới bên ngoài.
Hungermann gật gù ra vẻ thầy đời :
- Rất khôn ngoan. Nếu phần lớn những nhà văn đều có ý nghĩ như bạn và để cho những người có chân tài không bị nghẽn lối...
Một tiếng đồng hồ sau, trong túi tôi đã có vô số những bản thảo thơ văn của nhiều người gởi mang đi Bá Linh. Đáng kể hơn cả là một lô thơ của Edouard khóc bạn...
... Tất cả những thứ đó bỗng như quá xa vời.
Xa vời như nạn lạm phát vừa chết cách nay hai tuần lễ, xa vời như tuổi trẻ mặc áo trận, xa vời như Isabelle.
Tôi đưa ra một quyết định chấn động :
- Các bạn, tôi xin rút lui khỏi thi đoàn.
Tất cả đều nhìn tôi. Hungermann phản đổi :
- Không được. Bạn vẫn là đoàn viên thông tin của hội tại Bá Linh.
- Không, tôi xin từ chức hẳn.
Các nhà thơ im lặng một phút. Hungermann lo ngại :
- Bạn nói thật?
- Hoàn toàn đứng đắn.
- Được! Chúng tôi chấp nhận và chỉ định bạn làm hội viên danh dư.
Hungermann xoay người nhìn cử tọa. Mọi người cùng vỗ tay vang dậy. Tác giả tập Casanova hô lớn :
- Toàn thể đồng chấp nhận!
- Cám ơn các bạn. Đó là một vinh dự lớn nhưng rất tiếc là tôi buộc lòng từ chối. Tôi đang có ý định chuyển hướng. Ước mong duy nhất của tôi là đừng bao giờ làm hội viên danh dự cho bất cứ một hội đoàn nào trên thế giới này, ngay cả cho nhà chứa điếm của thành phố chúng ta. Dẫu vậy...
Matthias Grund càu nhàu :
- Sao lại so sánh kỳ vậy?
Hungermann nhượng bộ :
- Được rồi, đêm nay chúng mình nên chìu ý của y. Vậy bạn muốn được làm gì?
- Một tia lửa của cuộc đời khỏng bao giữ muốn tắt.
Bambuss kêu lên :
- Chúa ơi! Dường như tôi đã đọc thấy ở đâu! Phải trong Euripide không?
- Rất có thể, Otto. Như vậy có vẻ thật hơn vì chính Euripide đã nói. Có điều là tôi không có ý định đem đề tài đó làm thơ. Tôi chỉ cố gắng được sống.
Hungermann tuyên bố :
- Câu này thì không có trong Euripide. Như vậy, bạn muốn...
- Đêm qua, tôi đã đốt một ngọn lửa. Một ngọn lửa tin vui. Các bạn còn nhớ quy tắc cũ mèm của bộ binh chớ gì: Hãy làm nhẹ túi đeo lưng!
Tất cả vỗ tay tán thưởng. Tôi nói với Edouard :
- Hiện thời tôi còn mười hai phiếu khẩu phần. Bạn có đồng ý cho tôi đổi với hai chai Johannisberg không? Mình uống tại đây.
Edouard tính nhẩm thật mau. Có lẽ hắn đã kể luôn cả tập thơ mà hắn đã làm về cái chết của Valentin mà tôi sắp mang đi Bá Linh. Thế là hắn đâm ra hào hiệp :
- Ba chai cũng được.
Tôi tới thăm Willy, hắn đã rời khỏi căn nhà sang trọng và mướn một phòng trọ. Bất thần trở lại cảnh nghèo túng, nhà tỷ phú thời cuộc vẫn chịu đựng một cách dũng cảm. Hắn còn cứu vãn được những bộ quần áo hợp thời trang, một số vật dụng bằng vàng và như thế hắn còn tiếp tục sống khá giả được một thời gian. Chiếc xe hơi nệm đỏ dĩ nhiên là đã bán rồi.
Các bức tường trong phòng hắn được dán đầy giấy bạc, tính ra còn rẻ hơn giấy hoa mà lại vui mắt hơn.
- Rồi mầy định làm gì?
- Chắc phải xin làm ở ngân hàng Werdenbruck. Chắc mầy biết Renée đang ở Magdebourg. Thành công lớn trong Vert Cacatois, nó vừa viết cho tao.
- Vẫn còn viết thơ à?
Willy làm một cử chỉ bao dung :
- Tãt cả những chuyện đó không có gì đáng kể, Louis. Cũng như khi gặp nhau thi chào hỏi. Cũng như mầy rời khỏi bọn tao để ra đi! Phần mầy, xin chúc mầy may mắn. Bây giờ mầy muốn lấy gì cứ lấy.
Hắn mở va-li ra, đầy giấy chứng khoán và giấy bạc :
- Toàn bạc triệu và bạc tỷ. Như giấc mộng, đúng không?
- Đúng lắm!
Willy đưa tôi ra đường :
- Tao còn cứu được vài trăm đồng Mark. Tổ quốc thân yêu của mình vẫn chưa mất. Đồng quan của Pháp sắp nhảy nai. Mày có muốn hùn hạp chút đỉnh gì không?
- Không, Willy. Tao không có khiếu đầu tư.
Tôi ngồi một mình ở văn phòng. Đây là hôm cuối cùng, tối nay đã phải lên đường. Để giết thời giờ, tôi lật tập hình mẫu tìm một cái mộ bia để vẽ vào đó tên Watzek thay thế lời chia tay.
Chuông điện thoại reo. Một giọng khàn khàn hỏi :
- Phai cậu là Louis không? Thằng nhỏ hay bắt cóc nhái?
- Phải cũng được mà không phải cũng được. Ai ở đầu dây?
- Fritzi.
- Ồ, Fritzi! Louis đây. Có chuyện gì vậy? Thằng Otto...
- Con ngựa sắt chết.
- Hả?
- Chết đêm qua. Đau tim. Giữa lúc hành nghề.
- Chết vậy là tốt, nhưng hơi sớm.
Fritzi ho trong máy và cố dằn lại :
- Cậu trông coi việc bán bia, có phải không? Có người nói với tôi.
- Xưởng sản xuất mộ bia của tụi này là số một. Chi vậy?
- Louis, bà chủ định đặt một tấm bia. Tôi nghĩ, cậu và con ngựa sắt, hai người đã...
- Không bao giờ, chắc là lầm với Georges. Năm khi mười họa anh ấy...
- Georges hay cậu thì cũng một thứ. Vần đề trọng yếu là tấm bia. Lo ngay đi! Hồi nãy có người của xưởng cạnh tranh tới rồi. Hắn khóc ròng và cho biết đã từng đi lại với con ngựa sắt.
- Đúng là Oscar mắt treo cờ tang!
- Fritzi, tôi tới ngay. Đừng tin con cá sấu đó.
Bà chủ nhà chứa hỏi :
- Muốn lên thăm nó không?
- Đặt vào hòm chưa?
- Rồi. Ở phòng bên.
Thang lầu kêu cót két. Qua những cánh cửa mở, tôi thấy các ả điếm đang thay đồ.
- Bộ họ không nghỉ bữa nay sao?
- Đêm nay, tụi nó nghỉ nhưng vẫn thay đồ... lệ thường. Cũng chẳng có gì đáng nói. Từ ngày Đức kim trở lại giá cũ, nghề này gần như tê liệt. Khôi hài thật!
Chẳng có gì khôi hài cả mà đó là sự thật. Hết lạm phát là phải thu hết chỉ tệ. Trước, người ta tính bạc triệu, bac tỷ, bây giờ tính từng xu. Mọi lãnh vực đều thiếu hụt ngân khoản. Cơn ác mộng đã đi qua.
Ả điếm được tặng hỗn danh ngựa sắt nằm giữa những bó huệ và lá cây tươi. Mặt ả già đi và khắc khổ, chiếc răng vàng còn chiếu qua kẻ hở vành môi. Tấm gương mà ả từng soi ngắm được phủ lên một lớp vải the.
Tôi biết ả rất nhiều, ả là một trong những hình ảnh kỷ niệm thời thơ ấu. Và bạn bè tôi, lúc trở về khi chiến tranh chấm dứt, đã được ả tiếp nhận để dạy cho bài hoc đầu tiên về tình dục.
Chúng tôi trở ra. Tôi hỏi bà chủ chứa :
- Thật ra thì ngựa sắt bị gì?
- Chết trong khi hành sự. Có lẽ nó có quá nhiều lương tâm nghề nghiệp.
- Bà thích loại bia nào? Cẩm thạch hay đá hoa cương?
- Cẩm thạch không thích hợp với ngựa sắt. Chỉ để cho trẻ con.
Tôi cãi lại :
- Không phải đâu. Ngay cả các tướng tá còn dùng cẩm thạch.
- Đá hoa cương. Loại này mới phủ hợp với tính chất của sắt.
Chúng tôi quây quần trong phòng khách. Cà phê bốc khói, một ít bánh ngọt do các nàng tự làm lấy và một chai curacao. Họ xúm xit sau tôi, nhìn qua vai để xem tập hình mẫu, y như thuở tôi còn đi học.
- Đây là kiểu đẹp nhứt. Đá hoa cương đen Thụy Điển có thánh giá và bệ đôi. Cả thành phố chỉ còn hai, ba cái.
Các nàng ngắm nghía bức họa, một trong những họa phẩm sau cùng của tôi.
Fritzi hỏi :
- Con ngựa sắt có đạo không?
Tôi cãi chánh :
- Thánh giá không phải chỉ dành riêng cho người có đạo.
Bà chủ gãi đầu :
- Chẳng biết làm lễ theo tôn giáo có thích hợp với nó không? Có cái nào khác không? Không dính líu tới đạo nào cả.
Tôi có cảm tưởng nghẹt thở trong giây lát.
Nếu vậy thì có sẵn đây! Một cái tháp tưởng niệm.
Tất cả đều lặng ngắm hình vẽ cái tháp. Tôi bước lùi ra, lo ngại. Biết đâu, chẳng có một chuyện may bất ngờ xảy tới. Đôi khi một đứa trẻ lại thành công trong khi những tay lão luyện đều bí lối. Thình lình, Fritzi cuời phá lên :
- Coi bộ cũng hợp với con ngựa sắt.
... còn tiền. Người nào có được vài Đức kim là bám riết như người sắp chết đuối vớ được bè Méduse. Truyện "Bia Mộ Đen Và Bầy Diều Hâu Gãy Cánh " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Tôi gằn từng tiếng một :
- Thế mà tôi, tôi vừa mới đi ra là bán được ngay.
- Giỡn hả? Bán cái gì?
Tôi đứng xích ra để cho hai anh em nhà Kroll lọt trong tầm mắt rồi tuyên bố :
- Bán cái tháp đen!
- Láo! Tới Bá Linh mà ba hoa.
- Ông nên nhớ là kể từ mười hai giờ trưa tôi không còn là nhân viên của hãng. Nhưng để chứng tỏ là tôi kiếm mối bán mộ bia, tháp tế tự không phải là chuyện khó, tôi ra tay lần chót cho ông sáng mắt ra. Đây chỉ là công việc của bọn học trò lúc nghỉ hè.
Henri thở dốc, hết chịu nổi :
- Cám ơn Chúa, cũng may là cái giọng bỉ ối này sắp đi xa. Tới Bá Linh, chú mày sẽ có dịp học hỏi phép lịch sư.
Georges chen vào :
- Henri, hắn đã bán được cái tháp đó rồi.
Henri trợn mắt, hét to :
- Bán được? Lấy gì chứng chắc?
Tôi móc xấp bạc Hòa Lan vung vẫy trước mũi Henri :
- Đây, bằng chứng đây. Lại ngoại tệ nữa.
Henri đảo mắt đôi ba lượt trước khi thò tay nắm lấy một tờ giấy bạc, lật qua lật lại rồi đưa lên mũi ngửi xem thật giả. Ông ta nói rít qua kẽ răng :
- Chó ngáp phải ruồi!
Georges nhắc khéo :
- Nhưng nếu không có món tiền này thì lấy gì trả nợ hết hạn đúng ngày mai. Đáng lý phải hôn hắn.
- Hôn nó à? Chết còn sướng hơn!
Henri vùng vằng bước ra, đóng ập cửa lại: đúng là một người Đức trăm phần trăm, không hề biết cám ơn.
Tôi hỏi Georges :
- Mình có cần tiền cấp bách đúng như anh vừa nói không?
- Cũng hơi gấp. Thôi bây giờ tính chuyện tiền bạc của mình. Chú còn bao nhiêu?
- Vừa đủ! Trước hết là tiền vé xe hạng ba, nhưng tôi mua vé hạng tư. Tiết kiệm được 12 Đức kim. Bán được cái dương cầm, một trăm Đức kim. Tổng cộng một trăm mười hai, thừa đủ để chờ tới lúc lãnh lương.
Georges lấy ba mươi đồng Hòa Lan đưa tôi :
- Chú là nhân viên đặc biệt của xưởng. Như vậy chú cũng có quyền hưởng huê hồng như Oscar mắt treo cờ tang.
Tôi do dự một phút rồi nhận lấy. Georges hỏi tôi :
- Chú có biết sẽ phải làm gì ở đó không?
- Biết rõ lắm. Loan báo những tin cháy nhà, cho đăng những tin trộm cắp, tường thuật một vài cuốn sách không quan trọng, mang bia lên cho mấy biên tập viên, chuốc viết chì, sửa bản vẽ và... cố gắng ngoi lên.
Cánh cửa bật tung ra bởi một cú đá. Như ma quỷ hiện hình lảo Knopf đứng giữa ngưỡng cửa, cất giọng khàn khàn :
- Tám ngàn tỷ!
Ông nói ngay :
- Ông Knopf, ông vẫn còn nằm mộng hay sao? Lạm phát đã kết thúc từ mười lăm ngày qua. Tám ngàn tỷ lúc đó chỉ bằng 8 Đức kim bây giờ.
- Láo! Cái gì mà kết thúc lạm phát? Bộ muốn giựt dọc sao? Được rồi, tôi cứ giữ lại để chờ kỳ tới.
- Hả?
- Kỳ lạm phát tới.
Georges nói vào :
- Tốt! Uống một ly không?
Lão Knopf vồ lấy chai rượu :
- Đánh cá chơi.
- Cá cái gì?
- Coi chai rượu này thuộc về hãng nào?
Tôi mở nút chai rồi ngửi và thách đố :
- Không được đâu. Rượu thùng thì ông nhà nghề lắm chớ rượu vô chai thì thua đứt.
- Vậy thì đánh cá đi. Tôi đánh bằng tám bia.
Georges cười :
- Chắc bọn tôi thua nhưng thây kệ, cứ đánh ba Đức kim.
- Tốt lắm! Cho tôi một ly.
Knopf ngủi rồi nếm. Nếm xong, lão ta ực một hơi và đòi thêm ly thứ hai. Tôi can thiệp :
-Thôi cho xin. Coi chừng ông lại nguy mất. Khỏi đánh cá nữa.
Nhưng lão thượng sĩ đã kết luận ngay :
- Chai rượu này là của hãng Brockmann, đường Assomption.
Tôi và Georges nhìn nhau, ngơ ngác. Lão đã nói đúng. Georges đưa lão 3 Đức kim và lão ta biến dạng ngay. Tôi vẫn còn ngẩn người :
- Lạ thật! Sao lão tài ba đến thế!
Georges cười rộ lên :
- Mình mắc lừa rồi.
- Sao?
Georges nhấc chai rượu lên. Ở lưng chai phía dưới có một nhãn hiệu nhỏ: J. Brockmann, 18 dường Assomption. Tôi buộc miệng :
- Vậy là mắt lão ta còn sáng quá.
- Nhưng tới ngày mốt, sau khi uống rượu ban đêm trở về không còn thấy cái tháp đen nữa, lão ta sẽ nghi ngờ đôi mắt của mình. Và đó cũng là dấu hiệu sụp đổ cả thế giới của lão ta.
- Còn thế giới của anh?
- Cứ mỗi ngày một yếu đi. Đời là vậy.
Hai tiếng đồng hồ trước khi lên đường, tôi bỗng nghe có tiếng ồn ào trong hẻm Arquebusiers. Không đầy một phút sau, có tiếng hợp ca bốn giọng:
Hỡi đêm thánh hãy trút xuống
Sự thái hòa của trời cao xuống trái tim này...
Tôi và Georges bước mau tới cửa sổ. Ngay giữa đường, trọn ca đoàn của Bodo đang đứng đó.
- Chuyện gì vậy? Mở đèn mau lên. Georges!
Trong ánh đèn mờ ảo hắt từ văn phòng, chúng tôi nhận ra sự hiện diện của Bodo. Georges bảo tôi :
- Họ tới hát để tiễn đưa chú. Đừng quên chú vẫn là thành viên của ca đoàn Bodo.
Hãy ban cho người hành hương mệt mỏi
Một chút hơi ấm của cuộc đời
Nhiều cửa sổ trên đường mở tung ra. Mụ Konersmann tru tréo :
- Im đi! Khuya rồi, bọn say rượu.
Sao bắc đẩu chiếu sáng
Trên cõi vô tận xanh xanh...
Lisa nghiêng mình ra cửa sổ. Ả tưởng là dạ khúc đó dành cho ả.
Ngay lúc đó, cảnh sát tới. Một giọng hùng hổ cất oang oang :
- Giải tán ngay!
Ca đoàn vẫn tiếp tục hát. Một viên chức mặc sắc phục hô lớn :
- Náo loạn ban đêm.
Tiếp theo là giọng the thé của mụ Konersmann.
- Bắt chúng nó!
Ca đoàn Bođo gồm 20 ca sĩ chắc nịch. Đứng trước họ là hai trật tự công cộng. Tôi tự thấy có bổn phận nhắc nhở :
- Bodo! Nghe đây! Đừng cử động! Nhớ là không được kháng cự! Nếu không, sẽ bị phạt tù!
Bodo vừa gật đâu vừa tiếp tục hát, miệng tròn vo như trứng đà điểu. Truyện "Bia Mộ Đen Và Bầy Diều Hâu Gãy Cánh " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Ôi! Em muốn được theo anh
Cùng lên tận thiên đường
Mụ Konersmann lại rú lên :
- Im! Để người ta ngủ!
Lisa chõ miệng nói với viên cảnh sát :
- Ê! Cứ để yên cho họ. Tốt hơn hết là nên tìm bắt bọn trộm cướp.
Cảnh sát bắt đầu hành động. Họ hô lớn một hai lần :
- Tất cả về bót!
Các ca sĩ không nhúc nhích. Bodo bắt đầu hát đoạn hai:
Cuối cùng, cảnh sát ra tay, mỗi người tóm lấy một đoàn viên của Bodo. Tôi lại kêu lớn :
- Đừng chống cự. Sẽ bị khép tội: chống luật pháp. Cứ để nhà chức trách làm việc.
Hai ca sĩ bị bắt ngoan ngoãn đi về bót. Những người còn lại vẫn tiếp tục hát. Trụ sở cảnh sát ở cách đó không xa nên chỉ vài phút sau họ chạy trở lại mang về thêm hai người nữa.
Ca đoàn vẫn hát nhưng giọng kim đã yếu đi. Tới lượt thứ ba, Willy bị dẫn đi, thế là không còn một giọng kim nào nữa. Chúng tôi chuyền mấy chai bia xuống :
- Bodo, vững tinh thần!
- Đừng lo. Hát tới người cuối cùng!
Cảnh sát lại chạy tới. Hết bia, chúng tôi đành hy sinh rượu mạnh. Mười phút sau, chỉ còn những ca sĩ giọng thổ nhưng họ vẫn thản nhiên để mặc cho những người đi săn đập chết bằng chài vồ. Và chính mắt tôi cũng đã từng chứng kiến một số dân tộc giữ y thái độ tiêu cực đó trong thời chiến.
Mười lăm phút sau, chỉ còn lại một mình Bodo. Cuối cùng, hắn cũng bị đưa về bót. Tôi và Georges theo sau.
Thinh lình, chúng tôí lắng tai nghe. Tiếng hát từ đâu vẳng tới như phụ họa khúc hát của đoàn Bodo. Vừa qua khúc quanh ở nhà thờ, tiếng hát như từ từng trời cao vẳng xuống.
Hỡi đêm thánh, xin trút xuống
Và tới khúc quanh thứ hai, chúng tôi đã biết nơi xuất phát: trụ sở cảnh sát. Những người bạn can đảm của tôi chưa bị tước khí giới. Người ca đoàn trưởng đi vào, đầu ngẩng cao và chúng tôi lại nghe :
Hãy ban cho người hành hương mỏi mệt
Viên cảnh sát trưởng nhìn Georges :
- Thế này là sao đây, ông Kroll?
- Say mê âm nhạc. Đêm tiễn biệt một thanh niên ra thế giới bên ngoài. Giải tri vô tư, biểu trưng tinh thần dân tộc. Đáng được nhà cầm quyền khích lệ.
- Chỉ có vậy thôi?
- Chỉ có vậy.
Một cảnh sát viên chêm vào. Truyện "Bia Mộ Đen Và Bầy Diều Hâu Gãy Cánh " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
- Gây náo loạn ban đêm.
Tôi hỏi ông ta :
- Nhưng nếu họ hát quốc ca Deutschland, Deutschland uber alles thì sao?
- A! Đó là chuyện khác.
Georges tuyên bố với viên cảnh sát trưởng :
- Kẻ nào hát thì không trộm cắp, không giết người và cũng không tìm cách lật đổ chính phủ.
Tôi bồi thêm :
- Chẳng lẽ ông cảnh sát trưởng lại bắt giam những công dân hiền hòa chẳng phạm một tội nào cả.
Viên cảnh sát trưởng xua tay :
- Tống họ ra hết đi. Nhưng nhớ là phải giữ trật tự!
- Không sao đâu, tôi xin hứa. Dường như ông không phải là người Phổ.
- Tôi là người Franconie
Georges gật gù :
- Tôi đoán không sai.
Chúng tôi đang ở nhà ga. Gió thổi mạnh từng cơn. Ngoài chúng tôi ra không còn ai trên bến.
- Georges, anh nên lên thăm tôi. Tôi sẽ quậy tung cả Bà Linh lên để giới thiệu những cô nàng trong mộng anh. Lúc anh tới, thế nào cũng có ba bốn nàng túc trực
- Tôi sẽ lên thăm chú.
Tôi biết là Georges không nói thật nên gài thêm :
- Có lên đó anh mới có dịp mặc cái áo đuôi tôm chớ ở đây thì có cơ hội nào để mặc?
- Đúng lắm.
Chiếc xe lửa trố đôi mắt vàng vọt soi màn đêm
- Cất cao ngọn cờ, Georges! Anh biết là bọn mình bất tử mà.
- Đúng. Và chú cũng phải luôn thận trọng, chú đã từng vượt thoát nhiều trận, không có quyền để cho gục ngã.
- Tất nhiên. Kỷ niệm tình chiến hữu, sống chung trong hầm núp và.. v..v. valentine chẳng hạn.
Georges không đáp, chỉ lẳng lặng hút thuốc. Xe lửa vào ga, thở phì phò như sắp phải chở theo năm trăm người đang đợi, nhưng trên sân ga chỉ có một mình tôi là hành khách. Tôi lên toa. Mùi mồ hôi chua chua và mùi khói thuốc đông lạnh. Tôi hạ cửa kính xuống, đầu thò ra Georges nói lớn :
- Nên biết khước từ hơn là để mát.
- Ai nói với anh về chuyện khước từ?
Xe lăn bánh. Tôi với chụp bàn tay Georges, bàn tay quá nhỏ và quá mềm vẫn còn mang thương tích trong trận đánh ở khu chợ mới. Xe đã chạy mau. Georges như bị bỏ lại, trông anh như già hơn và xanh hơn. Tôi chỉ còn thấy ban tay trắng muốt của anh và khuôn mặt mờ ảo rồi tất cả chìm vào bóng tối và trời cao.
Trong pgòng, một hành khách đeo kính căp mũi ngồi thở dốc ở một góc, bên cạnh anh ta là một nhân viên thủy lâm ngủ gật. Một anh chàng to lớn có râu mép ngáy một cách tận tình và một bà đội nón lệch, má xệ, thở ra qua kẽ răng.
Cơn buồn soi mói dạ dày. Tôi mở va-li ra. Bà Kroll đã lo cho tôi một ít bánh mì quết bơ để ăn lúc đi đường. Không tìm thấy, tôi kéo va-li xuống để trên ghế dài. Bà đội nón lệch hé một mắt giận đữ nhìn tôi rồi nhắm lại, tiếp tục thở rít qua kẽ răng như chọc tức.
Bây giờ tôi đã hiểu tại sao không tìm thấy ngay mấy miếng bánh. Chúng nó bằm nép dưới chiếc áo đuôi tôm của Georges.
Vậy là Georges đã nhân lúc tôi đi ra ngoài lo việc bán cái tháp để lén bỏ vào va-li tôi. Tôi cảm động nhìn màu nỉ đen của chiếc áo đuôi tôm, rồi lấy bánh ra ăn. Cả phòng chợt thức giấc vì mùi bánh mì nóng và mùi giò chả. Tôi cứ thản nhiên nhai. No bụng, tôi sửa bộ ngồi cho thật êm mơ màng nhìn bóng đêm nhấp nháy những ánh đèn, tôi nghĩ tới Georges, tới cái áo đuôi tôm của anh lén lút cho tôi, tôi nghĩ lới Isabelle, tới Hermann Lotz, hiệp sĩ tay sắt, tới cái tháp tưởng niệm đen và cuối cùng không nghĩ thêm gì nữa.
29.07.2014
26
Người dịch: Vũ Kim Thư
Nguồn: NXB Văn Nghệ TPHCM
Nội dung thu gọn
Tôi không hề gặp lại một người nào nữa hết. Nhiều lần, tôi có ý định trở về nhưng lần nào cũng bị ngăn chận. Tôi nghĩ là sẽ có một thời gian nào đó thuận tiện hơn nhưng bây giờ thì đã hết rồi. Bóng tối đã phủ trùm lên nước Đức, tôi đã mất quê hương và lúc trở về, tôi chỉ còn thấy những điêu tàn. Georges đã chết. Mụ Konersmann sau bao nhiêu công trình dọ dẫm đã khám phá ra được cuộc tình vụng trộm của Lisa và Georges. Năm 1933, mười năm sau, mụ ta tố cáo với Watzek lúc bấy giờ là chỉ huy trưởng đội S.A. Mặc dầu đã ly dị Lisa tới năm năm, Watzek vẫn cứ nhốt tình địch vào trại tập trung của hắn. Vài tháng sau, Georges chết.
Hans Hungermann, ủy viên văn hóa và là Đảng viên cao cấp đã ca tụng Đảng Quốc xã bằng một loạt thơ nóng bỏng. Năm 1945, hắn mất chỗ hiệu trưởng. Tuy nhiên, cũng như một số đảng viên khác, hắn sống một cách khá đầy đủ tiện nghi khỏi phải đi làm, nhờ có tiền hồi hưu.
Nhà điêu khắc Kurt Bach sống luôn sáu năm trong một trại tập trung và trở về què quặt. Hiện nay, mười năm sau cuộc thảm bại, hắn vẫn phải vất vả để nuôi miệng cũng như bao nhiêu nạn nhân khác của chiến tranh. Hắn chỉ mong kiếm được mỗi tháng bảy chục ngàn Đức kim, khoảng một phần mười tiền trợ cấp cho Hungermann, khoảng một phần mười số tiền mà nhà nước cấp dưỡng cho viên chúa trùm mật vụ Gestapo, người ta có sáng kiến lập các trại tập trung mà Kurt bị nhốt và trở về què quặt... Đó là chưa kể các khoản trợ cấp cao hơn cho các tướng lãnh, tội nhân chiến tranh, và các đảng viên Quốc Xã khác. Henri Kroll, vượt thoát mọi biến cố, nhận thấy mọi quyền hạn và công lý vẫn còn đứng về phía quê hương yêu dấu của chúng tôỉ.
Viên trung đội trưởng thiết kỵ Wolkeinstein rất lên hương. Người của Đảng và kỳ thị chủng tộc hết mình, sau chiến tranh, im hơi lặng tiếng luôn vài năm và bây giờ, cũng như bao nhiêu đồng chí khác, được làm nhân viên Bộ Ngoại giao.
Bodendick và Wernicke cố giấu được một số người Do Thái trong trại điên bất trị. Họ cho những người trốn tránh cạo đầu và học cách giả điên. Sau đó ít lâu, Bodendick bị thuyên chuyển về một làng hẻo lánh vì đã lỡ nói một vài lời bất ý khi đức Giám mục của ông ta chấp nhận làm cố vấn cho một chính phủ chỉ lấy chuyện tàn sát làm bổn phận thiêng liêng. Wernicke cũng bị đổi đi vì không chịu chích thuốc độc cho những người điên. Trước khi ra đi, ông ta đã tập hộp được một số dân Do Thái và tổ chức một cuộc chạy trốn, ông ta bị gởi ra mặt trận và chết ở đó năm 1944. Willy ngã gục năm 1942. Otto Bambuss năm 1945. Charles Kroll năm 1944. Lisa chết trong một cuộc ném bom. Bà Kroll cũng cùng chung số phận. Truyện "Bia Mộ Đen Và Bầy Diều Hâu Gãy Cánh " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Edouard Knoblock thì vượt qua tất cả. Hắn phục vụ tất cả các quyền lực, tốt cũng như xấu, với tất cả nhiệt tâm. Nhà hàng của hắn bị phá hủy nhưng đã được xây cất lại. Hắn không cưới Gerda và không ai biết cô ta hiện ra sao. Tôi cũng chằng được một tin tức nào về Geneviève Terhoven.
Oscar “mắt treo cờ tang” dựng nghiệp một cách huy hoàng. Lúc chiến tranh xảy ra hắn bị gởi sang Nga làm lính trơn và kế đó được chỉ định làm Thanh Tra nghĩa địa. Năm 1945, hắn làm thông dịch viên cho quân đội chiếm đóng và chỉ vài tháng sau được làm Thị trưởng. Thị trưởng Werdenbruck. Kế đó hắn hùn với Henri Kroll, cả hai tạo dựng một xưởng mới và rất phát tài. Vào thời đó mộ bia cũng khan hiếm như bánh mì.
Lão Knopf chết ba tháng sau khi tôi rời khỏi Werdenbruck. Lão bị xe hơi cán nát người. Một năm sau, vợ lão thành hôn với Wilke, anh chàng đóng hòm. Không ai nghĩ là chuyện đó có thể xảy ra, nhưng họ đang sống rất hạnh phúc.
Hầu hết những nhà cửa tại Werdenbruck đều bị tàn phá vì các trận oanh tạc. Thị trấn này là giao điểm của thiết lộ nên bị tàn phá nhiều hơn các nơi khác: một năm sau khi chiến tranh kết thúc, nhân một chuyến về đây, tôi cố tìm lại những con đường cũ nhưng cuối cùng lại đi lạc ngay trong thành phố quê hương. Quanh tôi là những bức tường sụp đổ. Những đống gạch ngói ngổn ngang và không một bóng người quen thuộc. Vào một sạp hàng ở nhà ga, tôi mua một vài tấm bưu thiếp để nhìn lại những đường phố trước kia. Không còn gì buồn hơn là khi muốn nhớ về tuổi trẻ, người ta trở về quê hương để chỉ thấy điêu tàn. Ngày nay, ở Đức những cuộc hành hương trở về tuổi trẻ đều gần như không thực hiện được. Tất cả đều được tàn phá và được tái thiết, trông xa lạ vô cùng. Chỉ còn những tấm bưu thiếp là thay thế được cho những thành phố chết. Truyện "Bia Mộ Đen Và Bầy Diều Hâu Gãy Cánh " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com) Truyện "Bia Mộ Đen Và Bầy Diều Hâu Gãy Cánh " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Chỉ còn hai tòa nhà nguyên đẹp: viện Tâm trí và nhà Bảo sanh vì ở cách xa thành phố nên chúng được bom đạn chừa ra (sau chiến tranh viện Tâm trí lại đầy nhóc những người điên và nhà Bảo sanh tràn ngập những sản phụ). Người ta đang nghĩ cách mở rộng thêm ra.