11
Người dịch: Vũ Kim Thư
Nguồn: NXB Văn Nghệ TPHCM
Nội dung thu gọn
Mưa như thác đổ. Mùa hè ngập lụt gây nên lạnh và đô-la trị giá một trăm hai mươi ngàn Đức kim. Một khúc ống máng bỗng sút ra rơi phịch xuống, nước tuôn xối xả sát cửa sổ như một suối mảnh vụn thủy tinh. Tôi đang bận bán hai bức tượng thiên sứ bằng sành và một vòng hoa bất tử cho một thiếu phụ mảnh khảnh vừa mất hai đứa con nhỏ vì bịnh cúm. Phòng bên cạnh, Georges ho khúc khắc. Y cũng bị cúm nhưng tôi đã chữa cấp tốc bằng một bình rượu chát nóng. Chung quanh ly là khoảng nửa chục tạp chí nói về các cuộc hôn nhân, ly dị và những vụ ô nhục trong giới thượng lựu ở Cannes, Bá Linh và Ba Lê. Henri Kroll thì vẫn cứ quần sọc kẹp ở ống và áo đi mưa sậm màu. Ông ta bước vào, lại nói với giọng khinh khỉnh :
- Nêu tôi đọc vài món hàng được đặt mua, có làm phiền gì ai không?
- Không bao giờ. Vẫn hoạt động đều à?
Ông ta thản nhiên dở sổ đọc lớn :
- Bia cỡ trung bình bằng đá đỏ, một tấm đan bằng cẩm thạch. Chẳng có gì đặc biệt. Truyện "Bia Mộ Đen Và Bầy Diều Hâu Gãy Cánh " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Ông ta còn đứng một lúc quan sát những mẫu đá đã có từ trên hai mươi năm ở các kệ hàng mẫu.
Tôi hỏi :
- Vụ Wutringen, có bắt được bọn giết anh chàng thợ mộc không?
- Ai bảo thế? Ai bảo là án mạng. Đó chỉ là tai nạn. Còn các người, tại sao lại tặng cho vợ chàng thợ mộc đó một tấm bia? Bô dư giả lắm sao?
Tôi quay mặt ra cửa sổ nhìn mưa. Henri Kroll thuộc về hạng người không bao giờ đặt nghi vấn, đó là hạng người nguy hiểm khó giao địch. Trên nước Đức chúng tôi, họ hợp thành một khối sắt đá mà người ta có thể tin cậy mở một cuộc chiến mới. Những đại họa không làm họ thức tỉnh, họ là những kẻ vừa lọt lòng đã đặt ngón tay út ở nạp quần và hãnh diện khi được đứng nghiêm.
Ông ta lải nhải kể là đã nói chuyện thật lâu với viên Chủ tịch xã Wustringen và cuối cùng lão Dobbeling đồng ý để cho chúng tôi tiếp tục bán mộ bia cho xã lão ta.
Tôi phát cáu :
- Vậy phải cảm ơn thằng cha ấy chớ gì? Có cần đưa đít ra không?
Henri trợn mắt :
- Coi chừng! Đừng quá trớn!
- Thế nào là quá trớn?
- Nên nhớ chú mày là nhân viên.
- Xin lỗi, tôi quên mất. Nhưng ông quên trả cho tôi ba phần tiền lương: họa sĩ, trưởng văn phòng và trưởng ban quảng cáo. Và tôi cũng nhắc lại, ở đây không phải là quân đội, không phải cấp trên ra lệnh cho cấp dưới. Và còn nói giọng đó nữa là tôi bỏ qua làm cho hãng Hollmann và Klozt ngay. Họ đang cạnh tranh, chắc chắn tôi sẽ được tiếp đón niềm nở hơn.
Thình lình cửa bật mở và Georges hiện ra trong bộ đồ ngủ đỏ :
- Henri, phải anh nói chuyện Wustringen không?
- Rồi sao?
- Vậy, anh nên đi tìm một cái bàn nào ở quán rượu để trốn đi. Ở Wustringen họ đã giết chết một người. Một mạng sống bị cưỡng đoạt. Đối với bọn mình, vậy là hết. Mỗi một vụ giết người đều là một vụ sát nhân đầu tiên trên thế giới Cain và Abel, lịch sử muôn đời. Nếu anh và các đồng lõa của anh hiểu được điều đó thì trên quê hương này, không có tiếng kêu thương của chiến tranh.
- Bọn liếm giày trước hiệp ước ô nhục Versailles!
Georges sấn tới một bước, mặt đỏ gay :
- Hiệp ước Versailles! Chớ sao? Nếu mình thắng trận có lẽ mình sẽ ôm kẻ thù hôn hít và còn tặng quà cho ho nữa phải không? Anh có nhớ là chính anh và những kẻ cùng một loại như anh định làm gì không? Các người định thôn tính Ukraine, Brie, Longwy và trọn vùng mỏ than của Pháp, có nhớ không? Họ có lấy vùng La Ruhr của mình đâu! Mình vẫn còn mà. Bộ anh cũng quên mất là các người cùng loại như anh muốn biến nước Pháp thành một loại quốc gia đứng vào hạng thứ ba sao? Các người bảo là phải nuốt gọn từng mảnh lớn của Nga, phải buộc những nước thù nghịch đổ máu ra để dâng hiến tất cả những nguyên liệu của họ cho Đức quốc. Vậy mà bây giờ anh vẫn có thể tru tréo như chó sói sao, Henri.
Lúc nào bọn các người cũng coi người khác là tội phạm trong khi chính bọn các người mới là những tên ngụy thiện.
Càng nói, Georges càng giận dữ hơn, mặt đỏ sậm như bộ quân áo ngủ của y. Henri lùi lại, quát lớn :
- Đừng tới gần tao! Bộ muốn lây bệnh cho tao hả? Mày muốn làm cho cả hãng này cúm hết để mạt rệp luôn sao?
Nhìn hai anh em phùng mang trợn mắt với nhau, tôi không khỏi vừa buồn cười vừa xẩu hổ. Lisa từ bên kkia đường, đứng ở cửa sổ chứng kiến màn hoạt cảnh của anh em nhà Kroll. Cửa phòng của lão Knopf cũng mở toang. Trời tiếp tục mưa to như một bức màn làm bằng hạt thủy tinh. Anh chàng thợ mộc Wilke chay ngang qua sân với tàng dù trông như một cái nâm khổng lồ biết đi.
Henri đã bỏ ra ngoài sân. Tôi nói với theo :
- Nhớ xúc miệng bằng acid chlorhydrique nghe không? Những người khỏe mạnh giả tạo dễ bị cúm cuỗm mất mạng như chơi.
Thình lình, Georges cười phá lên :
- Ngu ơi là ngu! Ai lại đi nới chuyện phải quấy với một kẻ đần độn đến tận cùng!
Tôi hỏi :
- Anh kiếm đâu ra bộ pyjama đỏ chói vậy?
Từ bên kia đường, Lisa hoan hô chúng tôi inh ỏi. Thị là ả đã vi phạm chủ nghĩa Quốc xã của người chồng đang nuôi mộng sẽ trở thành tổng giám đốc của tất cả những lò sát sinh. Một khi Hitler thành công. Georges nghiênh mình, một tay đặt vào chỗ trái tim. Tôi hơi ngại cho y :
- Anh trở vào ngủ một giấc đi. Mồ hôi ướt cả áo.
Georges lắc đầu :
- Đổ mồ hôi là tốt. Chính trời cũng đang đổ mồ hôi đó, có sao đâu. Nhưng vấn đề hiện tại là mình sống để làm gì đây? Tại sao mình không phải là đuôi sao chổi? Hay là một tên viết mướn ở Hollywood để thỉnh thoảng mò mẫm mấy cô đào hát? Tại sao cứ phải ở chết một xó mà không tổ chức một đoàn lữ hành băng sa mạc Phi châu? Tại sao không làm chủ một nhà chứa điếm ở Yokohama? Chú mày trả lời xem. Phải trả lời ngay. Chú mày có thích bơi trong các biển vùng nhiệt đới vào lúc mặt trời lặn với những đàn cá màu đỏ tía không?
Georges với lấy chai rượu mạnh. Tôi chận lại : Truyện "Bia Mộ Đen Và Bầy Diều Hâu Gãy Cánh " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
- Không được, còn rượu chút mà. Để tôi hâm một bình cho. Cúm không được uống rượu mạnh.
- Được, hâm rượu chát đi. Nhưng tại sao mình không ở trên quần đảo Esprérance để sống gần những người đàn ba hôi mùi quế, và hay đảo tròn lòng mắt mỗi khi nổi dâm tính? Đâu trả lời coi!
Lửa trong lò dầu cháy sáng xanh, bên ngoài trời mưa như tiếng sóng gầm trên biển cả. Tôi nốc vội một ngụm rượu mạnh để lấy nhiệt khí rồi hô lớn :
- Thưa thuyền trưởng, tàu đang bỏ neo trong vùng Santa Cruz Lisbonne và Côte d’Or. Bọn bị bắt sống ở Mohammed ben Hassan Watzek đang ra dấu hiệu. Đây, ống điếu bình.
Tôi trao cho Georges một điếu xì-gà. Y đốt hút ngay và phun ra nhiều vòng khói tròn vo, rồi hạ lệnh :
- Nhổ neo! Chắc gần tới nơi rồi!
- Khoan, Thuyền trưởng! Chúng ta kể như luôn luôn đã tới nơi và tới bất cứ lúc nào. Thời gian chỉ là một định kiến. Rất tiếc là không có cách nào hiểu được bí mật của sự sống. Con người cứ phải vùng vẫy để tới một nơi nào đó mà mình không biết.
- Tại sao không biết?
- Thời gian, không gian và thuyết nhân quả đều là những tấm băng bịt mắt.
- Tại sao?
- Đó là nhũng ngọn roi mà Thượng Đế giơ ra để con người tự hiểu mình không thể bằng Trời. Đấng Tối cao già cỗi đó đưa chúng ta đi trên một ảo cảnh đầy ảo giác và thảm trạng nhị nguyên.
- Sao gọi là nhị nguyên?
- Nhị nguyên của ta và thế giới, của con người và thế giới của chủ thể và đối tượng. Và hậu quả là sanh ra và chết đi.
Rượu bắt đầu sôi. Hương vị hải đảo tràn ngập văn phòng với mùi đinh hương và mùi chanh. Tôi cho đường vào ly, rót rượu cho cả hai. Lại có tiếng hoan hô từ cửa sổ của Lisa. Chúng tôi cùng nghiêng mình rồi đặt ly xuống. Georges vẫn thắc mắc :
- Nhưng tại sao con người không bất tử?
- Xin lỗi thuyền trưởng. Bất tử là phản nghĩa của sự chết. Muốn được vậy trước hết những tấm băng che mắt phải được lột bỏ đi. Lúc đó không còn vấn đề nhị nguyên nữa vì cả hai đã là một.
- Cũng chưa đủ.
- Anh muốn thế nào?
- Hiện hữu, chỉ có vậy thôi.
- Hiện hữu hay không hiện hữu. Thưa Đô đốc, vấn đề lại lẩn quẩn. Dầu vậy, mình vẫn tìm lối thoát.
- Không được đâu. Cứ cái đà này thì mỗi lần miệng buông ra một tiếng nào đó là lại nghĩ ngay tới một tiếng phản nghĩa của nó. Không được, chỉ có lặng câm cho tới khi xuống mồ là xong. Có phải không, thủy thủ?
Tôi không trả lời, nâng ly rượu lên. Tư nhiên, tôi lấy một mẩu đá bày trên kệ. Tôi chỉ Lisa, chỉ màu rượu trong ly và hòn đá rồi đặt tất cả xuống và nhắm mắt lại.
Lại có tiếng vỗ tay náo nhiệt của Lisa. Ả đưa về phía chúng tôi một lọ cacao. Ngay lúc ấy có tiếng chuông reo ở cửa. Chúng tôi ra dấu cho Lisa và khép cửa sổ lại. Trước khi Georges kịp chuồn về phòng, lão Liebermann, gác dan của nghĩa địa thị xã đã vào tới. Ông ta nhìn bếp dầu, bình rượu chát nóng và bộ pyjama của Georges rồi cất giọng rượu nhừa nhựa :
- Sinh nhật hả?
- Cúm.
- Chúc mừng.
- Sao lại chúc mừng?
- Cúm, tốt lắm. Tốt cho mộ bia.
Tôi làm ra vẻ đứng đắn :
- Ông Liebermann, đừng nên nói chuyện nghề nghiệp như vậy. Ông Kroll đây bị cúm nặng nên chúng tôi phải dùng tất cả những phương tiện kinh khủng để giải trừ. Có dùng một ly thuốc với lụi này không?
- Khoan đã! Tôi chỉ uống rượu mạnh thôi, khi nào uống rượu chát vào tức là để giã rượu.
- Thưa nhà thầu xác chết, bọn này cũng có cả rượu mạnh..
Tôi rót cho ông ta một ly đầy. Ông ta uống một hơi và tuột cái bao trên vai xuống, trút ra bốn con cá hương bọc kỹ trong lá xanh.
- Tặng cho mấy người đây. Nấu canh là ngon tuyệt. Nhứt là cho ông Kroll. Đang bệnh cần ăn loại thịt dễ tiêu.
Tôi mang cá vào bếp giao cho bà Kroll.
Bà ta ngắm nghia mấy con cá còn tươi và gật gù :
- Một mớ bơ tươi, khoai luộc và xà lách.
Tôi nhìn quanh. Những cái soong bóng láng, một cái chảo đang xèo lửa trên lò... tất cả những nhà bêp đều là hình ảnh của một sự an ủi. Tôi lại nhìn mấy con cá. Chắc chúng chẳng trách móc gì. Dầu sao chúng cũng chỉ là một thứ thức ăn. Nước miếng trong miệng tôi sắp chảy ra. Vậy là tinh thần bác ái nhượng bộ sự thèm muốn của dạ dày quá sớm.
Liebermann có mang theo một vài địa chỉ. Bệnh cúm đã lan rộng. Nhiều người chết vì không còn đủ sức để chịu đựng, trong thời chiến họ đã phải đói khát quá lâu. Tôi chợt nảy ý đổi nghề. Georges đã mặc áo tắm màu xanh thẩm. Ở nhà, hắn thích mặc những màu thật đậm. Thình lình, một cảm nghĩ của Isabelle trở lại với tôi. Tôi không nhớ rõ được ngôn ngữ nhưng biết đó là một ảo ảnh về sự vật. Phải chăng lúc nãy tôi đã là nạn nhận của ảo ảnh? Hay là chỉ trong khoảnh khắc tôi đã trở về cùng Thượng đế?
Căn phòng tại nhà hàng Walhalla dành cho thi đoàn hội họp là một cái buồng nhỏ bọc gỗ quanh tường: một pho tượng bán thân của Goethe ngồi chễm chệ trên một kệ sách, trên tường treo những tượng chạm và hình ảnh. Đây là nơi tụ họp hàng tuần của giới trí thức trong thị xã Werdenbruck. Ngay đến ông trưởng ban biên tập của tờ báo địa phương cũng thỉnh thoảng góp mặt. Sự hiện diện của ông ta được mọi người đón tiếp long trọng nhưng khi ông ta vắng mặt thì không tránh được những lời nguyền rủa của những kẻ gởi bài không được đăng.
Ngoài ông ta còn có một vài cố vấn tòa án và một số công chức hồi hưu tự coi mình là trí thức. Thêm vào đó còn có Arthur Bauer cùng vài một người bạn, một số thi sĩ của thành phố, các nhạc sĩ và đôi khi có cả khách danh dự.
Arthur Bauer vừa tới là được Matthias Grund tới tấp nịnh bợ với hậu ý sẽ được giúp đỡ để xuất bản quyển “Luận đề về sự chết”. Edouard Knoblock, người sáng lập thi đoàn, hiện ra. Hắn nhìn quanh, nhận diện từng người và mặt sáng rỡ ra. Những kẻ thường chỉ trích, phê bình hắn, không có mặt. Tôi không khỏi ngạc nhiên khi hắn tới ngồi gần bên tôi. Hắn chào hỏi với giọng thân mật, dĩ nhiên là không phải với cái giọng chủ nhà hàng :
- Mạnh giỏi chớ, Louis?
Tôi vẫn không ưa được :
- Mạnh lắm, mạnh đến nỗi có thể làm bồ thối chí.
- Mình đang chuẩn bị sáng tác một loại thơ mười bốn câu. Bạn có ý kiến gì không?
- Chẳng có ý kiến gì cả. Chỉ mong được hợp vần hợp điệu.
Tôi vẫn tự liệt mình vào hạng trên Edouard vì đã có hai bài thơ đăng báo. Edouard không nản, hắn vẫn giữ giọng trầm trầm :
- Mình định đặt tựa là GERDA.
- Muốn đặt gì thì đặt... Ủa! Gerda à? Sao lại Gerda? Gerda Schneider hả?
- Không, chỉ lấy Gerda vắn tắt thôi.
Tôi trợn mắt nhìn cái túi mỡ đang đối điện :
- Bồ muốn đùa gì đây?
Edoarad cười gượng :
- Không phải đâu. Hồn thơ mà. Trong thơ có một vài đoạn liên quan tới gánh xiệc nên mình liên tưởng đến Gerda để nuôi dưỡng ý và hồn.
- Thôi cho xin. Người bạn giả dối ơi, bạn thật sự muốn gì?
Edouard lại cười :
- Giả dối? Chính bạn mới xứng đáng với danh hiệu đó. Bạn làm tôi lầm tưởng cô ấy cũng là ca sĩ cũng giống như cô bạn của Willy.
- Không bao giờ. Chính bạn tưởng tượng ra thì có. Bạn không nhớ tôi bảo là cô ta ở trong gánh xiệc sao?
- Có. Nhưng bạn nói cong queo, quanh co để tôi hiểu khác đi. Tôi không tin nên mới đích thân điều tra.
- Ai nói cho biết?
- Tôi tình cờ gặp cô Schneider ngoài đường. Có quyền chớ?
- Hừ, đừng tưởng là cô ấy sẽ mê.
Edouard cười dễ ghét :
- Không ai tưởng như vậy đâu. Đó là hạng người không bao giờ bị mê hoặc bởi thi văn.
Không chịu nổi nữa, tôi hét vào tai hắn :
- Đồ đểu! Đừng mất thời giờ vô ích! Con bé đó chỉ còn ở có vài ngày nữa thôi.
Lần đầu tiên tôi được thấy hắn nhe răng ra :
- Cô ta chưa đi đâu. Mới gia hạn giao kèo hôm nay.
Tôi nhìn hắn đăm đăm. Vậy là tên xỏ lá này biết rành hơn tôi.
- Hôm nay bạn cũng gặp Gerda nữa hả?
Edouard luống cuống :
- À... chỉ tình cờ ngẫu nhiên.
Tôi biết ngay là hắn nói dối. Tôi tìm cách phản công :
- Hừ, bạn đối xử với khách hàng như vậy à?
- Khách hàng như bạn thì tôi cũng lạy luôn cả nón...
Tôi ngắt lời hắn :
- Đồ ba que, cái thứ làm thơ như vậy mà cũng định đem đi tặng. Trả ơn bằng cách đó phải không? Ai đã dạy bồ làm thơ mười bốn câu. Quân ma cô, đồ điếm vườn! Nhưng, không cần. Cứ tặng đi thế nào rồi Gerda cũng đưa cho thằng này coi, và thằng này sẽ làm ơn diễn dịch cho rõ ràng hơn.
Eduoard trợn mắt :
- Bỉ ổi!
- Bỉ ổi nhưng thông thường. Đàn bà nào cũng vậy. Này, tôi bảo cho bồ biết là Gerda có một ông anh khổng lồ sẵn sàng bảo vệ danh tiết gia đình. Anh ta đã đấm vỡ mặt ba đứa muốn tằng tiu với Gerda. Bồ nên đề phòng là vừa.
- Cóc sợ!
Hắn làm ra vẻ bất cần nhưng tôi thấy rõ là hắn hơi lo. Kể cũng lạ khi người ta đã nhứt quyết tin tưởng vào một việc gì, không dễ dàng gì đánh lạc được lòng tin đó. Tư tưởng Quốc Xã của gã đồ tể Watzek là một bằng chứng rõ ràng.
Anh chàng nhà thơ Hans Hugermann tới ngồi gần chỗ chúng tôi. Hắn mở hơi bất bình của con người yêu văn nghệ :
- Chẳng biết thi văn rồi sẽ đi tới đâu? Bạn xem thằng Otto Bambuss mà cũng gởi tác phẩm đồ bỏ tới nhà báo. Chẳng biết rồi họ có đăng cái thứ phân chuồng đó lên không?
Otto là người sáng chói nhứt thị xã mà cũng là một thứ trang sức của thi đoàn bọn tôi. Hắn thích loại thơ tả thắng cảnh, tả những vùng quê xinh đẹp, những góc phố vào khi nắng tắt. Nhiều người ghét hắn, nhưng tôi thì ngược lại. Hắn thích đi nhà thổ nhưng không dám. Hắn cho rằng có vào đó một lần thì hồn thơ của hắn mới có thể lai láng ra chớ không thì mỗi ngày nó một tàn lụi.
Vừa thấy tôi, hắn tới hỏi ngay :
- Nghe nói mày có quen một cô đào trong gánh xiệc phải không?
- Quen biết gì đâu. Chính thằng cha Edouard dồn như vậy. Tao chỉ biệt một cô bán vé ở gánh xiệc cách nay ba năm.
- Bán vé à? Cũng không sao. Họ cũng đi đó đi đây. Tự nhiên họ phải có một cái gì gợi hứng. Thí dụ như mùi dã thú. Giới thiệu với tao được không?
Vậy là Gerda quả cô duyên với văn nghệ. Tôi quan sát Otto. Hắn cao lông ngông, mặt xìu như người ăn chay, cằm lẹm. Tôi đáp :
- Cô ta làm chung với mấy người huấn luyện bò chét.
Otto chán nản :
- Vậy là không được. Tao cần thứ khác. Phải có cái gì có tính chất thần kinh hoặc dính líu tới máu me.
Là giáo học ở một làng hẻo lánh, Otto chỉ nhìn thấy toàn những cảnh vật trầm buồn, không làm sao gợi được nguồn thi hứng như hắn tưởng. Hắn tuyên bố :
- Một nhà thơ phải sống với hồn thơ. Phiền một điều tao không làm sao nhập được hai thứ tình yêu thiên đường và hạ giới. Tình yêu đối với tao là sự dịu dàng, tinh thần phụng sự, ý lực hy sinh và lòng tốt. Bản năng tình dục cũng rất đáng kể. Rất tiếc là cuộc sống của tao chán ngấy. Tao đang cần một chút lửa.
Tôi nhìn Otto, không khỏi cảm thấy thích thú. Cả thằng này cũng nói tới tình yêu thiên đình và hạ giới. Con vi khuẩn đó không ngờ lại sanh sôi nảy nở nhang chóng hơn tôi tưởng.
Otto hỏi tôi với giọng bi thiết :
- Chừng nào dẫn tao đi phạm tội? Mày hứa rồi mà.
- Yên chí! Tao sẽ đưa đi.
- Chỉ còn hai tuần nghỉ hè nữa thôi. Sau đó tao lại trở về làng và vĩnh biệt nhà thổ.
- Được, tao sẽ đưa đi trước đó. Mình đi cả đám được chớ, Hungermann cũng muốn đi để lấy hứng cho tác phẩm Casanova.
- Làm cách nào đừng để người quen thấy mặt. Họ thấy là tao chết. Một thầy giáo làng...
- Mình càng đông, cuộc đi chơi càng có vẻ vô hại. Dưới nhà có một quán rượu, ai cũng có quyền tới.
Hungermann ngồi phía sau tôi, phụ họa :
- Chắc chắn là phải đi. Đi một đám. Đi thám hiểm, sưu tầm khoa học, chẳng có gì đáng ngại, cả Edouard cũng đi.
Tôi quay lại, định đổ thêm dấm chua vào hắn, nhưng một tay tứ chiếng vừa xuất hiện làm gã kinh hoàng như gặp rắn. Người kia vỗ mạnh vào vai hắn :
- Edouard, lúc này ra sao? Vẫn còn sống, phải không thằng ngốc?
Edouard nhìn lấm lét vào người ốm nhom nói như nghẹn :
- Lúc này...
Hắn chỉ nói được bao nhiêu đó rồi lặng thinh, má chảy xệ xuống, môi hắn, tóc hắn và cả cái bụng hắn cũng chảy xệ xuống. Chỉ trong phút chốc hắn thành cây liễu rũ.
Nhân vật chịu trách nhiệm và sự biến thể đó là Valentin Busch. Cùng với Georges và tôi, hắn là tai họa thứ ba của Edouard. Hắn vẫn thản nhiên thân mật chết người với Edouard.
- Coi bộ khỏe mạnh lắm, phải không con heo?
Edouard cười gượng :
- Đừng có nhìn bề ngoài. Chết rã ra vì đủ thứ: thuế má tùm lum lại còn bị lường gạt.
Hắn nói dối. Thuế má trong thời kỳ lạm phát chẳng nghĩa lý gì cả so với lợi tức thâu vào với khoản tiền có thể trả dần trong một năm. Còn chuyện lường gạt là hắn muốn ám chỉ vào tôi.
Valentin vẫn cười :
- Đối với bồ thì có sao đâu. Hễ đói thì cứ lấy mỡ thừa trong người ra ăn. Chính bọn nó cũng muốn làm như vậy khi bồ bị thương ở vùng Flandres.
Edouard vặn người :
- Valentin, bạn đứng nói bóng gió nữa. Có cần uống bia không? Trời nóng thế này dùng bia là tốt nhất.
- Cám ơn, không thấy nóng. Và cám ơn Trời đã để cho bồ còn sống. Cho một chai Johannisberg Langenberg được không?
- Bán hết rồi.
- Đừng láo! Tao hỏi thằng quản lý rồi. Bồ còn hơn trăm chai. Nên nhớ đó là loại rượu chát quý nhứt đối với tao.
Tôi cười lớn. Edouard phát cáu :
- Cười gì? Cười không phải chỗ! Bọn hút máu người! Tất cả các người đều là loại hút máu tươi. Mày, thằng bán mộ bia và mày. Valentin, cứ ỷ vào công cứu tao thoát chết! Toàn là thứ ăn hại!
Valentin nháy mắt với tôi và vẫn giữ giọng phớt tỉnh :
- Hay quá, đó là cách bồ trả ơn sao? Còn lời hứa cũ đâu? Nếu biết vậy, lúc đó tao cứ để...
Hắn vén tay áo phải lên quá khuỷu tay để lộ một vết thẹo dài sọc, nhăn nheo như răng cưa. Năm 1917, cứu mạng cho hạ sĩ quan quân nhu Edouard Knoblock. Trong một cuộc hành quân tiền sát, Edouard bị một mảnh trái pháo ghim vào bắp chân rồi một trái thứ hai nổ tiếp theo làm máu tuôn như suối. Valentin băng tạm cho hắn rồi dìu hắn tới hầm núp. Trong khi cứu đồng đội Valentin bị mảnh đạn đại bác ghim vào tay. Dầu vậy, hắn đã kịp thời cứu Edouard khỏi chết vì mất máu. Quá cảm động, Edouard hứa là sẽ đãi ăn, đãi uống trọn đời cho Valenlin tại nhà hàng của hắn. Sau đó, cánh tay phải của Valentin bất động luôn, và tôi cùng Georges đã chứng kiến nội vụ. Truyện "Bia Mộ Đen Và Bầy Diều Hâu Gãy Cánh " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Năm 1917, những lời nói gần như vô nghĩa vì thành phố Werdenbruck ở xa trong khi chiến tranh đang sát nách, làm thế nào để biết được là Valentin và Edouard còn có ngày gặp được nhau tại nhà hàng Walhalla?
Nhưng rồi cả hai đều trở về. Lúc đầu, Edouard hết sức nhiệt thành, có khi hắn còn đãi cả sâm banh cho người ơn. Nhưng rồi lần lần, tình nghĩa nhạt phai đi trước thời buổi khó khăn. Đã vậy Valentin lại còn là một tay sành rượu nên càng ngày Edouard càng có ý nghĩ coi vị cứu tinh của mình là một tên lường gạt.
Nhìn thấy vết thẹo của Valentin, Edouard hắng giọng :
- Được rồi, nhưng chuyện ăn uống phải có giờ giấc. Hồi đó không có chuyện hứa ngoài những bữa ăn.
Hắn gọi gã hầu bàn :
- Cho nửa chai Moselle.
Valentin cãi lại ngay :
- Không được, phải có Johannisberg Langenberg mới được. Và phải nguyên chai. Uống với tao chớ, Louis.
Tôi cười :
- Sao cũng được.
Edouard kêu lên :
- Không. Điều này không có trong giao ước. Chai rượu là của riêng một mình Valentin. Phần thằng Louis, nó phá hại không biết bao nhiêu với mấy cái phiếu ăn mất giá của nó rồi.
Tôi trả đũa tức khắc :
- Im đi là vừa! Bạn xạ kích tôi bằng cách định tặng thơ cho Gerda thì tôi phải lau các vết thương lòng trong dòng sông rượu của bạn chớ. Hay là bạn muốn tôi gởi cho cô ta hai bài tứ cú để diễn tả sự phản bội đối với kẻ đã cứu mạng sống của mình.
Edouard làm như nghẹt thở :
- Quân đểu cáng, bọn lưu manh, ma cô ma cạo!
Và hắn bỏ đi ra. Otto lại tới chỗ chúng tôi. Valentin vừa rót rượu vừa hỏi :
- Tại sao người ta thích uống rượu giữa lúc trời mưa?
- Bản năng kết đoàn mà. Nước này kêu gọi thứ nước kia cũng như tội lỗi kéo theo tội lỗi.
- Có lý. Nhưng mà mình cũng đi tiểu hơi nhiều vào những ngày mưa.
- Đi tiểu là tại uống vào nhiều. Có gì đáng ngạc nhiên đâu.
Valentin gật gù :
- Rất đúng. Nhưng còn chiến tranh thì sao? Có cần gây thêm chiến tranh chỉ vì con người sanh đẻ quá nhiều không?
29.07.2014
12
Người dịch: Vũ Kim Thư
Nguồn: NXB Văn Nghệ TPHCM
Nội dung thu gọn
Tới gần ngôi tiểu giáo đường, tôi gặp Bodendick đang đi trong sương mù, mặt tươi tắn. Ông ta hỏi tôi :
- Sao? Có còn cố gắng cải thiện thế giới nữa không?
- Chỉ nhìn thấy giáo sĩ là tôi cũng đủ yên lòng.
- A! A! Lại triết lý rồi. Có kết luận nào đáng kể không?
Tôi quan sát khuôn mặt đỏ bóng :
- Tôi nghĩ là trong vòng hai ngàn năm nay, Thiên Chúa giáo chưa thay đổi được bao nhiêu?
Mặt ông ta nhăn lại nhưng chỉ trong một thoáng đã trở lại bình thường :
- Cậu bé có biết là cậu còn quá trẻ đối với những nhận định loại đó không?
- Có biết, nhưng trách một người chỉ vì họ còn trẻ dường như không đúng lắm. Chẳng biết Ngài có để ý chúng ta đang chuẩn bị một cuộc chiến tranh nữa hay không? Chuẩn bị chiến tranh giữa lúc Ngài và tôn giáo bạn không ngớt cầu nguyện và truyền bá tình thương nhân loại.
Bodendick lắc cái nón đen cho những hạt mưa xuống :
- Cậu quên là chúng tôi đã từng cầu nguyện cho những kẻ sắp chết ngoài chiến trường rồi sao?
- Theo tôi thì quý vị không cần phải tới đó. Tại sao không ngăn cấm tín đồ của mình gây chiến. Điều mà tôi để tâm là mỗi lần làm lễ trong quân đội các tuyên úy đều cầu nguyện cho nước ta thắng trận. Jesus Christ có câu nguyện cho dân Galiléens thắng dân Philislins không?
Bodendick trở lại giọng đắn đo :
- Dường như cơn mưa khiến cậu quá nhạy về những lập luận phỉnh mị. Cậu cũng thừa hiểu lả chỉ cần một chút khéo léo và cách xoay trở sự việc chỉ còn nhìn thấy có một khía cạnh thôi thì bất cứ ai cũng có thể chứng minh được những gì mà mình muốn.
- Tôi biết. Và chính vì vậy mà tôi đọc sử luôn mấy tuần nay. Ở trường cũng như trong tôn giáo, người ta dạy tôi là trước khi đấng Christ giáng sinh, thế giới chỉ có toàn những sắc dân hoang dại và tàn ác. Nhưng rồi chỉ tới nay, thế giới đã cải thiện được gì - ngoại trừ một số tiến bộ về khoa học mà chúng ta khai thác phần lớn cho nhu cầu giết người càng nhiều càng tốt.
Bodendick cười lớn :
- Cậu Bodmer, trong gần hai ngàn năm nay, đã có hơn một người Saul trở thành thánh Paul. Cứ tiếp tục làm cua bò đi. Ở bất cứ đầu đường nào cậu chọn, Chúa cũng có mặt ở đó.
Ông ta đi khuất vào trong giáo đường.
Sau giờ lễ thánh ca, tôi và Isabelle đi dạo. Mưa rớt từng vũng như loài ma quái giỡn nước trên các tàng cây. Isabelle mặc áo mưa màu xậm gài tới cổ với nón trùm tóc. Trong bóng tối mờ, chỉ còn có khuôn mặt hiện ra. Trời lạnh và nhiều gió. Chỉ có bọn tôi ở trong vườn. Isabelle đi sát vào người tôi, tôi nghe tiếng bước chân nàng, cảm nhận hơi ấm và từng cử động. Dường như đó là hơi ấm duy nhứt còn lại trên thế giới này dành riêng cho tôi.
Thình lình, nàng dừng lại. Mặt tái xanh, mắt bỗng đen hơn thường lệ, nàng bảo tôi bằng giọng xẵng :
- Anh không thương tôi bao nhiêu.
Tôi ngạc nhiên :
- Có chớ. Isabelle.
Nàng nín lặng một lúc rồi thì thầm :
- Không đủ, nếu không chúng mình đâu có sống riêng nhau.
Chúng tôi tiếp tục đi. Isabelle lại nói :
- Như vậy cũng như là chết.
- Cô nói gì?
- Tình yêu. Tình yêu trọn vẹn.
- Chắc không ai có được tình yêu trọn vẹn đâu, Isabelle.
- Và nếu có tình yêu trọn vẹn thì đó có phải là sự chết không?
- Có lẽ. Bởi vì cũng chưa người sống nào biết cái chết ra sao. Bởi vậy mà không so sánh được.
- Vậy là tốt hơn nên có tình yêu không trọn vẹn?
Tôi tự mắng thầm là lại để lôi cuốn vào những chuyện không bờ bến và gượng đáp :
- Chỉ riêng tình yêu thôi cũng đã khá trọn vẹn.
- Đừng tự dối lòng; Rudolf. Bây giờ tôi thấy là phải cần không trọn vẹn. Bởi vì một khi đã trọn vẹn, sẽ có một tia chớp rồi chẳng còn gì cả.
- Chắc phải còn một cái gì đó ngoài thính giác của chúng ta.
- Cũng như sự chết.
Tôi dè dặt để nàng không quá trớn :
- Biết đâu. Có thể là sự chết không mang đúng danh hiệu của nó. Mình chỉ nhìn thấy nó có một khía cạnh. Không chừng nó là tình yêu toàn vẹn giữa Thượng đế và con người.
Một khoảnh mưa lại đổ ào xuống. Sau một lúc im lặng, Isabelle lại hỏi :
- Phải chăng vì vậy mà tình yêu trở nên buồn thảm?
- Tự nó không buồn thảm nhưng nó làm chúng ta buồn thảm vì khó thực hiện và cũng không kéo dài được bao lâu.
Isabelle đứng lại. Nàng giậm chân :
- Tại sao vậy, Rudotf. Tại sao phải như thế?
Tôi nhìn khuôn mặt tái mét và căng thẳng :
- Đó là hạnh phúc.
Mắt nàng mở lớn ra :
- Hạnh phúc à?
Tôi gật đầu.
- Hạnh phúc gì, đó là tai họa.
Nàng vừa nói vừa ôm chầm lấy tôi, khóc nức nở. Tôi an ủi :
- Đừng khóc, Isabelle. Cứ mỗi chuyện nhỏ nhặt cũng khóc rồi chẳng tới đâu cả.
- Vậy nên khóc cho những gì?
Tôi muốn đáp, hãy khóc cho nỗi thống khổ của hành tinh đáng nguyền rủa này, nhưng chỉ có thể nói :
- Đó không phải là tai họa, Isabelle. Đó là hạnh phúc. Chỉ tiếc là chúng mình chỉ có thể diễn tả được với những chữ toàn vẹn và không toàn vẹn.
Nàng lắc đầu liên hồi
- Không, không...
Và nàng khóc nhiều hơn. Tôi chợt thấy nàng có lý bởi luôn luôn phủ nhận tất cả mọi thỏa hiệp và lúc nào cũng gợi lên hai tiếng tại sao. Đó là hai tiếng làm thành câu hỏi độc nhất và duy nhất của bản ngã.
- Tai họa khác hơn thế, Isabelle.
- Anh nói sao?
- Tai họa không phải là vì con người bao giờ có thể trở thành một hữu thể duy nhất mà là cứ phải luôn luôn tự tách rời ra, mỗi ngày và mỗi giờ trong ngày. Mình biết và mình không chấp nhận, cũng như hột cát lọt xuống khỏi những ngón tay. Luôn có một phần trong người chết trước. Và luôn còn lại là phần kia.
Nàng ngước mắt lên :
- Làm thế nào rứt bỏ được cái mà mình không có?
- Có nhiều cách rứt bỏ đi hoặc tự rứt bỏ đi, tất cả đều đau đớn cũng giống như sự chết.
Isabelle thôi khóc :
- Làm sao anh biết được điều đó? Anh chưa già mà.
Hỡi ơi! Chính tôi tự cảm thấy già. Một phần trong người tôi đã bất chợt già đi khi tôi từ chiến trận trở về :
- Tôi biết nhờ kinh nghiệm, Isabelle.
Người ta có thể bỏ lại nhiều thứ, cuối cùng là bỏ lại đằng sau tất cả. Khi dấn bước vào cõi chết, con người đã trần truồng cho tới lúc từ cõi chết trở về, lại phải lấy lại những gì đã bỏ đi.
Khuôn mặt Isabelle ngời chiếu trong đêm mưa, một cái gì dịu dàng đến với tôi. Tôi đoán được cảnh trạng chiến đấu của nàng giữa sự cô đơn, giữa những bộ mặt của sự điên loạn, không một nơi ẩn trú, không một ngày ngưng nghỉ, lúc nào cũng phơi mình trước những ngọn gió của trái tim, chẳng một ai cứu giúp, không than van cũng không thương hại cho chính mình. Tất cả những lầm lẫn, điên loạn khiếp nhược bắt đầu từ đâu, và thái độ tinh khôn cũng như sư can đảm cuối cùng bắt đầu từ đâu?
Có tiếng chuông đổ, Isabelle lo sợ.
- Tới giờ rồi. Cô nên trở về.
- Anh có đi với tôi không?
- Đi chớ.
Chúng tôi đi về trại. Ra khỏi lối đi, màn mưa bụi đón lấy chúng tôi. Isabelle nép sát vào người tôi. Tôi nhìn triền đồi chúi dài xuống thành phố. Không phân biệt được gì. Mưa và sương mủ chia cách chúng tôi với bên ngoài. Không một ánh đèn, chúng tôi hoàn toàn cô độc. Isabelle đi bên tôi như đã vĩnh viễn thuộc về tôi, như không còn một trọng lượng nào, như một khuôn mặt huyền thoại bị chi phối bởi những định luật khác hẳn những định luật của vũ trụ này.
Chúng tôi dừng lại ở cửa. Isabelle bảo :
- Vào đi!
Tôi lắc đầu :
- Không được. Hôm nay không vào được.
Nàng lẳng lặng nhìn tôi với đôi mắt thật trong, không một trách móc hay thất vọng. Rồi bỗng nhiên, dường như một cái gì đó chợt tắt lịm ở nàng. Tôi nhìn xuống với cảm giác của một kẻ vừa đánh đập một đứa bé hay vừa giết chết một con én. Tôi nói :
- Đêm nay không được. Để mai.
Isabelle vẫn lặng thinh. Nàng đi vào trong. Một nữ tu sĩ đưa nàng lên lầu. Tự nhiên, tôi cảm thấy đã đánh mất vĩnh viễn một vật gì đó mà đời người chỉ có thể bắt gặp một lần.
Phải làm gì đây? Tại sao tôi dính líu vào tất cả chuyện này? Tôi có muốn thế đâu, có lẽ tại cơn mưa.
Uể oải, tôi đi về gian chính diện. Wernicke từ trong đi ra với một cái dù.
- Trả cô Terhoven về phòng chưa?
- Rồi.
- Tốt. Nếu có thể được cũng nên gặp cô ấy ban ngày.
- Chi vậy?
- Chưa trả lời được. Có điều mỗi lần gặp cậu, cô ấy có vẻ tỉnh táo hơn. Rất tốt cho cô ấy.
- Nhưng cô ta coi tôi là người khác.
- Có sao đâu! Tôi nói là cho người bệnh của tôi chớ đâu phải cho cậu.
Ông ta nháy mắt với tôi :
- Hồi nãy, Bodendick vừa khen cậu.
- Thật không? Có bao giờ tôi để cho ông ta có dịp khen đâu.
- Ông ấy bảo là cậu đang đi trên con đường thú tội.
Tôi không khỏi bất bình :
- A! Lại có chuyện mới lạ.
- Đừng hiểu lầm sự khôn ngoan của Giáo đường. Chế độ độc tài đó là chế độ duy nhất còn tồn tại, sau gần hai ngàn năm.
Tôi trở xuống thành phố. Isabelle lảng vảng trong đầu. Tôi đã bỏ nàng... đó là điều nàng đang nghĩ tới. Có lẽ tôi đừng nên bao giờ trở lại đó. Còn trở lại tức là tự gây phiền toái. Nhưng nếu nàng không còn ở đó. Vấn đề trọng yếu là cái gì không bao giờ thuộc về mình, thì cái đó sẽ không bao giờ hao mòn, già cỗi và trở nên thường nhựt.
Tôi đi qua cửa hiệu đóng giày của Karl Brill. Từ bên trong vang ra tiếng máy hát. Karl có mời tôi dự tiệc đêm nay, một trong những dạ hội tại nhà ông ta có cả bà Beckmann biểu diễn sức mạnh của bắp thịt. Tôi do dự một lúc, cuối cùng tôi bước vào với nỗi chán chường.
Từng vàng khói thuốc và từng luồng hơi bia xỏa vào mặt tôi, Karl Brill hơi lảo đảo chạy tới ôm tôi. Trán ông ta cũng sói như trán Georges, nhưng dường như tất cả tóc trên đầu đều chạy xuống ở chung với bộ râu hải cẩu.
- Người bạn trẻ tới vừa đúng lúc, tiền đánh cá đã hết ra rồi. Bây giờ chỉ còn chờ có nhạc giúp vui thôi. Chơi một bản valse nghe! Flots du Danube?
- Đồng ý!
Chiếc dương cầm đặt trong xưởng máy. Chồng chất, dựa tường là giày đủ cỡ và da thuộc, rải rác đây đó là những chiếc ghế. Một thùng bia khoét lỗ nằm bên cạnh các chai rượu mạnh. Thùng bia thứ hai đang chờ sẵn trên quầy. Trên mặt bàn là một cây đinh to tướng có quấn bông gòn ở đằng đầu, bên cạnh là một cái búa đóng giày.
Tôi đánh bản Flots du Danube. Giữa làn khói mù, các ông khách ngà ngà say, nghiêng qua ngả lại. Karl đặt lên nắp dương cầm một ly bia và một ly rượu, mạnh, bảo nhỏ với tôi :
- Clara đang chuẩn bị. Hơn ba triệu tiền đánh cá! Nếu bà ta thất bại là tôi đi ăn xin ngay. Nhớ chơi bản gì giựt gân để tiếp sức. Bà ta mê nhạc lắm.
- Được rồi, tôi sẽ đánh bản “Những người giác đấu”. Cho tôi cá nho nhỏ với, được không?
Mặt Karl xìu ra :
- Cậu Bodmer, chẳng lẽ cậu cũng cá nghịch với Clara nữa sao? Như vậy là làm sao chơi nhạc cho có hồn?
- Không, tôi đứng về phía bà ấy mà.
- Tốt lắm! Bao nhiêu?
Một giọt nước thôi. Tám chục ngàn, cả gia sản của tôi.
Karl suy nghĩ một chút rồi quay lại hỏi cử tọa :
- Có ai còn muốn cá tám chục ngàn đồng không? Cá với nhạc sĩ dương cầm đây.
- Có tôi.
Một anh chàng cao lớn bước ra, móc một xấp bạc trong một cái va ly nhỏ, ném lên quầy.
Tôi đặt tiền bên cạnh xấp bạc của hắn và hô to :
- Xin ông Tổ ăn trộm phò hộ cho. Nếu không là ngày mai không còn một xu ăn cháo.
Karl Brill nôn nóng :
- Xong rồi, xong rồi!
Mọi người quan sát cây đinh. Karl sẽ đem đóng cây đinh vào tường cho ngập khoảng một phần ba ở chỗ thấp vừa với hạ bộ. Hắn giơ búa thật cao nhưng đập vào vừa phải. Hắn làm bộ lay lay đầu đinh rồi nói lớn :
- Chắc lắm rồi.
Nhiều người đề nghị nên xem lại. Anh chàng cao lớn bước ra nắm cây đinh lay mấy cái rồi nheo mắt :
- Karl, tôi chỉ thổi một cái là đủ bay. Cho mượn cái búa đi.
Gã cao lớn nhổ đinh ra đem đóng một chỗ khác. Karl quan sát khoảng sáu hoặc bảy phân còn thò ra ngoài. Hắn nhăn mặt :
- Sâu quá. Kéo bằng tay ra cũng không nổi nói gì kẹp bằng mông để nhổ.
- Cái đó ai biết.
Tôi bắt đầu đánh bản “Những người giác đấu”. Tại trường canh ba bà Beckmann xuất hiện trong chiếc kimono đỏ bóng có thêu một con phượng ở sau lưng.
Đây là một người đàn bà vạm vỡ, có đáng dấp của loài chó mặt bạnh, nhưng là một con chó đẹp. Tóc đen huyền xoắn lọn, mắt như hai quả anh đào... phần còn lại thì mập phị, nhứt là ở cằm. Điều chắc chắn là thân thể đầy thịt ấy lại chắc nịch, bộ ngực là nơi đặt hai pháo đài và sau cùng là hai cặp mông to xù nhưng rắn chắc như đá hoa cương Thụy Điển. Đêm nay, với sự hiện diện của anh chàng to lớn chưa quen biết, bà ta thử thử lại lần thứ hai sức mạnh của bắp thịt mông bằng cách kẹp vào đầu đinh nhổ ra. Truyện "Bia Mộ Đen Và Bầy Diều Hâu Gãy Cánh " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com) Truyện "Bia Mộ Đen Và Bầy Diều Hâu Gãy Cánh " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Tất cả diễn ra trong tinh thần thể thao, cử tọa đều bảo thế. Bà Beckmann nghiêng mình chào vô cùng trang trọng từ từ đi tới chỗ cây đinh, phần dưới thân thể được che khuất bởi một tấm bình phong thấp, làm vài động tác thể dục.
Tôi bắt đầu đánh những âm thanh trầm làm thành một hồi trống xung trận. Bà Beckmann vận chuyển tất cả các bắp thịt. Karl Brill lo ra mặt. Bà Beckmann lại cứng người, mắt nhìn lên trần, nghiến chặt răng. Một tiếng động khô khan... và bà Beckmann đi tránh ra: cây đinh dưới đất.
Tôi chuyển sang bài “Kinh cầu của một nữ đồng trinh”. Bà ta gật cái đầu to lớn về phía tôi, tỏ dấu cám ơn và bảo lớn “Chúc các vị vui vẻ” rồi khép hai tà kimono lại, lên lầu.
Karl Brill gom tiền và đưa phần của tôi lại. Gã to lớn lại quan sát lỗ đinh, khẽ kêu lên :
- Ghê gớm thật!
Ruợu mạnh và bia lại tuôn ra như suối. Tôi uống luôn mấy ly và tiếp tục đàn, sung sướng vì không còn cô đơn nữa. Mưa rơi bên ngoài, sương mù bao phủ quanh tôi, Isabelle hiện ra trong bóng mờ. Tôi thấy nàng không phải là người điên, mặc dầu biết rằng nàng vẫn còn điên, nhưng trong người chúng ta có ai dám bảo mình không điên?
Tiếng cãi vã làm tôi tỉnh lại. Gã cao lớn đang hăng tiết vì những đường cong trên thân thể bà Beckmann. Quá say, hắn chẳng còn giữ gìn ý tứ nữa. Hắn đưa ba đề nghị với Karl Brill :
- Năm triệu để ngồi uống trà một buổi chiều với bà Beckmann.
- Một triệu nếu được nói chuyện vài câu lại đây - có lẽ hắn sẽ mời bà ta dùng cơm tối có mặt Karl Brill.
- Hai triệu để sờ nắn cái mông to lớn, cũng ngay tại chỗ này, trong tinh thần quan sát, tuyệt đối không ẩn ý.
Dĩ nhiên là Karl nổi cơn thịnh nộ. Nếu anh chàng có ý niệm thể thao thật sự thì có lẽ Karl không tức giận, đằng này lúc đề nghị, mắt anh chàng bốc ra những ý nghĩ hắc ám khiến Karl cảm thấy chạm tư ái. Hắn hét lớn :
- Bỉ ổi quá! Các vị có thấy không? Vậy mà tôi tưởng ở đây toàn những người đứng đắn.
Gã to lớn cãi lại :
- Tôi là người đứng đắn. Vì vậy mà tôi đề nghị.
- Ông là con heo.
- Nếu tôi đã không là con heo thì tôi đã không là người đứng đắn. Ông bạn nên hãnh diện có một nàng như vậy. Tại sao ông bạn giận? Bạn kết hôn với bà ấy rồi à?
Tôi thấy Karl nhảy dựng lên như bị gai đâm đít. Hắn và bà Beckmann sống với nhau như chồng vợ nhưng không cưới hỏi. Tại sao không cưới hỏi, chẳng ai biết được. Dường như đó là một trong những thói kỳ của hắn cũng như hễ cứ vào mùa Đông là hắn thường đào lỗ trong băng rồi chui xuống đó tắm, và gọi đó là một trò thể thao.
Gã to lớn lải nhải :
- Tôi, ông bạn biết không, một hòn ngọc quý báu như thế, tôi sẽ bồng trên tay, tôi sẽ bọc lại bằng nhung lụa. Bằng nhung lụa đỏ.
Gã vừa nói vừa dùng tay phác họa những đường cong của bà Beckmann trong không khí. Một chai rượu mạnh cạn tới đáy đang nằm bên cạnh gã. Tôi không chú ý tới nữa và tiếp tục đánh đàn. Tôi tưởng tượng cảnh gã bồng bà Beckmann trên tay...
Karl quát lớn :
- Ra ngay! Quá lắm rồi. Tôi không bao giờ đuổi khách nhưng lần này thì đã quá sức chịu đựng.
Một tiếng thét đau đớn vang lên từ cuối phòng. Ở đó, một anh chàng say đang nhảy cỡn. Karl phóng tới, chụp một cái kéo, chận máy ngừng lại. Anh chàng say ngã ra bất tỉnh.
Karl tức tối :
- Trời ơi! Sao lại nhè máy ghép đế giày mà phá.
Mọi người ào tới. Một vài đoạn chỉ may còn dính tòn teng ở hổ khẩu bàn tay phải của anh chàng hay táy máy. Karl đổ rượu vào vết thương khiến anh ta tỉnh lại ngay. Karl bỗng nhìn quanh và lo ngại :
- Thằng cha to lớn đâu rồi?
Một người đùa :
- Có lẽ tự nó đã biến thành nhỏ lại để không ai thấy.
Mọi người cười ồ lên. Nhưng tất cả bỗng trố mắt khi cửa mở bật ra. Anh chàng to lớn gập cong người lùi lủi đi vào, hai cánh tay bị bẻ quặp ra sau bởi bà Beckmann. Tới giữa phòng, bà ta xô mạnh tới khiến anh chàng ngã chúi vào đống giày đàn bà. Bà Beckmann phủi tay như vừa cầm phải một món đồ dơ rồi lẳng lặng quay ra.
Karl nhảy tới, dựng xốc gã to lớn lên. Gã rên rỉ :
- Trời ơi! Nó bẻ lọi tay rồi. Ôi đau bụng, chết mất.
Không cần giải thích ai cũng biết, bà Beckmann cũng mạnh tương đương như Karl - nhà thể thao tắm tuyết - hiển nhiên là bà ta đã vặn lọi một cánh tay của gã và đã đánh gã nhừ tử. Sau tháng trước, hai tên trộm lẻn vào xưởng không may bị bà ta bắt gặp. Cả hai đều vào nhà thương.
Giận tái mặt, Karl lôi gã to lớn ra chỗ sáng nhưng gã đã bất tỉnh rồi.
Một ông khách cao lêu nghêu vừa đổ một ly bia vào chiếc dương cầm vừa nhừa nhựa nói :
- Coi vậy mà thằng Karl cũng có tinh thần hiếu khách.
Tôi ra đường lớn trở về nhà. Đầu nặng như chì. Đã uống quá nhiều nhưng tôi không biết hối tiếc bởi vì tôi muốn vậy. Sương mù từng lúc che mờ một vài ánh đèn lẻ lơi ở các cửa hiệu buôn. Trước cửa một hàng thịt, một bó hoa hồng khoe màu cạnh một con heo sữa. Quanh đó là một số dồi chả được xếp đặt với một sự lơ là cố ý. Quả là một cảnh tượng duyên dáng nhằm phối hợp sự thưởng ngoạn và ý nghĩa thực dụng. Truyện "Bia Mộ Đen Và Bầy Diều Hâu Gãy Cánh " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Vào tới sân, sương mù dày đặc, tôi đụng mạnh vào một cái bóng. Lại lão thượng sĩ hồi hưu đang đứng trước cái tháp tưởng niệm đen. Knopf lảo đảo vội vàng ôm cái tháp trong dáng điệu như muốn trèo lên.
- Xin lỗi vì không thấy đường nên đã đụng vào ông. Nhưng ông định làm gì nữa đây? Tại sao không về nhà mình hoặc ra góc đường tiểu tiện?
Lão ta buông tay ra, gầm gừ nho nhỏ :
- Làm cái gì kỳ vậy? Ướt hết cả quần rồi.
- Càng tốt. Cứ đái vào quần như vậy cho ấm.
- Nè, nên lễ phép một chút!
Và lão ta xiêu vẹo bỏ đi. Tôi lên cầu thang với ý định dùng số tiền thắng cuộc ở nhà Karl mua một bó hoa gởi cho Isabelle. Thường thường, hễ cứ tặng hoa cho ai là tôi gặp chuyện đau lòng nhưng biết cách nào khác hơn. Tôi đứng bên cửa sổ nhìn trời đêm và thì thầm những lời lẽ mà tôi thích được nói ra vào một ngày nào đó với một người nào đó. Bây giờ, tôi chẳng có ai để nhận lấy thứ ngôn ngữ đó, ngoại trừ Isabelle, nhưng khốn nỗi, trên thực tế nàng chẳng hề biết tôi là ai. Còn tôi, tôi có thật sự biết mình là ai chưa?
29.07.2014
13
Người dịch: Vũ Kim Thư
Nguồn: NXB Văn Nghệ TPHCM
Nội dung thu gọn
Oscar Fuchs tự là “Oscar mắt treo cờ tang” ngồi trong văn phòng. Tôi hỏi hắn :
- Có gì hay không? Dịch cúm đã lan tràn tới mày làng rồi?
- Không ăn thua gì cả. Dân quê vẫn mạnh như thần. Dân thành phố thì khác. Tôi vừa kiếm được mấy mối cho hãng Hollmann và Klotz. Một cái tháp bằng đá hoa cương đỏ mài nhẵn một mặt, một tấm bia thường, hai cái bề cao khoảng một thước năm giả làm bờ tường, giá triệu hai trăm ngàn Marks, một cái nhỏ cao một thước mốt, giá một triệu ba trăm ngàn. Vậy là được giá cao. Nếu các ông bớt cho một trăm ngàn, tôi nhường mối lại cho. Phần hoa hồng của tôi là hai chục phần trăm.
Tôi nói ngay :
- Mười lăm.
Oscar lắc đầu :
- Hai mươi. Bên Hollmann và Klotz họ cũng cho tôi mười lăm. Nếu chỉ lấy mười lăm thì tội gì phản chủ?
Tôi biết hắn nói láo. Bên ấy họ chỉ cho hắn mười phần cộng với tiền sở phí :
- Họ trả tiền mặt chớ?
- Cái đó là việc của các ông. Đây là những người có tiền.
- Bạn Fuchs, tại sao bạn không qua hẳn bên chúng tôi. Chúng tôi trả cao hơn bên đó lại đang cần một đại diện có tài như bạn.
Oscar nheo mắt :
- Thú thật, tôi là người thích những tình trạng lờ mờ, không ưa sáng tỏ hẳn vì bản tính hay hờn giận. Bởi vậy, hễ mỗi lần có chuyện gây gổ với lão Hollmann là tôi lại luồn một mối đặt hàng qua bên này để trả thù. Nếu tôi làm việc hẳn cho các ông thì tôi lại cũng như thế.
- Bạn có thấy nghề của bọn mình là phiền toái không? Nhứt là đối với bạn, người đóng kịch như thật.
Oscar cười như cái cười của một kép chánh vai hoàng tử rồi ra điệu vô cùng khiêm nhượng :
- Mình chỉ làm điều gì có thể làm được, vậy thôi.
- Nhưng nhờ đó mà bạn gặt hái nhiều kết quả kỳ lạ. Bạn có nhờ tới vật gì không hay hễ cứ muốn là khóc được ngay?
Trước đây, mỗi khi sắp vào một nhà có đám tang để kiếm mối bán mộ bia hay tháp tưởng niệm, hắn phải dùng một vài khoanh củ hành tây sát vào mắt cho nước mắt chảy ra. Vậy mà mấy lúc sau này nghe nói hắn đi vào với đôi mắt ráo hoảnh, rồi nhân câu chuyện nói về người chết, hắn khóc như mưa với những giọt mắt thật sự. Có thể bảo đó là sự khác biệt giữa loại trân châu thiên nhiên và loại trân châu cấy vào sò. Nhờ khóc đúng lúc mà chẳng những nhận được mối hàng còn lại được tang chủ đãi ăn.
Georges Kroll từ trong phòng riêng bước ra với điếu xì-gà Havan trên miệng. Đó là dấu hiệu yêu đời. Y đi thẳng vào đề :
- Ông bạn Fuchs, có thật là bạn muốn khóc lúc nào cũng được không? Hay là người ta đồn nhảm để làm thối chí bọn này?
Thay vì trả lời, Oscar nhìn sững Georges. Thấy lạ, Georges hỏi :
- Sao, bạn làm gì vậy?
- Khoan, xin đợi một chút. Để tôi dựng ngoại cảnh đã.
Hắn nhắm mắt lại vài giây. Lúc mở ra, mắt hắn đã ươn ướt. Hắn lại tiếp tục nhìn sững vào Georges, và rồi những giọt nước mắt no tròn bắt đầu đọng trên mi. Một lúc sau nước mắt lăn trên má. Oscar rút khăn tay chặm mắt và nhìn đồng hồ :
- Các ông nhận thấy thế nào? Không đầy hai phút. Có khi chỉ mất một phút thôi nếu tôi đứng trước thi thể người chết.
Tôi kêu lên :
- Thật là vĩ đại!
Georges rót cognac vào ly của khách :
- Bạn Fuchs, đúng lý bạn phải sống bằng kịch nghệ.
- Tôi cũng có nghĩ tới nhưng dường như không có vai trò nào thích hợp cả. Dĩ nhiên là còn Othello nhưng ngoài ra thì...
- Nhưng bạn làm thế nào? Có quỷ thuật gì không?
- Chỉ cần đôi chút tưởng tượng. Hình dung sự việc với một số chi tiết.
- Như mới đây bạn tưởng tượng gì?
Oscar uống cạn ly :
- Tôi nói thật mong ông Georges đừng giận. Tôi tưởng tượng ông bị mảnh trái phá nát bấy người, và một đàn chuột tới gặm mũi ông trong khi ông còn thoi thóp cố dùng tay đuổi chúng đi nhưng không đủ sức cựa quậy. Xin lỗi, trong trường hợp cần phải mau nước mắt tôi tưởng tượng tới những hình ảnh khủng khiếp.
Georges đưa tay sờ mắt. Cái mũi vẫn còn. Tôi hỏi dò :
- Có khi nào bạn tưởng tượng mấy người chủ của bạn trong tình trạng tương tự không?
Oscar gật đầu :
- Tôi thường hình dung họ giàu có, sống tới trăm tuổi, tay mắt lành lặn rồi một hôm nọ bị chứng huyết tắc và chết ngon lành không đau đớn. Thế là nước mắt tôi trào ra nhưng đó chỉ là những giọt nước mắt căm thù.
Georges lấy tiền hoa hồng trả cho Oscar. Nhận tiền xong hắn có vẻ cảm hứng :
- Tôi mới nghiên cứu được một cách nấc nghẹn. Có hiệu quả lắm.
Tôi lợi dụng thời cơ :
- Bạn Oscar hãy qua bên này đi. Bạn nên nhớ là chúng tôi luôn luôn nâng đỡ những người biết yêu nghệ thuật chớ không giống như tay nhà quê kia.
“Oscar mắt treo cờ tang” lắc đầu cười :
- Chưa được đâu. Nếu không có một chút phản bội trong người đời tôi cũng chỉ hơn một tấm giẻ rách. Có phản bội mới giữ được quân bình. Xin thông cảm...
Oscar đi rồi, tôi mang mảnh giấy ghi địa chỉ ra trao cho Henri Kroll đang bơm bánh xe đạp ngoài sân. Ông ta nhìn mảnh giấy với vẻ khỉnh bỉ. Lúc nào ông ta cũng tự coi mình là một tay chuyên nghiệp còn Oscar chỉ là hạng buôn thúng bán mẹt, không đáng cho lão ta dòm ngó.
Henri lầm bầm trước khi lấy giấy cho vào túi. Tới trước nhà tôi chợt thấy ống máng và mưa trận đêm trước đã làm cho sút ra. Georges đã thay cho ống mới. Người đốc công hỏi :
- Còn ống cũ, có làm gì không? Bị lủng bấy bá rồi, cho chúng tôi đi.
Georges gật đầu :
- Thì lấy đi.
Ống nước đang dựng dựa vào cái tháp đen mà Knopf hay tới đái. Ống dài khoảng vài thước và đầu ống bẻ gập lại thành một góc vuông. Một ý nghĩ chợt lóe sáng trong đầu, tôi cản lại :
- Để đó cho tôi.
Reorges hơi ngạc nhiên :
- Còn dùng được việc gì đâu?
- Rồi anh xem. Tôi sẽ trình diễn một màn ngoạn mục với sự cộng tác của lão thượng sĩ Knopf.
Henri đạp xe đi. Tôi và Georges đứng ở cửa uống ly bia của bà Kroll vừa đưa qua từ của sổ nhà bếp. Trời nóng bức. Gã đóng hòm Wilke đi qua sân với mấy chai rượu, chuẩn bị cho giấc ngủ trưa trong một cái hòm lót dâm bào. Bướm lượn quanh những cây thánh giá. Tôi hỏi Georges :
- Giá đô-la tới đâu rồi?
- Hơn hồi sáng mười lăm ngàn. Nếu cứ giữ đà này thì tới chừng trả hối phiếu cho Riesenfield, trị giá chỉ còn bằng một tấm bia nhỏ.
Georges cưỡi vang :
- Thờ buổi này, không tính được chuyện gì đàng hoàng cả. Tối nay chú định làm gì?
- Lên đồi. Tới Wernicke. Nên cố quên vật giá. Nếu có thể sống chung đụng với những người điên một thời gian thì cái chuyện chạy đua với cuộc sống sẽ trở thành ngu đần.
- Hoan hô. Ngôn ngữ ngu si khả ái đó đáng được thưởng một ly bia ướp lạnh thứ hai.
Y lấy cả hai ly đặt lên bệ cửa sổ nhà bếp :
- Xin cho thêm hai ly nữa.
Georges đưa ly rượu vừa rót đẩy sang tôi :
- Chú có mắc bệnh thời đại không?
- Một thằng con trai biết tự trọng càng bị nặng hơn. Đó là quyền của tuổi trẻ.
- Đúng lắm. Từ sau đình chiến, tôi luôn luôn đi tìm một cái gì đắp vá. Và trong tình trạng đó, tôi mắc bệnh thời đại gấp đôi. Giống như một cái chân bị cưa đau gấp đôi cái chân lành lặn.
Bia mát lạnh. Nắng chiếu thẳng vào trán chúng tôi và thình lình mặc dầu đang mắc bệnh thời đại, tôi chợt cảm thấy mình đồng lõa vơi định mệnh. Tôi uống bia, uống cả chất mát của tâm hồn và hăng hái bảo :
- Bọn mình thường quên rằng mình chỉ là những kẻ ở thuê trên hành tinh này. Do đó, mặc cảm chung ta đối với thế cuộc thường hay sai lạc. Anh có nghĩ tới điều đó chưa?
- Có chớ. Đó là cái tội đáng chết của nhân loại. Bởi thế có lắm người luôn chủ trương hợp lý đã để cho hằng triệu bạc nằm chết một chỗ tới ngày mất giá thay vì tiêu xài trước khi chết.
- Phải. Nhưng anh sẽ làm gì nếu anh biết ngày mai sẽ chết.
- Chưa biết.
- Không à? Một ngày có lẽ quá ngắn. Nhưng nếu anh biết trước sẽ phải chết sau một tuần?
- Vẫn không có ý gì.
- Anh phải làm một cái gì chớ! Nhưng nếu biết trước một tháng?
- Có lẽ tôi cứ tiếp tục sống như trước. Nếu làm khác đi thì trong tháng đó, mình luôn luôn bị ám ảnh...
- Nhưng mình có tới một tháng để thay đổi.
Georges lắc đầu :
- Và đó là một tháng dài hối tiếc.
- Anh có thể bán hết các dụng cụ tang chế này cho Hollmann và Klotz, đi Bá Linh và suốt một tháng đó, Truyện "Bia Mộ Đen Và Bầy Diều Hâu Gãy Cánh " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
đùa với các cô đào, các bà bá tước và tất cả các con điếm hạng sang.
- Trong tám ngày thì còn được chớ sau đó thì sang đến mấy cũng giống như nhau. Vả lại, tôi thích đọc các cuộc phiêu lưu loại đó hơn là phải nhập cuộc. Tưởng tượng không làm cho người ta thất vọng. À, còn chú, chú nghĩ gì nếu biết một tháng là sẽ chết.
Tôi bối rối :
- Tôi hả?
- Chớ còn ai.
Tôi nhìn quanh. Kia là khu vườn, xanh thẫm và ấm với cảnh sắc mùa hè, có chim én, bầu trời xanh...
- Để suy nghĩ đã. Chưa trả lời ngay được. Tôi cảm thấy như sắp nổ tung ra.
- Thôi, vừa phải thôi, nếu không lại phải gởi chú vào Wernicke.
Bà Kroll từ cửa sổ nhà bếp thò đầu ra :
- Có cần một ly bia nữa không? Có mứt phúc bồn tử đây.
Tôi kêu lớn :
- Thoát nạn rồi! Bà đã cứu tôi đúng lúc! Mới đây tôi còn là mũi tên phóng tới mặt trời và nhà thương điên Wernicke. Bây giờ cám ơn Thượng đế, cả thế giới đây. Cuộc sống đang nhởn nhơ trên cánh bướm bay quanh. Nhưng ăn mứt uống bia thì cho con xin. Một miếng phô-mai Harz thì tốt hơn. Chào ông Knopf. Trời đẹp quá. Ông nghĩ thế nào về cuộc sống?
Lão Knopf bỡ ngỡ nhìn tôi. Mặt lão tái xanh, mắt có quầng. Lão làm một cử chỉ bực tức rồi khép cửa sổ lại. Georger hỏi :
- Chú định phá ông ấy à?
- Chớ sao! Chờ tới tối đã!
Chúng tôi vào quán Walhalla. Tôi dửng sững lại như vừa dụng phải một thân cây :
- Coi kìa! Vậy là hết nói rồi!
Trong buồng ăn dành riêng, Gerda đang ngồi trước một bình hoa huệ và một dĩa thịt đùi mang to tướng. Tôi bấm tay Georges :
- Sao, có phải là phản bội chưa?
- Phản bội gì?
- Chớ không phải là bội tín à?
- Có phải là bội tín không? Hơi lạ đó.
- Đừng làm ra vẻ Socrate nữa. Bộ anh không thấy cái bóng chập chờn phía sau là Edouard sao?
- Biết rồi. Nhưng ai bội tín? Gerda hay Edouara?
- Gerda còn chớ ai? Đàn ông không có lỗi trong mấy vụ này.
- Đàn bà cũng vậy!
- Vậy thì ai?
- Chính chú mầy. Còn ai vào đây nữa?
- Nói như anh dễ nghe quá! Anh không bị phản bội và tự hài lòng về chuyện cằm sừng kẻ khác.
Georges hãnh diện :
- Yêu là vấn đề thuộc tình cảm. Đừng để đạo đức chen vào. Hơn thế, tình cảm chẳng biết gì về phản bội cả. Nó chỉ biết chấp nhận, thay đổi hoặc biến mất... không có dấu vết của sự lừa đảo trong đó. Tình yêu không phải là một hợp đồng. Như vậy đừng than van gì cả. Hoặc từ bỏ hay hành động. Chỉ có một con đường.
Chúng tôi ngồi vào một bàn trống. Gã hầu bàn Freidank tới đưa khăn lau tay. Tôi hỏi dò :
- Ông Knoblock đâu?
Freidank nhìn khắp phòng :
- Không hiểu. Ông ấy vẫn thường ngồi với cô đằng kia.
Tôi nhìn Georges :
- Thấy chưa. Tôi là nạn nhân chỉ định của sự lạm phát tiền tệ. Hết Erna bây giờ tới Gerda. Bộ số tôi là số mọc sừng sao?
- Chiến đấu. Chưa phải thua trận đâu. Tới gặp Gerda đi.
- Nhưng chiến đấu bằng võ khí gì? Bằng những tấm mộ bia sao? Edouard cho nó đùi mang lại làm thơ để tặng. Về thơ phú thì con bé cóc biết về thực phẩm thì rành lắm. Ngu quá! Cũng đáng kiếp chính tôi đã dẫn ả tới đây.
- Vậy thì bỏ cuộc, cần gì phải chiến đấu? Vả lại, trên lãnh vực tình cảm có chiến đấu cũng vô ích. Kìa, Edouard tới, chà! Hắn mặc lễ phục lại có bông hồng cài túi. Vậy là chú đi đứt rồi!
Edouard giựt mình khi vừa nhìn thấy bọn tôi. Hắn liếc sang Gerda và chào chúng tôi với tư cách của kẻ chiến thắng. Georges hỏi hắn :
- Ông Knoblock, có phải sự trung tín là dấu hiệu của danh dự như vị Thống chế yêu quý của chúng ta từng xác định không? Truyện "Bia Mộ Đen Và Bầy Diều Hâu Gãy Cánh " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
- Cái đó còn tùy. Hôm nay thực đơn nhà hàng có món thịt bò viên Konigsberg có sốt và khoai tây. Tuyệt hảo!
Georges vẫn thản nhiên :
- Một chiến sĩ có quyền đâm sau lưng đồng đội hay không? Và một nhà thơ?...
- Các nhà thơ cũng thường hay khích bác nhau.
- Nhưng chiến đấu công khai, không được quyền đánh lén.
Edouard cười thật tươi :
- Khốn thay cho kẻ bại, bạn Louis thân mến, người ta buộc lòng phải tranh đấu bằng mọi phương tiện. Phần tôi, tôi có vui vẻ gì khi các bạn cứ đưa mãi vào mặt tôi mấy cái phiếu ăn mất giá.
Tôi nổi sùng :
- Nè, đừng có gân cổ! Muốn gì?
Đúng ngay lúc đó, một bàn tay nhỏ nhắn đẩy Edouard sang một bên. Và Gerda nói với chúng tôi :
- Các bồ đó hả? Vậy chúng mình ăn chung. Tôi luôn luôn mong các bồ tới.
Tôi đay nghiến :
- Cô ngồi ở phòng dành riêng mà. Còn tụi này chỉ uống bia thôi.
- Tôi cũng uống bia vậy. Tôi sẽ qua bàn các bạn.
Tôi hầm hầm nhìn Edouard :
- Sao, Edouard? Mình chiến đấu bằng mọi cách mà.
Gerda chen vào :
- Edouard không có quyền gì cả. Ông ấy rất thích thấy tôi ăn ngon với bạn bè. Phải không, Edouard?
Con rắn độc nhỏ này đã gọi hắn bằng tiểu danh rồi. Edouard ấp úng :
- Dĩ nhiên... chẳng... có gì... rất hân... hạnh.
Mặt hắn đỏ chín nhưng hắn cố cười, trong vô cùng quái dị. Tôi tiếp tục tấn công :
- Hoa hồng trên áo đẹp quá. Tình yêu thiên nhiên hay định hỏi cưới?
Gerda trả lời thay :
- Edouard rất tế nhị trong lãnh vực thẩm mỹ. Edouard, hãy tỏ ra hào phóng. Hãy kêu cho họ...
Edouard hô lớn :
- Cho thịt bò viên Konigsberg! Được rồi, tôi sẽ đích thân chỉ bảo họ làm.
Gerda gọi :
- Cho đùi mang.
Edouard bỗng giống như một động cơ đang chạy sút dây trân :
- Mấy người này không phải là bạn tôi.
- Sao?
Tôi không bỏ lỡ cơ hội :
- Bọn mình cũng gần là bạn với nhau, như Valentin vậy. Bạn có nhớ lần gặp mới đây ở câu lạc bộ thi văn không? Có cần tôi lặp lại lớn tiếng những lời lẽ của bạn hôm đó không? Lúc này bạn đang sáng tác thể thơ nào?
Gerda sững sờ :
- Các ngươi nói gì tôi không hiểu.
Edouard chận ngay :
- Chẳng có gì cả. Mấy người này chẳng bao giờ nói chuyện trang nghiêm. Toàn là những thằng hề vô duyên. Nên cố tập cách xử sự đúng đắn.
Tôi trả đũa :
- Ngoài những người phu đào huyệt và nhũng anh thợ đóng hòm ra, chưa chắc ai hiểu hơn bọn này về ý nghĩa cuộc sống.
Đột nhiên, Gerda kêu lên :
- A! A! Khôi hài ma quái! Càng khinh mạn cái chết bao nhiêu thì ý nghĩa trung thực của cuộc sống càng
vượt khỏi tầm tay.
Tôi và Georges sửng sốt nhìn nhau. Thì ra con bé đã học lối nói chuyện lạc hậu của Edouard từng chữ một. Tôi cảm thấy mình đang chiến đấu trên một vũng lầy nhưng chưa chịu bỏ cuộc :
- Cô học được công thức đó ở đâu?
Gerda cười rộ lên :
- Đối với các bạn, đời sống luôn luôn giống với một tấm bia. Người khác thì không đi mau như vậy. Chẳng hạn như Edouard, một con chim họa mi. Edouard tươi rói như một thân cây vừa trổ đầy hoa.
Gerda hỏi hắn :
- Còn thịt đùi mang đâu?
- À, quên mất... được rồi.
Edouard đi vào bếp. Tôi nhìn con bé quỷ quyệt :
- Hoan hô! Tuyệt điệu!
- Đừng làm vậy, người ta tưởng là chồng. Cứ vui sống trước đã.
- Nhưng sống là gì?
- Là những gì đang diễn ra.
Georges kêu lên :
- Hoan hô người đẹp. Và cám ơn đã mời ăn. Cô biết là chúng tôi cũng rất mến Edouard nhưng y không chịu hiểu.
Tôi mở cuộc điều tra :
- Còn cô, Gerda, cô cũng yêu hắn phải không?
Gerda cười và nhìn Georges :
- Trẻ con quá! Sao ông không mở mắt cho y sáng ra và bảo cho ông biết rằng tất cả đều không phải là vật sở hữu của riêng y.
- Tôi cũng tiếp tế cho hắn nhiều nguồn sáng nhưng hắn cứ lay quay mãi với một đống mặc cảm mà hắn gọi là tư tưởng. Chừng nào hiểu được, lớn mới có thể kôn ra.
Gerda ngồi đối diện với tôi, dáng dấp tự tin, con dao cầm trên tay, đang đợi phần thịt mang thứ hai. Mặt con bé bầu bĩnh hơn lúc trước có lẽ nhờ sự dinh dưỡng của Edouard. Con bé nhìn tôi không một chút ngượng ngịu. Nhưng tại sao phải ngượng? Tôi có quyền hạn gì với nó? Và ngay lúc này, ai mới thực sự lừa dối nhau?
Thịt được mang tới. Cuộc đối thoại tạm ngưng, Edouard theo dõi chúng tôi như gà mẹ. Đây là lần đầu tiên hắn trả một bữa ăn cho bọn tôi. Tôi chợt để ý nụ cười khó hiểu của hắn khi thỉnh thoảng láy mắt với Gerda. Phần con bé, nó vẫn giữ nụ cười vô tư. Gerda còn trẻ hơn tôi, nhưng tôi phải nhìn nhận rằng về kinh nghiệm nó hơn tôi chừng bốn tuổi. Gerda nhắc :
- Ăn đi, em bé.
Món thịt mang trứ danh thế mà đối với tôi chẳng có mùi vị gì đặc biệt. Edouard hỏi tôi :
- Thêm một ít nữa chớ?
Tôi chưng hửng tưởng chừng như viên cựu hạ sĩ quan huấn luyện viên của tôi ra lịnh cho tôi hôn ông ấy. Georges cũng hơi lo ngại. Nhưng sau khi phân tách tình hình, tôi biết là hắn định thấu cáy bọn tôi, làm ra vẻ như đã chiếm trọn cả hồn lẫn xác Gerda. Chắc chắn là chưa. Vì chưa, nên con bé được ăn các món sang chớ nếu đã trao thân cho hắn vài lần thì chỉ được ăn thịt vò viên Konigsberg là cùng. Con bé cũng không phải tay vừa. Truyện "Bia Mộ Đen Và Bầy Diều Hâu Gãy Cánh " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Đêm hoàn toàn yên tịnh với cả một trời sao trên thành phố. Tôi ngồi suy tư bên cửa sổ để chờ lão Knopf. Tôi đã gắn ống nước cũ bắt dài từ cửa sổ quanh queo ra tới sân, để đầu ống có góc vuông hướng về cái tháp đen. Tuy nhiên, đứng từ chỗ đó, không thể nào khám phá ra quỷ kể của tôi.
Tôi đọc vớ vẩn một vài tin trên báo. Đô-la: lại tăng thêm mười ngàn Đức kim. Chỉ có một vụ tự tử nhưng có hai cuộc đình công. Phần công chức, sau nhiều cuộc thảo luận, chánh phủ chấp thuận tăng lương nhưng đồng Marks đã mất giá đến nỗi khoản tiền tăng đó chỉ vừa đủ mua được một lít dầu cho tuần trước. Tới tuần sau, có lẽ chỉ còn mua nổi một cái hộp quẹt. Số người thất nghiệp gia tăng đến một trăm năm chục ngàn. Đâu đâu cũng có những xáo trộn. Rác rến được nghiên cứu để dùng vào viêc công ích. Dịch cúm lan tràn, vấn đề nuôi dưỡng những người già lão được đặt ra. Nhưng trong thời gian chờ đợi có thông cáo chánh thức, những người tàn tật và già lão chỉ còn có cách là đi xin hay sống bám vào bạn bè, thân quyến.
Có tiếng bước chân nhè nhẹ vào ngõ hẻm. Tôi cẩn thận nhìn ra. Không phải Knopf. Đó là một cặp nhân tình rón rén đi vào khu vườn của hãng chúng tôi. Wilke có lý: họ còn có thể đi đâu được nếu không vào khu vườn này? Nếu ở trong phòng trọ thì mụ chủ nhà sẽ rình ngoài cửa với cái chổi trong tay, sẵn sàng nhân đanh đạo đức để tống cổ ra. Trong những công viên, họ luôn luôn bị những cặp mắt sáng quắc của cảnh sát chiếu vào. Đi khách sạn? Tiền đâu? Như vậy chỉ còn có ở đây là yên tịnh nhứt. Những tấm bia lớn sẽ ngăn cặp này với những cặp kia. Những tấm bảng báo động của tôi coi chừng giập chân chẳng có hiệu lực nào. Ai còn có thể nghĩ tới ngón chân của mình khi tất cả máu trong người đều trên ba mươi bảy độ?
Cuối cùng tôi nhận ra tiếng bước nhịp nhàng của lão Knopf. Tôi nhìn đồng hồ: hai giờ rưỡi khuya. Nhà cựu huấn luyện tân binh quân dịch này chắc đã say nhừ. Không cần nhắm hướng, lão đi thẳng tới cái tháp đen. Tôi kê miệng vào đầu ống nước đằng này và quát lớn :
- Knopf!
Tiếng nói qua tới đầu ống bên kia sẽ vang âm phía sau lưng lão như tiếng gọi dưới đáy mồ. Lão thượng sĩ hồi hưu giụi mắt, nhìn quanh quất. Tôi lấy giọng nhà binh :
- Knopf, chú không biết xấu hổ sao? Lúc nào say rượu về cũng đái bậy vào các vật linh thiêng đó hả? Con bò?
Lão quay đầu khắp mọi hướng và ấp úng :
- Cái gì?... Ai đó?
- Khốn khiếp! Còn dám hỏi lại à? Thượng cấp nói chuyện phải đứng nghiêm.
Lão nhìn về phía nhà lão vì tiếng nói dường như từ đó phát thanh ra. Không một ánh đèn, cửa nẻo đóng kín. Cái ống gắn ở tường, lão không làm sao phân biệt nổi.
- Đứng nghiêm!
Knopf lập tức đứng thẳng người, tay đặt ở nẹp quần. Ánh trăng chiếu vào đôi mắt mở to của lão.
- Knopf! Nếu bị bắt gặp lần nữa, chú sẽ bị giáng chức xuống làm binh nhì. Tội làm ô danh quân đội Đức và bôi lọ hiệp hội những thượng sĩ hồi hưu.
Knopf nghiêng đầu lắng tai nghe. Giữa đêm khuya vắng lặng, tôi nghe lão ta lẩm bẩm :
- Trời! Đức Thượng đế!
Giọng nói ma quái nhái theo cấp trên ngoài mặt trận của tôi tiếp tục lần cuối :
- Nhớ kỹ là còn vi phạm lần nữa, chú sẽ bị giáng chức và bị hoạn. Bị hoạn, nghe rõ chưa! Nghỉ! Nghiêm! Bên phải! Quay! Tan hàng!
Ngẩn người, lão Knopf làm theo khẩu lệnh, đưa tay lên chào rồi lảo đảo đi về nhà. Ngay sau đó, cặp tình nhân lúc nãy chạy vọt ra ngoài hẻm như hai con mang. Tôi có muốn làm cho họ sợ hãi đâu!
29.07.2014
14
Người dịch: Vũ Kim Thư
Nguồn: NXB Văn Nghệ TPHCM
Nội dung thu gọn
Thi đoàn lại tới kỳ họp tại nhà Edouard Knoblock. Cuộc viễn chinh nhà chứa đã được quyết định xong. Nhân vật chính là nhà giáo kiêm nhà thơ Otto Bambuss đứng chờ đợi để tìm hồng huyết cầu cho những vần điệu của anh ta. Hans Hungermannn cũng nôn nóng với mục đích gia tăng kích thích tố cho tập Casanova và một số thơ tự do chưa đủ sức nóng.
Tôi hỏi Edouard :
- Sao bạn không đi với chúng tôi?
Hắn trả lời với giọng điệu trên trước :
- Không cần. Đã đầy đủ lắm rồi.
Tôi biết là hắn nói dối và biết rõ hắn muốn ám chỉ gì. Hans Hungermann cười :
- Ông ta ngủ với mấy con nhỏ ở nhà hàng. Nếu chúng nó từ chối, ông ta sẽ tống cổ ra.
Edouard phản kích ngay :
- Chỉ có những đứa làm thơ tự do mới thích thứ tự do luyến ái. Với tôi thì không, thưa ông bạn.
- Còn với khách thì sao?
Edouard nhìn lên cao :
- Với khách nhà hàng? Đôi khi mình đa cảm. Như những nữ bá tước Bell Armin chẳng hạn, hay thí dụ như...
Tôi cắt ngang :
- Nói hết ra. Thí dụ như ai?
Edouard nhún nhảy :
- Người đàng hoàng luôn luôn biết giữ kín chuyện riêng.
Ngay lúc đó, Valentin Busch bước vào. Tuy không phải con người văn nghệ nhưng hắn vẫn tới mỗi khi Otto Bambuss lạc vần thơ. Hắn cười với Edouard :
- Mạnh giỏi chớ? Vẫn sung sướng còn được sống, phải không? Nếu không thì làm gì có chuyện bá tước. Truyện "Bia Mộ Đen Và Bầy Diều Hâu Gãy Cánh " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Edouard ngạc nhiên :
- Ủa! Làm sao bạn biết?
- Ở dưới đường, tôi nghe bạn tuyên bố oang oang. Chắc là uống khá nhiều. Mặc! Sẵn sàng chấp nhận vụ bà bá tước. Chỉ biết là tự hài lòng đã cứu bạn sống đủ rồi.
Đoán chừng Valentin sắp mở cuộc tấn công vào hầm rượu, Edouard đánh gạt :
- Ồ, đó là chuyện còn hồi chiến tranh.
Valentin hòa hoãn :
- Được rồi! Nhưng sau chiến tranh coi bộ bạn sống thơ mộng lắm.
- Giữa thời buổi này à?
- Tự nhiên. Khi thất vọng con người thường thích chuyện phiêu lưu. Nữ bá tước, nữ nam tước, nữ tử tước giữa thời buổi này lại càng thất vọng hơn ai cả. Xin lỗi, đang ờ giữa những nhà thơ mà tôi lại ghép vần ghép điệu. Thế nào, Edouard? Một chai rượu ngon chớ?
Knoblock vẫn không lạc hướng :
- Bữa nay, không được đâu. Rất tiếc, Valentin, cả thi đoàn bận ra ngoài thưởng ngoạn.
- Bạn cùng đi à?
- Dĩ nhiên, Louis! Là thủ quỹ, tôi phải... Hồi nãy, tôi không nghĩ tới. Bổn phận phải làm tròn.
Tôi cười, Valentin nháy mắt với tôi nhưng không cho biết có cùng đi không. Edouard cũng cười khi nghĩ tới khỏi mất toi một chai rượu hảo hạng.
Chúng tôi lên đường tới số 12 đường Nhà Ga. Thành phố chúng tôi có hai nhà thổ, nhưng cái quán gái ở Nhà Ga đặc biệt hơn. Đó là một ngôi nhà nho nhỏ nằm biệt lập giữa những cây bạch dương. Đó cũng là nơi mà tôi đã từng biết qua thời còn thơ ấu, dĩ nhiên là không cần hiểu những nhân vật trong đó làm gì.
Những chiều thả rong, bọn học trò nhãi ranh chúng tôi thường rủ nhau ra suối hay tới ao để bắt cá, câu lươn hoặc ra đồng đuổi bướm. Một trưa nóng bức, chúng tôi kéo nhau tìm quán nước không ngờ lại đi vào ngôi nhà số 12. Gian phòng lớn từng dưới cũng giống như hầu hết những quán nước khác. Chúng tôi quây quần uống nước Seltz và một lúc sau, vài người đàn bà mặc áo rộng trong nhà và váy hoa đến ngồi cùng bàn. Họ hỏi chúng tôi làm gì và học lớp mấy. Tám hôm sau, đúng vào tiết đại thử, bọn tôi lại vào quán này, có cả sách vở mang theo để học ôn trong khi ngồi hứng mát bên bờ suối. Những người đàn bà khả ái đó cũng lại tới bàn chúng tôi hỏi han thân mật. Phòng mát, người nhà dễ dãi, buổi chiều lại vắng khách, chúng tôi lấy bài ra làm. Mấy người đàn bà nhìn chúng tôi học, thỉnh thoảng chỉ dẫn cách làm cho đúng với dáng điệu của những cô giáo. Họ đọc lại những bài luận, kiểm soát điểm, bắt chúng tôi trả bài thuộc lòng. Những đứa giỏi thường được thưởng sô-cô-la trong khi mấy thằng quá kém thì bị véo tai. Và rồi, chẳng bao lâu, hình ảnh quen thuộc và sự đối xử chân tình của người đàn bà dễ mến đó khiến cả bọn học sinh chúng tôi coi họ như dì hay cô giáo. Cứ mỗi lần bọn tôi tới là họ sốt sắng hỏi về bài vở và khuyên nhủ cũng như rầy la. Vào thời đó, mẹ tôi bịnh phải năm nhà thương nên một phần học vấn của tôi được kể như đã hấp thụ trong ngôi nhà chứa điếm đó. Phải nhìn nhận rằng, họ nghiêm khắc và tận tình hơn những người đã dạy chúng tôi ở trường hoặc ở nhà. Hai mùa Hè liên tiếp, chúng tôi đều tới học và làm bài ở ngôi nhà số 12, rồi gia đình tôi phải dọn về một khu vực khác. Truyện "Bia Mộ Đen Và Bầy Diều Hâu Gãy Cánh " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com) Truyện "Bia Mộ Đen Và Bầy Diều Hâu Gãy Cánh " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Trong thời chiến, tôi trở lại đó một lần với các bạn. Đó hôm chia tay để lên đường ra mặt trận sau một thời gian được huấn luyện quân sự. Tất cả chúng tôi đều tròn 18 tuổi, và phần lớn chưa hề biết đàn bà. Lý do khiến bọn lính mới chúng tôi chọn nơi này là không muốn chết trước khi biết rõ chuyện đời. Năm đứa cùng vào. Người nhà đón chúng tôi vô cùng náo nhiệt. Phần bọn tôi thì háo hức vì mấy năm sau này, chúng tôi đã biết họ là ai. Sau một lúc mượn rượu lấy can đảm, Willy - thằng bạo dạn nhứt trong bọn - gọi Frilzi, người hấp dẫn nhứt của nhà chứa :
- Thế nào cưng, mình lên phòng được chưa?
Frilzi trả lời qua khói thuốc :
- Được chớ, nhưng có đủ tiền không?
- Quá nhiều.
Willy vừa đáp vừa cho coi khoảng tiền lương mới lãnh gộp chung với số tiền của bà mẹ cho trước khi ra trận. Fritzi lơ đãng bảo :
- Xong rồi, theo tôi.
Willy đứng lên, lột mũ lính ra. Fritzi bỗng rùng mình mà nhìn sững vào mái tóc hung của Willy - một màu hung đặc biệt - mà mãi cho tới bảy năm sau, người đàn bà này vẫn chưa quên. Fritzi nhận ra ngay :
- Xin lỗi, cậu có phải là Willy không?
Willy cười thật tươi :
- Đúng nó rồi.
- Và trước kia, hồi còn bé, cậu có tới đây làm bài của nhà trường?
- Quả đúng.
Fritzi gằn từng tiếng :
- Vậy mà... mà cậu có còn ý định lên phòng với tôi?
- Cố nhiên! Mình là người cũ với nhau.
Nó vừa đáp vừa cưới hô hố nhưng tiếp sau đó là một tiếng chát vang lên. Nó bị tát tai, đang ngơ ngác trong khi người đàn bà nói như nghẹt thở :
- Đồ thú vật! Vậy là hết rồi!
Willy ấp úng :
- Sao vậy? Mấy thằng kia...
Fritzi lồng lên :
- Mấy thằng kia... Mặc kệ chúng nó. Có phải chính tao đã bắt bọn mày trả bài thuộc lòng về giáo lý cương yếu không? Có phải chính tao giúp bọn mày làm bài không? Có phải chính tao lo sợ bọn mày cảm lạnh không? Trả lời mau, quân con heo!
- Nhưng bây giờ, tôi đã mười bảy tuổi rưỡi...
- Câm miệng! Đồ trâu chó! Đi ra ngay!
Tôi buột miệng :
- Ngày mai nó ra trận.
Người đàn bà nhìn thẳng vào mắt tôi :
- Còn mày, có phải thằng bé thả rắn trong phòng này không? Phải đóng cửa ba ngày để tìm cho ra mấy con rắn của mầy, nhớ không?
- Tôi đâu có thả. Tại chúng nó sút ra...
Tôi chưa kịp nói hết đã bị một cái tát như trời giáng. Frilzi gầm lên :
- Đi ra! Mau! Bọn côn đồ!
Cả bọn chúng tôi tiu nghỉu đi ra với vũ khí trên tay nhưng cũng với một bên tai nóng rát. Chẳng biết làm gì hơn, cả bọn lại rủ nhau đi uống rượu cho tới say mèm.
Trong tình trạng đó, chúng tôi ra tới chiến tuyến. Mười tám tuổi chưa hề biết đàn bà. Và một số đã chết ngoài mặt trận, chắc không còn đủ thời giờ hối tiếc.
29.07.2014
15
Người dịch: Vũ Kim Thư
Nguồn: NXB Văn Nghệ TPHCM
Nội dung thu gọn
Mùa viêm nhiệt đè nặng trên thành phố. Đồng Mỹ kim lại nhảy vọt lên hai trăm ngàn đồng Marks, nạn đói gia tăng. Vật giá lên thang với một tốc độ kinh hồn. Những người sống bằng đồng lương cố định bằng những lợi tức nhỏ nhoi càng ngày càng khốn đốn trong khi một thiểu số cứ phì nộn ra. Chánh phủ ngồi nhìn như một khán giả. Chẳng có gì đáng lo bởi lẽ nạn lạm phát giúp họ thoát nợ. Hãy cai trị trước đã!
Ngôi mộ phần của bà Niebuhr đặt đã làm xong. Thật là quái đảng: cả một guồng máy to lớn bằng đá với cửa kính, dây xích bằng đồng và lối đi lát sỏi. Bà ta cứ đòi làm theo ý mình và bây giờ cả khối đá đó đã thành hình, bà ta không chịu lấy. Với một cây dù sặc sỡ cầm tay, một chiếc nón rơm cài hoa trên đầu, một xâu chuỗi trân châu giả quanh cổ, bà ta đứng đợi chúng tôi ngoài vườn. Bên cạnh người góa phụ là một gã thô kệch cao lớn mặc quần áo ca-rô, có vẻ khó chịu vì phải đứng đợi ở một nơi đầy mộ bia, niệm tháp. Vậy là vĩnh biệt những ngày tang chế, bà Niebuhr đã tái đính hôn. Ông chủ lò bánh mì qua cố không còn một chút bóng dáng nào. Người may mắn được chọn là Ralph Lehmann có một chức vị mơ hồ nhưng hấp dẫn là cố vấn kỹ thuật. Với một tiểu danh khá hay và một vị trí trong kỹ nghệ thế mà y phục của anh chàng lại tồi tàn, ngoại trừ cái cà-vạt mới tinh và đôi giầy màu da cam, có lẽ là quà tặng đầu tiên của bà Niebuhr.
Câu chuyện chẳng đầu đuôi. Lúc đầu bà ta bảo là không hề đặt làm và trắng trợn hỏi :
- Có giấy tờ gì không?
Georges kiên nhẫn giải thích là nếu bắt thân chủ ký giấy thì chẳng khác gì xúc phạm tới tang gia và cho nghề nghiệp nữa. Vả lại chúng tôi còn có khoảng một chục người làm nhân chứng. Chính bà Nieburh đã đòi hỏi phải làm này làm nọ đến nỗi muốn điếc tai cả lô thợ và anh chàng điêu khắc Kurt. Hơn thế, bà ta còn trả trước một phần. Truyện "Bia Mộ Đen Và Bầy Diều Hâu Gãy Cánh " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Nghe tới đó, bà ta chộp ngay :
- Đó, tôi đang muốn nói tới chuyện đó. Phải trả tiền đó lại cho tôi.
- Như vậy chứng tỏ là bà có đặt làm.
- Không được đặt gì cả, chỉ có trả tiền trước vậy thôi.
Tôi hỏi anh chàng của giới kỹ thuật :
- Chẳng biết ông Lehmann nghĩ thế nào? Nhứt là với tư cách cố vấn kỹ thuật?
Anh chàng không do dự bênh vực bà cố chủ lò bánh mì ngay :
- Trả lời như thế là đúng. Các ông phải phân biệt...
Georges chận lời bằng cách cho hắn biết là vụ này cũng chẳng có giấy tờ gì cả. Anh chàng quay lại hỏi bà Niebuhr :
- Không có biên nhận hả?
Người góa phụ ấp úng :
- Em không biết... Họ không đưa rồi bây giờ nói ngược...
Georges thẳng thắn :
- Chúng tôi không hề bảo là bà chẳng trả trước. Chúng tôi chỉ muốn cho thấy là công việc giữa bà và chúng tôi chẳng có một giấy tờ nào cả. Ngay như việc đặt hàng cũng vậy.
Ralph chen vào :
- Vậy là rõ rồi.
Georges làm như không nghe, anh nói to :
- Chúng tôi sẵn sàng lấy lại cái mộ phần nếu ông bà muốn.
Ralph lại nói hớt :
- Nhưng còn tiền trả trước?
- Đương nhiên là không còn hiệu lực.
- Sao?
Vừa hỏi anh chàng cố vấn kỹ thuật vừa lột áo ngoài ra. Bây giờ tôi mới để ý cái quần của hắn hơi ngắn. Hắn nói tiếp :
- Đối với chúng tôi không thể có chuyện đó.
Georges tỉnh bơ :
- Với chúng tôi cũng vậy.
Cuộc cãi vã kéo dài thêm mười lăm phút nữa trước khi đi tới một thỏa hiệp: chúng tôi trả ngay phân nửa số tiền cọc. Phần còn lại sẽ trả trong vòng hai tuần. Thế là chúng tôi có lợi nhờ vào nạn lạm phát bởi luật pháp không hề trù liệu đến chuyện này. Nếu họ kiện, việc xét xử có thể kéo dài tới một năm và chừng đó chúng tôi cũng chỉ trả cho y số tiền cũ.
Khi cặp vợ chồng sắp cưới quay lưng, tôi hỏi Georges :
- Bây giờ anh định làm gì với cái lăng tẩm kỳ quái đó? Hay là đặt nó trong vườn để làm một tiểu giáo đường?
- Đừng nóng, chú em! Trước hết là sửa lại cái mái rồi nhờ Kurt Bach cho thêm một cái gì bình thường vào đó chẳng hạn như một con sư tử chịu tang, một người lính xung phong... Tôi sẽ cho bít hai cái cửa sổ lại bằng hai tấm cẩm thạch để làm mộ chí và nó sẽ biến thành...
- Biến thành một cái đài tưởng niệm chiến sĩ trận vong cỡ nhỏ. Anh biết là Kurt không đủ khả năng tạc một thiên thần, một chiến sĩ xung phong hay một phụ nữ Đức đang than khóc. Tài của hắn chỉ tới mức chạm nổi thôi.
Chúng tôi lại bàn thêm một lúc nữa nhưng rồi đâu cũng lại vào đấy. Cuối cùng, Georges bảo :
- Thôi bỏ đi. Để tôi mời chú một chai ở quán của Knoblock.
Như thường lệ, mỗi khi thấy chúng tôi là mặt của Edouard như bị che phủ bởi một lớp mây mờ. Georges móc một nắm bạc ra :
- Yên tâm, ông Knoblock. Hôm nay hãng Kroll trả bằng tiền mặt.
- Thật không? Phải tới hồi kết cuộc của những cái phiếu đó chớ. Ngồi gần cửa sổ đi!
Tôi nhìn vào phòng ăn dành riêng. Gerda đang ngồi trước một ly rượu chát. Tôi đay nghiến :
- Này, cô không rời nổi cái quán ăn này hả?
Con bé cười lớn, không một chút ngượng :
- Anh biết là tôi có việc làm ở đây chưa?
- Hả?
- Dạ, như vậy đó, thưa ngài Dự thẩm.
Georges thúc nhẹ cùi chõ vào tôi rồi nói với Gerda :
- Trong trường hợp đó xin phép cho chúng tôi được mời cô.
Gerda nhìn cả hai chúng tôi :
- Các anh tưởng là tôi không có quyền mời như bữa trước sao?
Tôi lại không dằn được :
- Không là cái chắc. Sợ Edouard từ hôn.
Gerda chỉ cười, không nói. Hôm nay con bé mặc một cái áo quá đẹp bằng tơ sống, màu thuốc lá.
Edouard trở ra và mặt hắn lại bị mây mờ che phủ khi thấy bọn tôi đang nói chuyện với Gerda. Có lẽ hắn nghĩ chúng tôi định đánh lừa hắn để khỏi trả tiền ăn lần nữa. Georges đoán biết ngay :
- Chúng tôi mời cô Schneider để ăn mừng sự xác nhận của người bạn Louis đây. Người thanh niên này cuối cùng đã nhìn nhận rằng quả đất vẫn tròn dù không có anh ta.
Chủ nhà hàng Walhalla tin lời Georges. Hắn đề nghị :
- Hôm nay có món gà giò tuyệt diệu.
Tôi lắc đầu :
- Không cần. Cứ mang thực đơn thường lệ ra đây. Và đừng dài dòng nữa, đi tìm ngay một chai Reinhasdt 1921.
Gerda ngẩng đầu lên :
- Rượu chát miền Nam? Bộ các anh trúng số phải không? Tại sao không thấy tới Moulin Rouge?
- Như vậy có nghĩa là bọn này chưa trúng lớn. Còn cô, vẫn có mặt thường xuyên, phải không?
- Anh không biết là đáng xấu hổ. Hỏi Edouard thì biết. Tôi xin nghỉ mười lăm hôm. Đầu tháng tới tái ký hợp đồng.
Georges quyết định :
- Tới lúc đó chúng tôi sẽ đi xem.
Gerda nói nhỏ vào tai tôi :
- Cô bạn của anh hôm qua lại tới đó. Truyện "Bia Mộ Đen Và Bầy Diều Hâu Gãy Cánh " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
- Erna hả? Không phải là bạn của tôi. Đi với ai?
- Nếu không phải là bạn thì đi với ai mặc người ta.
Rượu Reinhardt thì không chê vào đâu được. Edouard mang tới và tự tay khui lấy. Hắn không muốn rượu ngon bị hôi mùi nút chai đồng thời cũng thừa cơ hội để rót cho mình một ly. Hắn hớp một ngụm rượu, rồi tròn mắt, khen :
- Tuyệt hảo!
Hắn nói bằng tiếng Pháp cố giữ thật đúng giọng. Tôi phá ngang :
- Mấy tay tay sành ném rượu chỉ cần một vài giọt là đủ.
- Với tôi thì không. Nhứt là với loại rượu chát miền Nam này. Không thể bỏ qua.
Hắn trả lời quá đúng làm cho chúng tôi nghẹn luôn. Tuy nhiên, chúng tôi hãy còn con bài bí hiểm cuối cùng: sẽ trả tiền ăn bằng phiều.
Edouard rót đầy ly cho bọn tôi :
- Georges, bạn đãi tôi một ly, phải không?
Tôi phản đối :
- Chưa được. Chủ tôi và tôi có ý định uống hơn một chai. Bọn này sắp ăn đừng đứng nhìn miệng như thế.
- Được rồi. Nhưng coi chừng, lần này trả bằng phiếu thì sẽ biết.
Hắn lởn vởn vài bước quanh chỗ ngồi của Gerda như một người đang múa điệu polka.
Gerda cố nhịn để khỏi cười. Tôi chạm vào gối Georges dưới bàn để báo hiệu sắp có trò vui.
- Knoblock!
Một tiếng quát rền vang giọng nhà binh.
Edouard nhảy dựng lên rồi quay nhìn qua vai. Renée de la Tourterelle cười vô tư. Thấy bộ mặt hầm hừ của Edouard, tôi cho hắn phát ân huệ :
- Đừng giận ông chủ quán thân yêu. Đó là lỗi của dòng máu Đức quốc. Hàng thế kỷ bị đô hộ. Nghỉ, trung sĩ Knoblock!
Hai phụ nữ chào nhau và bắt ngay vào chuyện thời trang.
Một lúc sau, Willy xuất hiện, ăn mặc như một ông hoàng. Nó kêu lớn :
- Rượu chát à? Bọn đào huyệt định dìm nỗi buồn của những tang gia vào rượu! Có cho khách uống không?
Tôi không chịu lép vế :
- Bọn này không phải mua rượu với tiền kiếm được ở thị trường chứng khoán đâu. Tuy nhiên, vẫn hân hạnh được mời Renée. Bất cứ kẻ nào làm cho Edouard sợ đều đáng được tiếp đón niềm nở.
Gerda phì cười và dùng mũi giày đá nhẹ vào chân tôi. Và gối con bé cọ vào gối tôi rồi giữ yên ở đó. Một luồng nhiệt lực chạy dài theo xương sống tôi. Đột nhiên hai đứa tôi trở thành đồng lõa.
Sau bữa ăn khá náo nhiệt, chúng tôi bảo Edouard mang giấy tính tiền tới, một cho Georges và một cho Willy.
Gerda chờ đợi một sự bùng nổ. Tôi và Georges mỗi người lẳng lặng rút phiếu khẩu phần đặt trên bàn. Nhưng, Edouard không bủng nổ. Hắn cười :
- Lần này thì đặc miễn cũng không sao vì các bạn dùng rượu chát khá nhiều.
Hắn có lý vì Willy đã trả tiền rượu phần nó và phần của chúng tôi. Phiếu khẩu phần không hề kể thức uống. Một lần nữa, Gerda nói nhỏ vào tai tôi :
- Mình đi...
Cửa sổ mở toang. Bên ngoài lá nho tươi chờn vờn trong gió. Âm thanh đương cầm từ dưới lầu vọng lên. Thỉnh thoảng điệu luân vũ dành cho người đi giày bánh xe lại bị dứt quãng bởi những tiếng uỳnh uỵch của nữ lực sĩ đấu vật đang biểu diễn.
Tôi đang ở trong phòng trọ của Gerda...
Gần giường có hai chai bia còn mát lạnh. Tôi vói lấy một đưa cho Gerda :
- Biến thành da nâu hồi nào vậy.
- Phơi nắng. Trời mùa này, còn nắng nào hơn. Dường như anh chẳng biết nắng là gì.
- Có chớ. Nhưng ngồi ở văn phòng chả lẽ mặc quần đùi.
Gerda cười :
- Làm việc cho hộp đêm thì ban ngày dĩ nhiên là quá rỗi rảnh. Mấy lúc sau này, anh ở đâu?
- Đi vơ vẩn.
Vừa trả lời tôi vừa nhớ tới Isabelle vẫn thường hỏi tôi câu đó. Tôi hỏi lại :
- Có ở với Edouard thường không?
- Này, đừng có viện cớ làm tình làm tội người ta.
Gerda vươn vai và uống một ngụm bia. Tôi nhìn căn phòng :
- Ở đây cũng đẹp chớ. Có cảm tưởng như đang ở trên thượng từng của một đại tửu quán nào đó trong vùng biển Phi Châu. Và em thì nâu sậm như các thiếu nữ ở đó.
- Còn anh thì là một nhà buôn da trắng chở theo hàng khối bông vải, trân châu giả, kinh thánh và rượu mạnh.
- Đúng vậy. Đúng như anh đã ước mơ từ năm mười sáu tuổi.
- Và sau đó?
- Sau đó, thôi mộng mơ!
Tôi nằm dài trên giường, bình lặng và thoải mái cạnh Gerda. Sương chiều nhè nhẹ len vào. Tôi không nghĩ gì cả, không cần gì cả cũng không dám tự đặt một câu hỏi nào. Phần thể xác lênh đênh cuộc đời giản dị, thời gian chậm chạp trôi qua, duờng như thiên thần đã tới ở tầm tay, tôi lặng lẽ uống từng ngụm bia tươi mát, nghe chất hốt bố tan loãng trên đầu lưỡi.
một lúc khá lâu, Gerda bỗng lên tiếng :
- Anh có tin là Renée sẽ được tặng áo lông không?
- Tại sao không? Willy bây giờ đã là tỷ phú mà.
- Em muốn hỏi chị ấy xem Willy hứa loại gì. Hải ly, có lẽ.
Tôi ậm ừ :
- Có lẽ là chồn, hay báo. Chắc là báo.
- Áo lông báo không đủ ấm trong mùa Đông. Loại hải cẩu thì xưa rồi. Lý tưởng nhất là hồ cừu.
- Hừm!
- Áo hồ cừu. Đó là cả một cuộc sống. Chỉ có một điều trở ngại là đắt kinh khủng.
Tôi đặt vỏ chai lên sân ván dưới chân giường. Câu chuyện đã bắt đầu gay cấn.
- Tất cả các thứ đó đều vượt quá sức anh. Ngay đến một cái khăn quấn cổ bằng lông thỏ cũng không mua nổi.
Gerda ngạc nhiên :
- Anh hả? Em đâu có nói anh.
- Chớ còn ai? Trong hoàn cảnh này dù khờ khạo thế mấy, anh cũng thừa tế nhị để hiểu. Buồn thay, ở thời đại chúng ta, sự tế nhị đã trở thành vô dụng.
Gerda cười ngặt nghẻo :
- Cưng ơi! Sao đa nghi vậy! Không phải là cưng đâu!
- Vậy chớ ai?
- Còn ai nữa ngoài Edouard?
Tôi ngồi phắt lên :
- Em định bảo Edouard mua cho áo lông, phải không?
- Chớ còn gì nữa. Chưa chắc là có được không, nhưng nếu Renée có thì em hy vọng. Đàn ông... anh biết không, họ hay tự ái vặt. Em không nói anh đâu.
- Em dám nói ra điều đó trong khi chúng mình chung giường gối với nhau à?
- Sao lại không? Em không bao giờ có ẩn ý.
Tôi sững sờ đến không biết phải nói gì. Gerda nhìn tôi :
- Bộ giận hả?
- Không bao giờ. Chỉ hơi chán nản thôi.
- Quả đúng anh là một quái tượng. Dường như bất cứ lúc nào anh cũng có sẵn một số lý do để bất mãn. Và nếu em đòi anh mua cho một cái áo khoác thôi, anh lại cũng bất mãn.
- Chẳng lẽ anh phủi tay khi nghe em nói vậy?
- Phải như thế mới được. Anh không thuộc về hạng người cầu cạnh.
- Người gì?
- Người cầu cạnh. Những kẻ dùng tiền để kiếm tình yêu. Như Edouard chẳng hạn.
- Còn Willy thì sao?
- Cũng gần như thế.
Tôi ngồi lặng thinh, chợt thấy mình quá dốt.
- Bộ em không có lý sao?
- Có lý cái gì?
Gerda lại cười :
- Lại giận nữa rồi. Đúng là trẻ con!
- Phải, và tôi cứ như thế mãi, nếu không...
- Nếu không thì sao? Truyện "Bia Mộ Đen Và Bầy Diều Hâu Gãy Cánh " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
- Thì...
Tôi suy nghĩ. Dù không biết rõ muốn nói gì tôi vẫn cố nói cho hết câu :
- Nếu không, tôi có cảm tưởng mình là một thằng ma cô.
Lần này thì Gerda cười đến gần nghẹt thở... Một lúc sau, nàng nói với tôi, nửa thương hại, nửa đùa cợt :
- Bé con ơi rồi sẽ có ngày cưng bị phản bội cho coi.
Khốn nạn! Tôi đang tưởng tượng sống ở một hải đảo vùng nhiệt đới, bỗng nhiên con bé lôi tôi ra khỏi giấc mơ. Bây giờ tôi có cảm tưởng như đang bị một lũ khỉ tới tấp ném xương rồng vào người.
- Thôi không nói chuyện ma cô, mọc sừng nữa. Còn thiếu gì chuyện khác.
Gerda nhìn tôi :
- Đúng vậy. Dường như chúng mình chưa nói đến chuyện đó.
- Chuyện gì?
- Yêu đương chớ chuyện gì. Đó là chuyện đáng nói. Chả lẽ bây giờ anh lại muốn làm thơ?
Chạm tự ái, tôi vừa toan sừng sộ thì Gerda đã hôn tôi, một cái hôn của bọt bia nhưng đủ sức kéo tôi trở về bãi biển vùng nhiệt đới, chẳng có một con khỉ nào ở chung quanh.
- Anh có biết tại sao em thích anh không? Vì anh là một đứa bé có quá nhiều định kiến. Anh đi vào tình yêu với bước chân của một anh chàng sinh viên Heidellberg cứ lẫn lộn điệu luân vũ là một hành khúc. Anh đúng là đứa con của Đức quốc.
- Lại chửi bới nữa, phải không?
- Không đâu. Em chỉ nhận định. Chỉ có những kẻ ngu đần mới tin rằng có quốc gia này hơn quốc gia khác.
- Còn em, em không phải là con của Đức quốc?
- Mẹ em người Tiệp Khắc. Nhờ vậy mà em không thiên vị.
Tôi nhìn suốt cả thân hình nhỏ nhắn của Gerda và bỗng thích có một hoặc hai bà ngoại tổ người Tiệp Khắc. Không hiểu sao tôi buột miệng :
- Theo em thì anh có thể làm ma cô không?
- Không. Anh không có cái mà người ta gọi là quyền uy. Như vậy không thể sai khiến được ai bán thân để nuôi anh. Nhưng không sao, điều chánh yếu là họ vẫn ở với anh. Thôi, hãy ngủ một giấc nữa rồi em sẽ làm món thịt trừu hầm với tỏi... thật nhiều tỏi...
- Bộ có đủ đồ nấu ăn ở đây à?
Gerda chỉ một cái bếp nấu bằng hơi :
- Chỉ cần bao nhiêu đó là em có thể làm được một bữa ăn cho sáu người. Làm bếp theo lối Tiệp. Trong lúc em làm bếp, anh kể chuyện em nghe. Rồi chúng mình đi mua bia về. Chương trình có phù hợp với ý niệm của anh không? Nên nhớ là đứng để bóng dáng Edouard xuất trong đầu, kẻo rồi lại ăn mất ngon.
- Không bao giờ.
Tôi chỉ có thể nói thế thôi, ngôn ngữ biến đi đâu mất cả, hồn tôi nhẹ lâng lâng.
29.07.2014
16
Người dịch: Vũ Kim Thư
Nguồn: NXB Văn Nghệ TPHCM
Nội dung thu gọn
Nghe tiếng động dưới văn phòng, tôi tưởng là kẻ trộm nên rón rén xuống cầu thang. Nhưng rồi tôi hết sức ngạc nhiên khi thấy Riesenfield đang ngồi trên ghế. Năm giờ sáng, lại là Chúa Nhật sao hắn lại có mặt ở đây? Tôi mở giọng ỡm ờ :
- Ông có lầm không? Hôm nay là ngày của Chúa. Ngay cả thị trường chứng khoán cũng không làm việc. Bọn vô thần chúng tôi lại càng phải nghỉ ngơi. Vậy thì tới với do gì? Đòi nợ để đi Moulin Rouge chăng?
Riesenfield lắc đầu :
- Chỉ viếng thăm thân hữu không có gì lạ. Mới tới trên đường đi công việc. Vào giờ này tìm đâu cho ra khách sạn? Nhưng tới đây thì chắc phải có cà phê. Người đẹp bên kia đường thế nào? Có thức sớm không?
- Hoan hô sức tráng kiện! Rất tiếc là Chúa Nhật, chồng người ta có mặt ở nhà. Một lực sĩ biết chơi dao.
Riesenfield lạnh lùng :
- Tôi cũng vô địch về dao búa. Nhứt là khi nào được uống cà phê với một ít bơ và vài giọt rượu mạnh.
- Được lắm. Xin theo tôi về trên này. Nếu muốn, ông có thể chơi dương cầm lúc chờ đợi tôi pha cà phê.
Riesenfield lắc đầu :
- Ở đây được rồi. Cảnh sắc bình minh của mùa Hè và những hòn đá láng góc này cũng thú vị lắm. Vả lại sẵn có rượu mạnh ở đây mà.
- Trên phòng tôi còn có thứ ngon hơn.
- Tôi thích ngồi ở văn phòng.
- Được, tùy ý ông, ông Riesenfield.
- Coi kia, sao la to chi vậy? Tôi có điếc đâu.
Tôi lại nói to hơn, vừa nói vừa cười :
- Gặp lại ông vui quá.
Vui thế nào được khi một người chủ nợ vào nhà lúc trời chưa sáng tỏ. Tôi cố nói thật to và cố gọi tên Riesenfield không ngoài mục đích báo động tình thế cho Georges ở phòng bên. Theo tôi biết thì đêm qua, anh chàng Watzek đã đi dự phiên họp Quốc Xã tại một nơi nào đó và Lisa đã thừa cơ hội chuồn sang bên này ngủ với Georges. Nếu Riesenfield cứ ngồi lì ở đây, làm thế nào Lisa có thể về nhà.
- Được rồi. Tôi sẽ mang cà phê xuống.
Tôi lên gác, lấy một quyển sách buộc ở đầu dây rồi thả cho đong đưa qua trước cửa sổ. Kèm theo bìa quyển sách là một mảnh giấy có ghi “Báo động, Riesenfield đang ở trong văn phòng”. Quyển sách của Kant đưa qua đưa lại vài lần thì cái đầu sói của Georges thò ra cửa sổ. Tôi dùng cả hai bàn tay cố giải thích cho y hiểu là không có cách nào để dẫn dụ Riesenfield ra khỏi văn phòng.
Kéo dây lên, tôi cột vào một chai rượu manh, thòng xuống. Một cánh tay trắng ngà, mũm mĩm lấy thay cho Georges. Làm thế nào biết được Riesenfield sẽ còn ngồi ở đó bao lâu? Trong thời gian chờ đợi cặp uyên ương có thể cần tới ăn uống sau một đêm mệt mỏi. Nghĩ vậy nên tôi lần lượt thả bánh mì và dồi chả xuống. Tôi nghe Georges cố gắng mở chút chai cho khỏi kêu. Thế là Roméo Kroll và Juliette Watzek thoát nạn tạm thời. Truyện "Bia Mộ Đen Và Bầy Diều Hâu Gãy Cánh " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Giữa lúc tôi và Riesenfield dùng cà phê, Henri đi qua sân. Ngoài những thói xấu, ông ta còn được thói quen dậy sớm và gọi đó là dâng hiến buồng phổi cho thiên nhiên của Thượng đế. Đối với ông ta Thượng đế chắc phải là một ông Thống chế.
Ông ta trịnh trọng bắt tay Riesenfield nhưng tay tài phiệt đá hoa cương vẫn lạnh lùng :
- Xin cho tôi được tự nhiên, uống cà phê xong tôi sẽ ngồi đợi sáng, chẳng có việc gì cả.
- Không dám. Một quý khách như ông phải được tiếp đón đàng hoàng.
Và Henri quay sang tôi :
- Chú không còn một ít bánh nóng nào để đãi ông Riesenfield sao?
Tôi bực mình :
- Thì cứ hỏi bà Niebuhr hay mẹ ông xem. Nên nhớ là chúng ta đang sống trong chế độ Cộng Hòa chớ không phải là thời vua chúa nữa. Chúa Nhật, các lò bánh mì đều có quyền nghỉ.
Ông ta quắc mắt :
- Còn Georges đâu?
Tôi lại phải nói lớn tiếng cho Georges nghe :
- Georges đâu có cần người theo giữ, thưa ông Kroll.
- Chú nên nhớ chú là nhân viên, phải ăn nói nhã nhặn
- Bữa nay là Chúa Nhậtt, không có chuyện nhân viên và chủ nhân. Tôi phải thức sớm là vì yêu nghề mà cũng vì trọng nể bực thầy của đá hoa cương đang ngồi đây.
Henri phân bua với Riesenfield :
- Ông thấy chưa! Chính vì những người mất tư cách này mà chúng ta thua trận. Lại thêm bọn trí thức chậm tiến và quân Do Thái.
Riesenfield phớt tỉnh thêm vào :
- Và những người đi xe đạp nữa.
Henrl kinh ngạc :
- Sao? Những người đi xe đạp à?
Riesenfield vặn lại :
- Và sao lại kể những người Do Thái.
Henri chưng hửng rồi cười gượng :
- Ông Riesenfield lại khôi hài! Thôi để tôi gọi Georges.
Ông Riesenfield ngăn lại :
- Để ông ấy ngủ. Sáng sớm tôi không thích chuyện trò.
Henri đứng lại. Tôi đề nghị :
- Hay là mời ông Riesenfield đi thưởng ngoạn cảnh vật thiên nhiên của Thượng đế một vòng? Lúc hai người trở về là có đủ cả trứng chiên, bánh mì nóng và một bó hoa...
Riesenfield chối mau :
- Xin cám ơn. Tôi chỉ muốn ngồi ngủ ở đây.
Chẳng còn cách nào hơn, đành để cho Geoges tự xoay xở. Riêng phần Henri... Riesenfield cố nhiên đã có cách rứt ra.
Thành phố ướt đẫm sương. Còn hai giờ nữa mới tới phiên lễ ở Viện Tâm Trí. Tôi bước chậm. Lâu lắm rồi, tôi chưa có dịp đi vơ vẩn thế này. Gió mát rượi và dìu dịu tưởng như hôm qua đồng đô-la đã sụt xuống từ hai trăm năm chục ngàn Đức kim thay vì lên nữa. Tôi nhìn xuống mặt sông êm đềm một lúc và quay đầu đi chợt bắt gặp cửa hiệu Bock chuyên làm tương hột cải.
Có người chạm mạnh vào vai, tôi giựt mình quay lại. Một mụ già cao lớn nhưng gầy nhom, mắt đỏ ngầu có lẽ vì thiếu ngủ đang nhìn tôi: anh chàng Herbert Scherz. Tôi lườm hắn :
- Chào cụ! Nên nói là chào buổi sáng hay buổi tối. Mới ngủ thức dậy hay sắp lên giường?
Herbert hắng giọng nhiều lần mới nói ra.
- À, vậy là suốt đêm cụ chưa hề ngủ. Chắc phải có lý do đặc biệt?
- Mới nhập hội. Họ đãi đằng dữ quá!
Rồi nhìn tôi một chút, ông ta làm ra vẻ tiết lộ điều bí mật.
- Hội ái hữu cựu chiến binh hiểu chưa?
Tôi quá hiểu. Herbert Scherz là mẫu người thích sưu tập các hội ái hữu cũng như người ta sưu tập tem. Lão đã là hội viên của trên một chục hội ái hữu, không phải vì muốn giải khuây, mà là nghĩ tới một ngày chết với đám tang linh đình nhứt thành phố. Lão biết rằng một khi có một hội viên nằm xuống là mỗi hội ái hữu đều tiễn đưa với một vòng hoa và một biểu ngữ. Ngoài ra lại còn có một toán đặc biệt mang hội kỳ theo sát quan tài. Theo ước tính của lão thì khi lão chết, phải có cả hai chiếc xe chở đầy vòng hoa. Lão gia nhập lung tung, lão xin vào hội ái hữu đồng ca Bodo Ledderhose mà không hề biết một âm hiệu, tóm lại, lão bất cần nghề nghiệp của hội mà chỉ cần được là hội viên thôi. Chính vì vậy mà lão có chân cả trong các hội ái hữu thể thao, đánh cờ... và bây giờ lại vào hội ái hữu cựu chiến binh.
- Cụ có từng là lính chưa?
- Cần cóc gì. Là hội viên cũng đủ rồi. Thằng cha Schwartzkopf chắc phải ngẩn người ra.
Schwartzkopf là người tranh đua với Herbert, cả hai ông già ban đầu khích bác nhau vì tự ái nhưng lần lần cả hai đều say mê gia nhập các hội ái hữu và coi đó như là một trò thể thao. Tôi khích bác :
- Không chắc đâu. Ông Schwartzkopf cũng là tay cừ.
- Để rồi coi. Lần này không phải chỉ có vòng hoa và hội kỳ thôi đâu... còn có cả một tiểu đội mặc quân phục.
- Quân phục bị cấm rồi. Bộ cụ quên là mình bại trận sao? Sao cụ không vào hội ái hữu cảnh binh? Những người này còn được phép mặt đồng phục.
Tôi nhận thấy ông ta đang ghi chú ý kiến đó vào đầu. Nhưng ngay lúc này, ông ta cần phải đánh tan sự nghi ngờ của tôi để tự trấn an :
- Tôi chưa chết sớm quá đâu, mới sáu mươi tuổi, ăn nhằm gì. Biết chừng đâu từ đây tới đó sẽ chẳng có ngày quân phục được cho mặc lại. Phải phục vụ quyền lợi xứ sở chớ. Không thể làm nô lệ mãi.
Tôi tiếp tục tấn công :
- Một thường dân chết, dù có được nhũng người mặc quân phục tiễn đưa cũng không cô chuyện tuốt gươm trần.
- Hồi hôm, họ hứa chắc chắn mà. Chính ông Chủ tịch nói ra.
- Hứa là đủ sao? Xin cụ đừng tin lời hứa những người say.
Herbert dường như chẳng nghe tôi nói. Ông ta lẩm bẩm : Truyện "Bia Mộ Đen Và Bầy Diều Hâu Gãy Cánh " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
- Lại còn bắn một loạt súng danh dự lúc hạ huyệt nữa.
Tôi vẫn không buông tha :
- Ai cho bắn súng. Hiệp ước Versailles, cụ nhớ không?
Tuy nhiên tất cả các mũi dùi của tôi đều không lay chuyển nổi bức tường thép của ông ta. Mặt trời đã lên cao. Lão Herbert hắt hơi :
- Lần này Schwartzkopf thua đứt rồi.
- Không chắc đâu, coi chừng ông ta sẽ gia nhập hội ái hữu pháo binh. Tới chừng chết, họ sẽ tiễn đưa linh hồn bằng một loại đại bác.
Lão Herbert ngửng đầu lên, mi mắt phải giựt giựt. Thình lình ông ta khoác tay như bác bỏ một điều gì.
- Nhảm. Cả thành phố này chỉ có một hội cựu chiến binh. Thằng già đó thua đứt. Mai, tôi sẽ tới hãng của mấy người coi qua mấy cái tháp tưởng niệm. Phải quyết định cho xong. Ở hãng có cái nào coi được chưa?
- Chẳng có gì đáng kể, ngoại trừ... nhưng kể như đã bán rồi.
Lão ta cắn câu ngay :
- Sao?
- Cái này đồ sộ lắm. Nhưng thật sự là kể như đã bán rồi.
- Nhưng là cái gì mới được chớ?
- Một cái mộ phần. Tuyệt hảo. Ông Schwartzkopf đã...
Lão Herbert cười lớn :
- Thôi, chắc bạn nhỏ định dùng thủ đoạn để tống khứ một món gì bậy bạ đây.
Tôi làm nghiêm :
- Không đâu. Đây là một vật đồ sộ dùng làm nơi hội họp gia quyến sau ngày chôn người thân. Ông Schwartzkopf dự định cứ mỗi năm đúng vào húy nhựt của ông ta thì gia đình tụ họp ở đó để làm lễ. Cái này giống như một tiểu giáo đường, có cửa kính, có băng đá. Sau lễ tưởng niệm, gia đình có thể ở lại đó ăn uống đồ nhẹ, nói chuyện về người quá cố.
Lão ta vẫn còn cười nhưng tôi biết thâm tâm lão đã hơi lo.
Một lúc sau, lão lẩm bẩm :
- Chắc là ý kiến mới.
- Nhưng rất tiếc là chúng tôi đã nhận tiền cọc rồi. Kìa mấy con vịt màu đẹp quá.
- Vịt mà đẹp quái gì, thịt ăn hôi bùn. Này, có thể cho xem qua một chút được không?
- Cụ đừng gấp. Chừng nào ông Schwartzkopf cho dựng xong, đến coi có lẽ thích hợp hơn.
Lão Herbert lại cười gượng gạo. Phần tôi, tôi ghi nhận một điều: cái phần mộ mà mụ Niebuhr không chịu lấy có thể đem bán lại cho lão Herbert.
Buổi lễ kết thúc. Bà Viện trưởng trả tiền thù lao đánh phong cầm và bảo :
- Me có bảo đem cho con một chai rượu chát trong bữa điểm tâm. Ở đây chẳng có gì khác hơn, mẹ chỉ biết cầu nguyện cho con thôi.
- Cám ơn mẹ bề trên. Làm sao mẹ có được loại rượu quá ngon như vậy?
Khuôn mặt vàng màu ngà nhăn lại với nụ cười :
- Của người ta tặng. Ở thị xã có một thương gia về rượu. Vợ ông ấy đang chữa bệnh ở đây và được đối xử rất tử tế. Thỉnh thoảng ông ta cho người mang tới vài két.
Tôi sực nhớ là giáo sư Bodendick cũng dùng điểm tâm ở đây nên vội vàng đi mau về phòng ăn để khỏi mất hết phần rượu của mình.
Bác sĩ Wernicke cũng có mặt nhưng ông ta chỉ dùng cà phê. Nửa chai rượu của tôi đã cạn một nửa. Tôi bất mãn :
- Thưa giáo sư, đó là chai rượu của tôi do mẹ bề trên cho để bù vào món tiền đệm đàn quá ít ỏi.
- Tôi biết. Và tôi cũng biết rằng những người vô thường hay khoe mình về sư khoan dung. Do đó, tôi biết là cậu không bao giờ từ chối tôi vài giọt rượu. Vả lại, dùng điểm tâm với trọn một chai rượu sẽ làm hại dạ dày.
Tôi nhận thấy không nên đối đáp.
Ông ta đứng lên :
- Các vị ở lại dùng bữa.
Tôi quay sang bác sĩ Wernicke :
- Bác sĩ có nhận thấy rằng các nhà tu và những ông tướng đều giống nhau về cốt cách không? Họ không một chút nghi ngại, không bao giờ buồn phiền, sống thoải mái, tương lai vững chắc, không cần lo nghĩ. Nhờ đó mà họ trẻ lâu. Lại thêm điều đáng kể: người này lúc nào cũng hòa hợp với Thượng đế và người kia thì luôn luôn thuận thảo với vua.
Wernicke thở một hơi khói xì gà về phía tôi :
- Ông ta làm cậu tức giận phải không? Còn cậu thì làm ông ta thích thú.
- Đúng vậy. Bởi thế mà tôi càng tức giận thêm.
Tôi rót hết chai ra, gần được một ly rưỡi.
- Còn bác sĩ thì sao? Không nóng cũng không lạnh?
- Tôi à? Những chuyện đó chẳng liên quan gì tới tôi. Tôi chỉ là một thứ nhân viên lưu thông trong phạm vi tâm trí. Tối cố gắng là một viên cảnh sát ở giao điểm của các con đường, làm hết phận sự và không chịu trách nhiệm về tai nạn.
- Phần tôi thì lúc nào cũng thấy như có trách nhiệm đối với mọi việc xảy ra trên thế giới. Như vậy là có phải đã mắc bịnh tâm trí chưa?
Wernicke cười như chửi vào mặt tôi :
- Chưa đâu. Không dễ đàng đâu! Cậu chỉ là trường hợp của tuổi trưởng thành. Nhưng không phải vì thế mà không dễ mến.
Tôi vừa ra tới đường lớn thì đụng ngay một đoàn biểu tình. Như những con hải âu sắp tới giờ có bão, những người du ngoạn Chúa Nhật bỗng run sợ. Áo quần chải chuốt, họ đi lại với vợ con, với tất cả nhưng gì làm được tiện nghi cho một bữa ăn ngoài trời. Bây giờ, họ nép mình ngơ ngác ở lề đường.
Nhưng đoàn quân bộ hành không có vẻ gì gấp rút. Đó là những phế binh đang đòi hỏi được đủ ăn để sống. Đi đầu trên một chiẽc xe lăn tay là một thân mình và một cái đầu. Tay chân đều mất biến, khó mà biết được con người đó lúc trước cao hay thấp. Ngay cả đôi vai cũng không để cho người ta nhận định dễ đàng vì cả hai cánh tay đã bị cưa sát nách. Đầu tròn lẵn, mắt nâu và sáng, người phế binh này còn giữ được một bộ râu khá đẹp, và được hớt tỉa cẩn thận. Cái xe của anh ta được một anh chàng cụt tay khác lôi đi. Cái thân mình trên xe ngồi thẳng cứng. Phía sau chiếc xe là một đoàn người què xếp hàng ba tự dùng tay để lăn lấy xe mình.
Kế đến là những người còn lại một chân, khập khểnh chống nạng. Sau nữa là những người mù và chột. Tiêng gậy khua vang trên đường. Hầu hết những người biểu tình đêu mang biểu ngữ, ngay cả người mù.
“Chúng tôi đang đói”
“Hãy biết công ơn của những người đã hy sinh thân thể cho đất nước”.
Người ngồi trên xe đi đầu có một cây gậy cắm vào túi áo, bên trên là một tấm bảng “Tiền sống hàng tháng của tôi là một Đức kim vàng”. Giữa hai chiếc xe đi kế một biểu ngữ căng dài “Con cái chúng tôi không có sửa, không thịt, không bơ. Chúng tôi chiến đấu để được đối xử như này sao?”
Đó là những nạn nhân bi thảm nhứt của lạm phát tiền tệ. Tiền cấp dưỡng cho họ mất giá đến nỗi chỉ còn biết đi xin. Thỉnh thoảng Nhà nước có gia tăng nhưng đồng tiền không chạy kịp vật giá. Đồng Mỹ kim đã mang hia bảy dặm, nó không còn lên theo nhịp độ từng ngàn hay từng vạn Đức kim, mà nhảy vọt một ngày mỗi hàng trăm ngàn đồng Đức. Hôm kia, trị giá của Mỹ kim là một triệu hai trăm ngàn đồng Đức, hôm qua nó đã lên tới một bốn trăm ngàn. Ngày mai có thể là hai triệu và rất có thể là mười triệu vào cuối tháng. Hiện thời, thợ thuyền lãnh lương mỗi ngày hai lần, sáng và chiều, mỗi lần được cho nghỉ nửa giờ để đi mua thực phẩm vì giá cả hàng hóa gia tăng mỗi giờ.
Phía sau đoàn biểu tình là những chiếc xe hơi bị kẹt. Một sự tương phản kỳ lạ: khối đông xám xịt của những nạn nhân gần như vô danh lẳng lặng lê bước với những quả phụ đi sau cùng dẫn theo những đứa bé gầy nhom vì thiếu ăn và hình ảnh đoàn xe bóng loáng, bên trong là những cặp vợ chồng con cái ăn mặc se sua, mặt mày tươi mát.
Mặt trời đã lên cao và đoàn biểu tình ướt mồ hôi. Những giọt nước đùng đục lăn dài trên những gò má hom hem, trên những vầng trán nhăn sạm. Thình lình, có tiếng còi xe. Người lái chiếc xe này định lấn đường để vượt qua. Tất cả các phế binh quay nhìn lại. Rồi không nói một lời, họ tản ra đứng chắn đường. Ở tay lái xe là một thanh niên mặc y phục mùa Hè, bên cạnh hắn là một thiếu nữ. Hắn làm vài cử chỉ chán nản rồi lấy xì-gà ra hút. Mỗi người tàn lật đi qua đều nhìn hắn. Kỳ lạ là chẳng một ai lộ vẻ bực tức, họ không nhìn bộ mặt xấc láo của gã chủ xe mà chỉ nhìn thấy điếu xì-gà đang thả khói thơm mùi mật. Một điếu xì-gà thượng hảo hạng. Đố với những kẻ tàn phế ghiền thuốc lá thì khói thuốc mà họ vừa hít đi qua gần như là một ân huệ.
Tôi theo sau đoàn biểu tình tới nhà thờ Thăng Thiên. Trên bậc thềm, hai đảng viên Quốc Xã mặc đồng phục với một biểu ngữ to tướng “Chiến hữu, hãy đến với chúng tôi. Adolf Hiller sẽ giúp các bạn”.
Đoàn người đi vòng qua nhà thờ.
Chúng tôi đang ở tại ca vũ trường Moulin Rouge. Một chai sâm banh thô cổ ra từ một “xô” nước đá. Giá tiền: hai triệu Đức kim! Đó cũng là tiền lương hai tháng của một phế binh. Chính Riesenfield gọi chai sâm banh này.
Hắn ngồi một chỗ cho mọi người nhìn rõ. Hắn bảo tôi :
- Đừng chơi trò đánh lận con đen với tay tổ Riesenfield này nghe không? Mới thấy là biết ngay. Không phải ông không biết ngay từ lúc đầu nhưng ông cứ làm như không biết để coi mấy chú em đi tới đâu. Bé con ơi, những mệnh phụ phu nhân không bao giờ lại ở những căn nhà đối diện với những tên bán mộ bia, nhứt là trong một hẻm tồi tàn.
Tôi nhứt định không chịu thua :
- Vậy là ông lầm rồi. Ông nên biết là dân trưởng giả quý phái bây giờ đã xa lánh các khu vực giàu sang để tới ẩn cư những hẻm tồi tàn. Thưa ông Riesenfield hết rồi cái thời dinh thự! Người nào may mắn lắm còn giữ nổi dinh thự của ông cha thì cũng biến thành khách sạn ngay. Gia tài của họ đã chảy loãng vào lỗ lạm phát. Những bà nam tước đi ở nhà mướn, mấy ông đại tá đi làm nhân viên bảo hiểm, và các nữ bá tước...
- Thôi, đủ rồi. Đừng nói quá làm tôi khóc! Nhưng trường hợp bà Watzek thì không phải vậy. Thấy là biết ngay. Láu cá vừa thôi!
Hắn ngắm bờ lưng của Lisa đang nhảy cùng Georges. Tôi không dám nhắc là hôm đầu tiên, hắn đã bảo Lisa có dáng dấp phụ nữ Pháp vì nói như thế là vĩnh biệt kho tiếp liệu đá hoa cương, vĩnh biệt sinh tố T của hãng chúng tôi. <1>
Riesenfield dịu giọng :
- Dẫu sao cũng tốt. Kia coi nàng nhảy. Trông như một...
- Một con beo cái.
Riesenfield liếc sang tôi :
- Khá lắm. Coi bộ chú em cũng bắt đầu hiểu chút ít về đàn bà.
- Đó là nhờ... sự soi sáng của ông.
Hắn nâng ly với vẻ mát dạ. Tôi bạo dạn hơn :
- Có một điều thắc mắc mà tôi định hỏi ông. Theo tôi thì tại nơi ông ở, ông là một công dân hiền hòa, một ngưoi cha gương mẫu. Ông đã cho tôi xem ảnh ba người con và một ngôi nhà giữa một vườn hồng, tôi xin ca tụng ông. Nhưng ngay khi ra ngoài thì không hiểu tại sao ông lại trở thành một tay tứ chiếng ngay?
Hắn thản nhiên :
- Để khi trở về nhà mình lại càng thích thú hơn với cuộc sống trưởng giả trong vai trò một người cha gương mẫu.
- Rất hay. Nhưng tại sao lại phải rắc rối như vậy?
- Đó là do con quỷ trong người! Hình trạng thứ hai của mỗi cá nhân. Có nghe nói bao giờ về chuyện thiên thần và thú vật ở chung không?
- Tôi à? Tôi phải được kể là trường hợp điển hình.
Hắn cười như chửi vào mặt tôi :
- Chú bé à?
- Chứ sao, nhưng với tôi tất cả đều ở một trình độ cao hơn.
Georges và Lisa rời sàn nhảy trở lại bàn. Riesenfield làm một cử chỉ lịch sự với Lisa :
- Một bản tango, thưa bà... nếu bà vui lòng.
Lisa cao hơn hắn một cái đầu. Chúng tôi định lấy đó làm cớ để cười. Nhưng, tôi và Georges không khòi sửng sốt khi thấy hắn đi nhịp tango argentine quá đẹp lại còn sáng chế những bước lạ mắt. Phải nhìn nhận, tài nghệ của hắn không thua mấy giáo sư khiêu vũ.
Tôi quay nhìn Georges :
- Anh nghĩ sao? Tôi bắt đầu lo ngại thật sự rồi đó. Không chừng con bồ của anh mê hắn sau màn nhảy này. À, hồi sáng, làm thế nào Lisa thoát được về nhà?
- Cũng gian khổ lắm. Riesenfield quyết định chiếm gian phòng làm đài quan sát cửa sổ nhà Lisa. Tôi nghĩ là phải cho hắn biết nàng ta là vợ ai để cho hắn ngán rồi đi. Vậy mà hắn vẫn cứ lì ra coi chuyện đó như không. Cuối cùng tôi phải lôi hắn xuống bếp uống cà phê lúc hắn trở lên thì bà Watzek đã từ cửa sổ bên kia đường cười điệu. Truyện "Bia Mộ Đen Và Bầy Diều Hâu Gãy Cánh " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
- Mặc áo gì? Kimono có thêu chim cò?
- Không, thêu quạt xay gió.
Tôi nhìn Georges với ánh mắt nghi ngờ. Hắn thú nhận :
- Phải tốn hết một tấm bia thứ tốt. Cũng không sao. Biết đâu không phải vì cái áo mới đó mà Riesenfield ra hiệu mời nàng ta tới đây đêm nay.
Hai người trở về bàn. Riesenfield đổ mồ hôi hột. Lisa vẫn tươi cười như bông huệ trong tu viện.
Một lúc sau, cặp Riesenfield - Lisa lại trở ra sàn nhảy. Tôi vỗ vai Georges :
- Sao đây? Không khéo thì tay thầu đá hoa cương đó cuỗm mất bồ anh chớ chẳng chơi đâu.
- Vợ của người khác bao giờ cũng hấp dẫn gấp năm mười lần vợ nhà. Nhưng không sao đâu. Chỉ trong vài phút nữa là Lisa sẽ nhức đầu, nàng ta sẽ vào phòng gởi tìm aspirine và sẽ có một gã hầu bàn tới cho hay nàng phải về nhà nghỉ và chúc cả bọn mình một đêm vui từ đầu đến cuối.
- Vậy là xỏ hắn. Và ngày mai hắn từ chối cung cấp đá hoa cương.
- Trái lại, hắn sẽ cung cấp gấp đôi. Sao không thấy, Gerda?
- Còn ba hôm nữa mới làm việc. Chắc đang ở khách sạn Con Nai, nhưng cũng có thể đang ngồi ở quán của Edouard. Con bé bảo làm như thế để tiết kiệm, khỏi tốn tiền bữa ăn tối. Biết làm sao bây giờ? Ít lắm phải thêm ba mươi tuổi nữa, tôi mới có đủ bản lãnh để trị nó. Nhưng, hãy lo cho Lisa của anh đi. Coi chừng nàng ta không chịu nhức đầu.
Bản nhạc kết thúc. Lisa và Riesenfield về chỗ. Lisa vỗ nhẹ vào trán :
- Lạ quá, sao lại nhức đầu kỳ dị thế này! Xin lỗi, tôi đi tìm một viên aspirine đã. Ồ, lại nhức đầu giữa lúc này...
Riesenfield chưa kịp đứng lên thì Lisa đã quay đi. Georges liếc mau sang tôi với vẻ tự hào, và rút lấy một điếu xì-gà trong túi.
---------------------------------------------
<1> Sinh tố A trong bản Pháp văn có nghĩa Argent là Tiền, xin đổi là sinh tố T cho phù hợp với Việt ngữ.
29.07.2014
17
Người dịch: Vũ Kim Thư
Nguồn: NXB Văn Nghệ TPHCM
Nội dung thu gọn
Đêm nay Isabelle không chịu tới giáo đường. Ít lâu sau này nàng không muốn vào đó nữa. Tôi thấy nàng đợi tôi ở bên ngoài. Wernicke cho phép nàng đi dạo trong vườn ban đêm nếu có người cùng đi.
- Tại sao cứ tối nào, ánh sáng cũng mất đi? Khi mình ngủ thế giới biến mất. Vậy mình ở đâu? Và thế giới có lại hiện ra mãi mãi không. Rudolf?
Ngồi bên bờ vườn, chúng tôi nhìn qua các song sắt của cổng ra vào. Buổi chiều đang trùm lên những đồng lúa chín ở triền đồi hai bên lối đi.
- Phải trở lại chớ, Isabelle.
- Còn chúng ta?
Chúng ta? Ai biết đươc? Cứ mỗi giờ là có sự lấy đi, ban cho và biến đổi. Nhưng tôi không muốn nói ra. Tôi không muốn dây vào một cuộc đối thoại có thể bất ngờ mở đường vào vực thẳm.
Những người bệnh làm việc đồng áng lần lượt lên đồi. Họ trông như những nông dân già nua mệt nhọc đang gánh trên vai cả sức nặng của nắng chiều.
- Cả chúng ta nữa, Isabelle. Cái gì hiện hữu trong ta không bao giờ mất đi.
- Anh tin như thế sao?
- Không còn cách nào hơn, đành phải tin như vậy.
Nàng quay mặt sang tôi, nàng quá đẹp với ánh nắng chiều giữa bầu trời trong sáng chớm Thu.
- Và nếu mình không tin như thế, mình có bị mất không?
- Chắc là phải mất đi, nhưng cũng từ đó bắt đầu có sự sống.
- Cuộc sống nào?
- Cuộc sống của chúng ta.... với lòng can đảm. Sự thương xót và tình yêu. Ngay từ khi chúng ta biết là không còn gì nữa cả.
Thời gian như dừng lại trên mặt Isabelle.
- Tôi và anh cũng có lúc sẽ không còn nữa?
- Không.
- Ngay cả nếu chúng mình yêu nhau.
- Đúng vậy. Và có lẽ chính vì thế mà người ta yêu nhau. Yêu có nghĩa là muốn ban cho một cái gì mà người ta không thể giữ lại.
Những người làm việc ngoài đồng về tới, người gác mở cổng. Thình lình, từ phía một bức tường có bóng người rón rén bước ra rồi chạy vụt đi. Một người gác bệnh chạy theo sau nhưng không có vẻ vội vàng. Người gác cổng vẫn tự nhiên, tiếp tục nhìn từng người bệnh đi vào rồi khép cửa lại. Phía dưới, kẻ đào tẩu van cắm đầu chạy, càng lúc càng bỏ xa người đuổi theo.
Tôi hỏi người gác cổng :
- Đồng nghiệp của ông có đuổi kịp nổi không?
- Chút nữa rồi họ sẽ trở về bên nhau.
- Ủa!
Người gác cổng nhún vai :
- Người bệnh là Guido Timpe. Cứ mỗi tháng anh ta lại thoát chạy một lần nhưng không bao giờ thoát qua quán ăn của Sở Lâm nghiệp. Cứ tới đó là gặp anh ta. Chẳng làm việc gì cả ngoài việc uống vài chai bia. Toàn bia nâu.
Hắn nheo một mắt :
- Biết vậy nên người bạn tôi không cần cố gắng. Cứ để cho anh ta có thì giờ uống vài chai. Sau đó, anh chàng ngoan ngoãn theo về.
Isabelle không nghe. Nàng hỏi tôi :
- Ông ấy muốn đi đâu?
- Đi uống bia.
- Còn anh, anh có định chạy trốn không?
Tôi lắc đầu :
- Tốt lắm. Chạy trốn có ích gì. Tất cả những cánh cửa đều giống nhau. Phía sau chúng nó... chẳng có gì cả. Chúng chỉ là những cánh cửa và phía sau chẳng có gì.
Người gác đóng cổng lại và châm lửa vào ống cối thuốc. Mùi thuốc lá nồng nặc làm dựng lên trong óc tôi một cảnh tượng: cuộc sống giản dị, nghề kiếm ăn nho nhỏ, vợ hiền con ngoan, tất cả đều bình lặng và cái chết tới sau khi đã chấp nhận những ngày làm việc chuyên cần, những chiều thứ bảy thảnh thơi, những đêm ngủ yên lành không thắc mắc hay tự vấn. Tôi chợt cảm thấy chua xót bâng quơ trộn lẫn với một sự thèm muốn.
Isabelle đã tới đứng sát cổng, tay vịn vào song sắt, nhìn trân trối ra ngoài. Nàng đứng như thế khá lâu. Ánh nắng cuối ngày đã trổ màu tím thẫm, những khu rừng bắt đầu mất vẻ xanh tươi và trở thành đen xạm, nền trời đầy những thuyền mây căng buồm tía.
Isabelle đi trở lại. Mắt nàng như cũng tím thẫm với màu trời. Nàng nắm tay tôi :
- Đi, anh.
Chúng tôi từ từ đi vào vườn cây, về phía một máy nước. Nàng kéo bàn tay tôi đặt vào ngực và thì thầm bảo: Anh có nghe tim tôi đập thế nào không?
- Có. Isabelle.
Tôi rút tay lại nhưng Isabelle đã áp người sát vào tôi
- Đừng bỏ em.
- Không. Tôi không bỏ đâu, Isabelle.
Nàng lẩm bẩm :
- Đừng bỏ em. Ngắn ngủi lắm.
Nàăng hứng nước bằng cả hai tay rồi vẫy lên không :
- Ban ngày, những giấc mơ ở đâu, Rudolf?
- Có lẽ chúng ngủ.
Nàng lại đưa cả hai cánh tay vào vòi nước. Bong bóng nước đọng đầy trông như hai cánh tay làm bằng bạc.
- Làm thế nào những giấc mơ có thể ngủ được? Mình chỉ gặp ban đêm, vậy ban ngày chúng đi đâu?
- Có lẽ chúng tự treo mình trong động đá như loài dơi hoặc ẩn lánh trong hốc cây như loài dạ điểu để chờ đêm tối.
- Nhưng nếu đêm không tới thì sao?
- Đêm luôn luôn phải tới, Isabelle.
- Chắc không?
- Em hỏi như trẻ con.
- Trẻ con hỏi thế nào?
- Cũng những câu hỏi như em. Và cho tới một lúc nào đó người lớn không biết trả lời ra sao và chúng giận.
- Tại sao chúng giận?
- Bởi vì chúng phát giác có một cái gì sai lầm trong chúng nó.
- Có điều gì sai lầm trong anh không?
- Nhiều lắm, Isabelle.
- Thế à?
- Anh cũng không biết rõ. Bởi vì khi đã biết rõ rồi thì lại thấy là không phải sai lầm.
Isabelle gật đầu :
- Dĩ nhiên rồi. Chúng ta có quá nhiều ngôn ngữ. Ai phát minh ra những ngôn ngữ đó?
- Có lẽ là những đầu óc xáo trộn.
Nàng lắc đầu và chỉ tay về phía tiểu giáo đường :
- Mấy người đó, họ giữ chặt ông ta. không chịu để cho đi.
- Ai?
- Những ông thầy tu.
- Không phải đâu. Không phải những nhà tu hiện thời đâu. Chuyện đã xảy ra gần hai ngàn năm.
Nàng lại tựa sát người tôi
- Chính họ mà, Rudolf. Ông ấy muốn đi ra, nhưng họ đóng đinh giữ lại. Họ giữ ông ấy trên cao và đốt hương cầu nguyện cho ông ấy đừng bỏ đi. Anh có biết tại sao không?
- Không.
Isabelle thở dài :
- Bởi vì ông ta giàu lắm, rất giàu. Họ cố giữ ông ấy lại, để đoạt gia tài. Nếu ông ấy thoát ra được, gia tài sẽ bị lấy lại. Rồi họ sẽ nghèo đi.
Mặt Isabelle căng thẳng nhưng chẳng có một dấu hiệu nào đặc biệt.
- Em muốn nói gì?
Nàng cười :
- Tất cả, Rudolf. Anh đã biết những gì em muốn nói. Họ nhốt em vào đây chỉ vì sợ em gây phiền phức. Họ muốn chiếm đoạt gia tài của em. Nếu em ra khỏi nơi này, họ bắt buộc phải trả lại. Nhưng em có cần gì đâu.
- Thì giải thích cho họ biết là em không cần, như vậy họ đâu có lý do gì khác để giữ em ở đây.
Ở đây hoặc ở một nơi nào khác cũng thế thôi. Vậy, tại sao lại không ở đây? Ít ra em cũng được bình yên. Do đó mà em phải giả vờ.
Tôi không khỏi ngạc nhiên :
- Em giả vờ à?
- Dĩ nhiên. Bộ anh không biết sao? Mình phải làm ra như thế, nếu không họ sẽ đóng đinh mình trên thập giá. Rất may là họ ngu quá.
- Em qua mặt được cả Wernicke nữa à?
- Ai?
- Bác sĩ Wernicke.
- A! Ông ấy chỉ muốn cưới em. Ngoài chuyện đó ra ông ta cũng giống như bao nhiêu người khác. Anh đừng đi, Rudolf. Họ phải thả ông ấy ra. Em nói cái ông trên thập tự giá. Ông ta cũng cần được cười, được ngủ như mọi người chớ. Truyện "Bia Mộ Đen Và Bầy Diều Hâu Gãy Cánh " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Đột nhiên, dường như lửa đang cháy sáng trong mắt Isabelle. Nàng hất mái tóc ra sau, trong bóng tối, tóc như chẳng có màu. Truyện "Bia Mộ Đen Và Bầy Diều Hâu Gãy Cánh " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
- Em trông giống như một nữ phù thủy, Isabelle. Trẻ, đẹp và nguy hiểm.
Nàng cười thành tiếng :
- Phù thủy. Tới bây giờ anh mới hiểu. Mất một thời gian khá lâu.
Và hoàn toàn bột ngờ, nàng mở tung váy ra, buông nó rơi xuống đất rồi nhảy tới một bước. Toàn thân nàng chỉ còn có đôi giày và một cái áo ngắn. Nàng đứng trước tôi, mãnh dẻ và trắng toát trông như một gã con trai hơn là một thiếu nữ. Nàng thì thầm bảo :
- Đến với em.
Tôi nhìn quanh, hơi cuống. Lỡ Bodendick tới thì nguy! Hoặc Wernicke hay một nữ tu nào đó đi qua! Nàng đứng sững trước mặt tôi như một con yêu tinh nào đó đang mượn xác người và sẵn sàng bay biến.
- Mặc vào đi, Isabelle.
Nàng cười ngặc nghẻo :
- Thật sao, Rudolf?
Nàng từ từ bước tới, chụp lấy cà vạt của tôi. Dưới ánh trăng môi nàng tái lợt, răng trắng màu vôi, và ngay cả giọng nói cũng biến đổi :
- Mở cái này ra!
Tay nàng lần trên cổ ảo tôi, hai bàn tay không mềm mại mà cứng lạnh. Tôi không thể tưởng tượng nổi. Bây giờ, người con gái đang áp sát người tôi là một ngọn gió lạc lõng từ cánh đồng hoang nào đó thình lình bị bão tới lùa đi. Tôi cố giữ chặt hai bàn tay nàng lại và nhìn quanh. Nàng vùng vẫy thật dữ và không cười nữa. Mặt nàng kề sát tới, tôi nhìn thấy một đôi mắt trong suốt đứng tròng và nghe giọng nói thều thào xa lạ :
- Anh sợ hả?
Tôi chợt tỉnh và xô mạnh ra khiến nàng ngã người xuống.
Isabelle không đứng dậy. Nàng ngồi co quắp một chỗ, mặt ngước lên, và... một tràng chửi rủa tới tấp bay ra. Nàng chửi không tiếc lời, không đắn đo. Nàng dùng cả những tiếng tục tằn nhứt, ghê tởm nhứt... những bỉ ổi nhứt, tiếng mà chính tôi còn không dám dùng đến mà bây giờ lại vọt ra từ vành môi xinh đẹp ấy. Truyện "Bia Mộ Đen Và Bầy Diều Hâu Gãy Cánh " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
- Tỉnh lại đi em.
Năng cười to và nhái tôi :
- Tỉnh lại! Tỉnh lại! Cút đi, đồ tồi, tên bị thiến...
Tôi bực mình :
- Câm miệng, nếu không...
- Làm thử coi!
Nàng ngã người ra sau, hai tay chống xuống đất, môi bĩu ra, khinh bỉ và thách đố.
Chằng còn gì chán chường hơn! Nhưng vừa nghĩ thế tôi đã thấy thương hại nàng hơn. Đây là hình ảnh không thể bảo là dâm đãng mà là một thái cực của tuyệt vọng, của man dại và ngây thơ. Tôi thương quá, nhưng chỉ đứng lặng câm. Isabelle lại quát tháo :
- Đi ngay! Đừng bao giờ trở lại nữa, chó má, đồ ngu đần, con heo thiến. Đi cho khuất mắt tao, quân mất dạy...
Rồi, bỗng nàng nhảy dựng lên và bước đi thật mau, thật nhẹ nhàng và linh hoạt, vừa đi vừa vung vẫy chiếc váy xanh.
Tôi muốn chạy theo để gọi nàng mặc váy vào, nhưng rồi tự thấy mình đứng bất động. Tôi không biết Isabelle sẽ làm gì ở đằng kia và lo ngại. Nhưng tôi chợt nhớ ra đây không phải là lần đầu tiên một người bệnh tâm trí thoát y. Và phần lớn đều là phụ nữ.
Tôi chậm chạp đi trở lại, cảm thấy mình phạm tôi nhưng không hiểu rõ vì sao.
Thật khuya, tôi vẫn còn ngồi bên cửa sổ và nghe tiếng bước của lão Knopf trở về nhà. Qua tiếng chân, tỏi biết lão đã say mèm.
Chẳng còn lòng dạ nào đùa nghịch nhưng tôi vẫn cố tự dối mình với một trò vui. Knopf dừng lại ở cổng, dò xét địa thế. Tất cả đều im lặng. Lão dè dặt đi lới cái tháp đen, dừng lại và chờ đợi.
Tất cả vẫn lặng trang. Tôi có cảm tưởng như lão đang cười. Kê miệng vào đầu ống đằng này, tôi quát lớn :
- Knopf, lại định làm trò khỉ phải không?
Lão thượng sĩ hồi hưu đảo lộn tròng mắt. Tôi dùng giọng nhà binh :
- Chú không còn xứng dáng giữ cấp bậc thượng sĩ hồi hưu! Ngay từ phút này, chú bị lột lon, làm binh nhì.
Lão ta rên rỉ :
- Không... đừng...
Vừa rên với giọng khàn khàn, lão vừa quay đầu khắp phía để xem tiếng nói của thương cấp phát ra từ đâu. Lão không tài nào phát giác được. Tôi ra điều cương quyết hơn :
- Từ nay trở đi chú không được mặc bộ quân phục số 1 vì chú chỉ là mội binh nhì. Nghe rõ chưa?
Thà bị cắt đứt một ngón tay còn hơn là bị giáng cấp với một kẻ gần như suốt đời trong binh nghiệp. Quá sợ, lão Knopf ú ớ :
- Không! Không! Chết tôi!
Thình lình, tôi nhớ tới những tiếng chửi rủa ghê tởm nhứt của Isabelle. Dạ dầy như thắt lại, tôi tuôn ra một tràng.
Knopf vểnh tai lắng nghe. Chờ tôi ngưng lại, lão thở phào ra :
- Xin cứ chửi nhưng đừng lột lon!
Trông lão ta đứng bất động và sững sờ đến tột cùng, tôi không khỏi nhớ lại hoàn cảnh của mình lúc tối khi đứng trước Isabelle đang nổi cơn điên.
Tự nhiên, tôi thương hại lão :
- Thôi được, chú cũng chưa làm gì quá lắm ngoại trừ cái tội đái lên một vật linh thiêng. Thay vì xuống binh nhì, chú còn được mang lon hạ sĩ. Nếu biết cải hối, sẽ được thăng cấp từ từ. Cuối tháng mười, trung sĩ, cuối tháng mười một, trung sĩ nhứt. Và tới lễ Giáng sinh sẽ lại là thượng sĩ hồi hưu. Nghe rõ chưa?
- Xin tuân lệnh! Thưa, hơ...
- Xong rồi, hạ sĩ Knopf! Về chỗ!
Lão ta quay phắt sang trái rồi chạy vụt về nhà. Có tiếng cười khe khẽ từ gian buồng bên cạnh văn phòng. Lisa và Georges đã chứng kiến trọn màn. Có tiếng ghế ngã và những tiếng hôn chùn chụt và cửa phòng Georges từ từ khép lại.
Tôi chợt nhớ tới chai rượu của Riesenfield gởi cho với dòng chữ “Dành cho những khi phiền toái”. Tìm thấy chai rượu có dán nhãn Genièvre de Frise, de P.Bokma, Leeuwarden, tôi mở nút chai rót đầy ly lớn. Rượu khá mạnh, đúng là thứ cổ hong đắng chát của tôi đang cần tới.
Người đàn bà đáp cộc lốc :
- Phải. Một thứ bệnh. Sanh ra ngay khi vừa hết đánh giặc, chẳng có gì để ăn. Cả hai đứa một lượt... không có đủ sữa cho một đứa.
Wilke tò mò :
- Trường hợp này xảy ra cũng khá nhiều đối với những đứa sanh đôi. Ảnh hưởng chiêm tinh.
Thấy rõ là bà mẹ mất con không thèm chú ý tới vấn đề chiêm tinh, tôi nhắc Wilke :
- Còn cái quan tài, làm sao đây?
- Thì để tôi cố gắng xem sao. Nhưng không biết họ có cho phép?
Tôi nói ngay :
- Mình có thể hỏi ở phòng hộ tịch.
- Nhưng còn vấn đề tôn giáo? Mấy đứa bé đạo gì?
Người đàn bà ngập ngừng :
- Một đứa Thiên Chúa giáo, một đứa... Tin Lành. Chồng tôi theo Thiên Chúa giáo, tôi thì theo đạo Tin Lành. Chúng tôi dùng biện pháp dung hòa.
Wilke không bỏ được thói tò mò :
- Và làm lễ rửa tội cùng một ngày?
- Phải.
- Vậy là hai nhà thờ khác nhau.
Tôi nói vào :
- Dĩ nhiên là phải hai nhà thờ khác nhau. Nhưng bây giờ...
Wilke đưa tay ngăn tôi nói và hỏi người đàn bà :
- Bà làm thế nào để phân biệl? Chúng có giống nhau như đúc không?
- Giống nhau như quả trứng.
Tôi lại phải can thiệp :
- Cũng vậy thôi. Lo chuyện cái quan tài trước đã.
- Không được. Hai đứa hai đạo khác nhau. Bà có nhận ra đứa nào theo Thiên Chúa giáo không?
Người đàn bà không trả lời. Wilke như đang say mê :
- Bà có biết là rắc rối lắm không. Muốn chôn chung trong một cái hòm đôi, bà phải mời một linh mục và một mục sư tới làm lễ cho chúng. Chưa chắc hai người chịu tới một lượt, họ không thuận với nhau...
Tôi đá nhẹ vào chân hắn dưới bàn :
- Wike, đó không phải là chuyện của mình.
Hắn phớt tỉnh :
- Còn hai đứa bé sanh đôi? Có thể đứa theo Tin Lành lại được mai táng theo nghi lễ Thiên Chúa giáo và đứa kia thì ngược lại. Lộn xộn hết. Không, cái hòm đôi là không ổn, phải có hai cái hòm be bé. Bà có hỏi mấy vị giáo sĩ chưa?
- Chồng tôi lo việc đó.
- Vậy thì thật là khó.
- Ông có đồng ý đóng hòm đôi không?
- Làm thì làm nhưng tôi xin báo trước...
- Bao nhiêu tiền?
Wilke lại gãi đầu :
- Chừng nào bà lấy?
- Càng sớm càng tốt.
- Vậy là tôi phải làm việc ban đêm. Thêm giờ phụ trội...
- Bao nhiêu?
- Tới lúc gần xong tôi sẽ cho bà biết, giá cả phải chăng. Nhưng tôi sẽ không nhận lại nếu họ cấm chôn như vậy.
- Họ sẽ không cấm.
Wilke ngạc nhiên nhìn người thiếu phụ :
- Sao bà biết?
- Nếu các vị giáo sĩ không tới, chúng tôi vẫn cứ chôn. Chúng nó sống chung nhau thì chết cũng phải ở bên nhau.
Người đàn bà lấy từ trong xách ra một cái bóp đựng tiền có dây kéo bằng nicken và hỏi :
- Ông có lấy tiền cọc không?
- Phải lấy để mua cây.
Và anh ta hơi ngượng khi ra giá tiền đặt trước :
- Một triệu.
Người đàn bà đưa Wilke một xấp giấy bạc xếp làm tư :
- Và đây là địa chỉ của tôi.
Wilke bảo :
- Không cần. Tôi sẽ cùng đi với bà. Để lấy kích thước. Tôi sẽ cố gắng đóng thật đẹp.
Người đàn bà nhìn tôi :
- Còn tấm bia? Chừng nào ông giao?
- Bất cứ lúc nào bà muốn. Có người muốn đợi vài tháng sau khi chôn cất.
- Có thể lấy ngay dược không?
- Được, nhưng phải chờ cho đất dẻ lại, nếu không, bia sẽ bị sụp.
- Vậy à?
Người đàn bà chớp mắt ra vẻ suy nghĩ. Một lúc sau, bà ta nói tiếp :
- Chúng tôi lại cần có ngay. Chẳng biết có cách nào... tôi muốn nói là làm cách gì đó để cho bia đừng lung lay không?
- Vậy là phải làm nền trước khi mai táng. Có phải bà muốn thế không?
Người đàn bà gật đầu :
- Và trên tấm bia có khắc tên hai đứa nó, ông có thể cho khắc ngay bây giờ không? Tôi xin trả tiền ngay. Bao nhiêu?
Bà ta lại mở bốp tiền ra lần nữa. Cũng như Wilke, tôi không khỏi ngượng khi nói giá, và lại phải nói thêm như để xin lỗi :
- Thời buổi này, tiền bạc tính toán bằng triệu.
Kể cũng là điều lạ khi bất chợt nhận thấy rằng, bản chất của con người có thể nhận ra dễ dàng qua cách xếp tiền. Người đàn bà lần lượt mở từng tờ giấy bạc, đặt tờ này lên tờ kia gần những viên đá mẫu.
- Chúng tôi để dành khoảng tiền này để nuôi chúng ăn học. Hiện thời thì chắc là không đủ được... dầu sao cũng vừa đủ cho một đám tang.
Riesenfield kêu lên :
- Không bao giờ. Người bạn nhỏ có biết đây là loại đá hoa cương nhập cảng trực tiếp từ Thụy Điển sang không? Thụy Điển không phải ở đằng gốc đường. Đây không phải là loại hàng có thể trả bằng Đức kim. Phải trả bằng ngoại tệ, bằng đồng cua-ron Thụy Điển. Chúng tôi chỉ còn một ít dành cho ban bè. Không còn nũa. Quý như kim cương. Tôi sẽ giao cho các bạn một khối để đánh đổi một tối đi chơi với bà Watzek... nhưng đòi hai là không được.
Tôi nhún vai. Riesenfield nói tiếp :
- Hãy chụp lấy cơ hội. Đừng chơi trò bảo hoàng hơn vua, lo cho chú hơn chính phủ phải lo.
- Có gì đâu. Tôi làm thế là do sự thúc đẩy tình yêu mộ bia. Yêu cao thượng, vả lại, khối đá sỏi của ông chưa chắc sẽ tự tay tôi bán đi.
Riesenfield vừa tự rót rượu vừa hỏi vặn :
- Không bán à?
- Không, tôi có ý định đổi nghề.
- Thật không?
Hắn lùi ghế ra một chút để có thể nhìn thấy cửa sổ nhà Lisa. Tôi thản nhiên :
- Rất thật.
- Trở lại nghề dạy học?
- Không bao giờ? Tôi không còn nuôi cái ngây thơ cần thiết nữa. Cũng không còn bao nhiêu ảo mộng. Một người biết quá nhiều như ông có thể giúp tôi một ý kiến nào không?
Riesenfield lơ đãng :
- Hả?
- Một việc gì đó, tại thành phố lớn. Làm tùy phái cho nhà báo hoặc bất cứ chuyện gì không quan trọng.
- Theo tôi thì ở đây là ổn nhứt. Tại sao lại muốn đi?
- Khó mà giải thích được chính xác. Nếu giải thích được chắc tôi đã không muốn đi. Có điều là thỉnh thoảng dường như tôi bắt gặp được một thứ linh cảm.
- Và bạn đang có linh cảm phải rời khỏi nơi đây?
- Đúng vậy.
- Rất tiếc là rồi sẽ có ngày bạn lại muốn trở về đây.
- Chính vì vậy mà bây giờ tôi muốn đi.
Riesenfield nhảy nhổm lên như bị điện giựt. Phòng Lisa vừa được bật đèn lên và ả đang đi ra chỗ cửa sổ. Dường như ả không nhìn thấy chúng tôi đang ngồi trong căn phòng tối om nên ung dung cởi chiẽc áo blouse ra. Dưới chiếc áo blouse chẳng còn gì cả.
Riesenfield thở khì khịt như ngựa động cỡn :
- Ôi, kinh khiếp quá, đồ sộ như trái núi!
Rồi bất thần hắn hỏi :
- Bà ta có thường thay đồ vậy không?
- Bà ta không ngại. Không một ai nhìn thấy được, dĩ nhiên là trừ chúng tôi ra.
- Quái đản chưa! Vậy mà còn định bỏ cái trạm quan sát này?
Tôi đáp “phải” nhưng Riesenfield chẳng thèm nghe. Hắn đã rón rén đi tới cửa sổ, một tay cầm ly, một tay xách theo chai rượu.
Lisa đang chải tóc. Riesenfield nói một mình :
- Thượng đế ơi! Ước gì con là một nhà điêu khắc. Thật là đáng tiếc... đáng tiếc cho đời.
- Chắc ông thích tạc tượng bằng đá hoa cương?
- Sao lại bắt qua chuyện đá hoa cương?
- Với đá hoa cương thì người mẫu sẽ già sớm trước khi tác phẩm hoàn thành. Phải nhớ là loại đá này quá cứng. Theo tôi thì ông nên nắn tượng bằng đất sét. Nếu không thì mọi tác phẩm đều dở dang.
Đèn trong phòng Lisa vụt tắt. Nhà thầu đá còn đứng dán mũi vào kính cửa sổ thêm một lúc lâu. Tôi hỏi cho có chuyện :
- Ông có cần tôi giúp gì không?
- Một bức thơ. Bạn có chịu chuyển giúp giùm tôi một bức thơ không?
- Cho ai?
- Hỏi gì ngốc vậy! Cho bà Watzek chớ còn ai!
Tôi không trả lời. Riesenfield nói tiếp :
- Đổi lại, tôi sẽ tìm cho bạn một chỗ làm.
Tôi vẫn im lặng và theo dõi nhà điêu khắc tưởng tượng và bắt đầu tháo mồ hôi. Tôi tự nguyện phải trung thành với Georges dầu sẽ cù bơ cù bất trong tương lai.
Riesenfield nhún vai :
- Tôi cũng có cách đưa thơ được mà.
- Chuyện đó thì chẳng có gì phải nghi ngờ. Nhưng tại sao ông lại nhứt quyết là phải viết thơ? Vả lại đêm nay là ông phải đi rồi, hay là chờ lần tới.
Riesenfield uống cạn ly rượu mạnh :
- Bạn hãy còn trẻ nên không biết. Những vụ như thế này cần phải được thanh toán càng sớm càng hay.
Ngay lúc đó. Lisa xuất hiện trước cửa nhà. Ả mặc toàn đen, những đường cong thiên nhiên lồ lộ. Riesenfield cùng thấy một lượt với tôi. Hắn chụp lấy cái trên bàn và nhảy ra ngoài :
- Đúng lúc rồi!
Tôi nhìn theo hắn đang bước sải trong ngõ hẹp. Nón cầm tay hắn sửa điệu bộ cho lịch sự rồi tới gần Lisa. Ả quay lại nhìn. Rồi hai người khuất vào góc đường. Tôi tự hỏi và không biết chuyện gì đã xảy ra. Georges Kroll chắc chắn sẽ cho tôi biết. Con cáo già đó không biết chừng sẽ moi được của Riesenfield một khối đá hoa cương nữa.
Wilke đi qua sân, nói với tôi :
- Tối nay làm một chầu được không?
- Có Kurt Bach không?
- Có chớ. Tôi đi mua thuốc điếu cho hắn đây.
Bọn tôi quay quần trong xưởng mộc của Wilke giữa những đóng dăm bào, những chiếc quan tài và những hũ keo. Căn phòng sực nức mùi nhựa thông và gỗ bách. Wilke đã thêm nhưn thêm nhị cho cái nắp quan tài đôi của hai đứa bé sanh đôi. Hắn còn quyết định sẽ cho thêm lên đó một tràng hoa không tính tiền. Khi đã cảm thấy hứng thú, chẳng bao giờ hắn nghĩ tới món lợi.
Kurt Bach ngồi trên một cái hòm sơn đen, tôi thì ngồi trên một cái bằng gỗ sồi. Chúng tôi đã chuẩn bị một bữa khá thịnh soạn với nhiều bia, dồi chả, bánh mì và phô-mai trong ý định chờ ma quỷ tới. Thường thưởng cứ quá nửa đêm là Wilke lâm vào trạng thái ngất ngư. Hắn không tín ngưỡng nhưng lại rất sợ yêu ma. Để có thể yên tâm được phần nào, hắn chỉ có một con hoàng anh nuôi trong lồng kéc để bầu bạn trong những đêm phải làm khuya. Những hôm chẳng có việc gấp, hắn lại nhờ tới rượu để hôn mê. Chúng tôi thường bắt gặp buổi sáng, hắn còn ngủ như chết trong một cái hòm tổ bố, đã là vật riêng của hắn từ bốn năm qua.
Đó là cái hòm mà hắn đã đóng để chôn anh chàng khổng lồ của gánh xiệc lưu động Bleichfeld. Anh này đã ngã chết sau khi ngốn một hơi hàng tá phô-mai, trứng luộc, dồi heo, bánh mì và cả chục ly rượu mạnh. Nhưng giữa lúc anh bạn thợ mộc của chúng tôi thức suốt đêm để cưa bào đục đẽo thì gã khổng lồ bỗng sống dậy, uống thêm nửa chai rượu mạnh rồi nằm xuống ngủ ngon lành. Sáng hôm sau, tươi như hoa hồng, hắn tuyên bố chằng biết chuyện gì về cái hòm. Và gánh việc tiếp lục cuộc lưu diễn. Cái quan tài quá lớn không thể gạ bán cho ai được. Wilke đành giữ lại để làm giường ngủ.
Chính vì câu chuyện này mà hắn trở nên đa nghi. Mỗi lần có người đến đặt đóng hắn viện cớ là cần phải đo ni tấc để đến tận nơi xem người chết đã chết thật hay chưa. Một cái hòm khổng lồ may ra còn có lúc bán được chớ một cái quan tài đôi cho hai đứa bé song sanh thì làm sao đây? Hắn không hề nuôi ý định biến xưởng mộc của hắn thành một gian hàng triển lãm quan tài.
Con hoàng anh bắt đầu hót: ánh đèn khiến nó không ngủ được. Tôi hỏi Wilke :
-Thấy trong người thế nào? Người bên kia thế giới về chưa?
- Chưa, chưa đâu. Mới mười một giờ rưỡi.
Kurt Bach chen vào :
- Xin người thợ mộc hãy bắt chước nhà điêu khắc Kurt Bach này, chẳng tin bất cứ gì nên không bao giờ lố bịch.
- Nhưng cũng chẳng hãnh diện được bao nhiêu.
- Có thể. Nhưng cũng vẫn khá hơn là mỗi đêm ra cửa sổ ngồi nhìn sao rồi chìm vào hằng triệu năm ánh sáng, và cũng không phải lo sợ một hạng siêu nhân nào đó đến quấy rối mình.
Nhà điêu khắc kết thúc câu nói bằng một khoanh giò cho vào mồm. Wilke bắt đầu thấy khó chịu: gần tới nửa đêm. Hắn nói lắp bắp :
- Lạnh! Mới đây đã mùa Thu.
Hắn vừa toan khép cửa lại, tôi ngăn ngang :
- Cứ để vậy. Đóng cửa cũng vô ích. Ma quỷ còn xuyên qua gạch đá được thì một cái cửa ăn thua gì. Có nhìn thấy cái cây ngoài kia không? Có nghe gió hát trên cành của nó không? Vậy mà một ngày kia nó sẽ bị hạ xuống, xẻ ra để bạn đóng hòm. Còn rượu mạnh không?
Kurt Bach đưa chai sang tôi. Thình lình, Wilke rùng mình :
- Các bạn có nghe thấy gì không?
Một con nhện rớt trúng bóng đèn. Tôi bảo Wilke :
- Đừng sợ. Đó chưa phải là dấu hiệu báo trước của bên kia thế giới đâu. Con vật này lầm tưởng bóng đèn là mặt trời.
Bọn tôi và Kurt phải cố làm cho Wilke quên sợ hãi cho tới quá một giờ đêm. Theo Wilke thì sau giờ đó, ma quỷ sẽ đi ngủ. Wilke chợt hỏi :
- Tôi không biết làm sao người ta có thể sống được nếu không theo một tôn giáo nào đó. Thí dụ như vào giũa khuya mình bỗng thức giấc giữa một trận bão.
- Mùa Hè, phải không?
- Dĩ nhiên, là mùa Hè. Mùa Đông làm gì có bão.
Kurt Bach luôn có sẵn câu trả lời :
- Thì cứ uống một thứ gì tươi mát rồi ngủ lại.
Wilke lắc đầu. Giờ thiên của ma quỷ là hắn muốn phát run lên. Gió lay mạnh cánh cửa. Chuông giáo đường ngân vang trong tịch mịch. Nửa đêm, Wilke uống thật mau một ly đầy rượu mạnh.
Gã vô thần Kurt Bach bỗng nói đùa quá trớn :
- Bây giờ mà được đi dạo vào nghĩa địa thì tuyệt.
Bộ râu mép lòng thòng của Wilke lay động theo cơn gió từ ngoài đi qua cửa sổ. Hắn lườm Kurt :
- Bạn tốt là vậy đó sao?
Và hắn lại rùng mình :
- Có tiếng động ở đâu đây. Các bạn có nghe không?
Tôi cố trấn an :
- Chẳng có gì đâu. Ngoài vườn giờ này còn có một tình nhân. Ma quỷ rất sợ mùi đồ ăn. Bạn còn chút mắm cá Na uy nào không?
Wilke nhìn tôi với đôi mắt của một con chó bị đá vào hông giữa lúc nó đứng bên cột đèn đưa một chân sau lên.
- Tình nhân! Sao lại nói chuyện đó trước mặt tôi. Mọi người đều biết là tôi không có số đào hoa mà.
- Bạn là nạn nhân của nghề nghiệp. Thôi, nên ăn uống cho vững bụng.
Cả ba bắt đầu bận rộn với những khoanh dồi và những chai bia. Con hoàng anh được chia phần một lá cải lại hót lên rộn rã. Kurt Bach lại đưa bộ mặt khó thương ra :
- Vào nửa đêm mình ngửi thấy mùi tinh tú.
Wilke dựng chai bia lên lớp mạt cưa :
- Cái gì? Bạn muốn nói cái gì?
- Trời nồng nặc mùi tinh tú.
- Đừng có ba hoa nữa. Làm như bạn đang sống bằng một nghề khả kính...
- Bộ muốn lôi tôi vào đạo à?
- Không, không... tôi chỉ nói vậy thôi... này, có tiếng sột soạt...
Kurt lại mồm mép :
- Đúng rồi, đó là tiếng bước của tình yêu.
Bên ngoài, thêm một cặp lình nhân nữa vừa nhẹ bước vào khu vườn đầy bia mộ và tháp tưởng niệm của chúng tôi. Wilke hơi yên tâm :
- Tại sao con người lại có bộ mặt khác sau khi chết?
Lại vẫn anh chàng Kurt :
- Bởi vì lúc đó mặt nạ đã rớt xuống rồi.
Wilke ngừng nhai :
- Mặt nạ gì?
- Mặt nạ của cuộc đời.
Trăng nhô ra khỏi những đám mây. Trong vườn, các khối cẩm thạch chiếu trắng ngời, những cây thánh giá nổi bật lên với màu đen. Chúng tôi nhìn thấy có bốn cặp uyên ương, hai trong vùng cẩm thạch, hai lẫn lộn trong khu vực đá hoa cương. Trăng sáng vằng vặc khiến họ bị lộ diện. Những cái đều quay khắp phía, những cặp mắt ngơ ngác nhìn nhau. Rồi từ từ, họ cùng quay đầu về một phía: cửa sổ còn ánh sáng của bọn tôi. Tất cả bất động cùng một lúc dường như Kurt Bach vừa chạm họ vào thân đá. Một đám mây trôi qua, khu vườn lại chìm vào trong tối, duy nhứt chỉ còn một chút ánh sáng đọng lại trên tháp tưởng niệm đen.
Chuông nhà thờ báo hiệu một giờ đêm, giờ trở về huyệt mộ của loài ma quỷ. Chúng tôi có quyền chọn lựa, hoặc tiếp tục uống say vùi hoặc thả mình vào giấc ngủ như đi vào hầm mỏ đầy những lớp than, những xác người và những kim cương chôn giấu.
-----------------------------------------
Do nhà xuất bản in nhầm số thứ tự nên không có chương 18.
29.07.2014
19
Người dịch: Vũ Kim Thư
Nguồn: NXB Văn Nghệ TPHCM
Nội dung thu gọn
Nàng ngồi trong góc phòng, nép mình bên cửa sổ.
- Isabelle!
Không có tiếng trả lời. Mi mắt nàng chớp chớp như cánh bướm bị găm kim.
- Isabelle, tôi tới tìm cô.
Nàng hoảng sợ, ép sát người vào tường :
- Cô không nhận ra tôi sao?
Isabelle vẫn ngồi câm lặng, chỉ có đôi mắt hướng về tôi, ảm đạm và sợ sệt. Một lúc sau, nàng hỏi qua hơi thở :
- Ai sai anh tới? Phải cái người tự xưng là bác sĩ không?
Đúng là Wernicke nhờ tôi tới.
- Có ai sai bảo gì đâu? Tôi lén tới đây, không ai hay biết cả.
Isabelle đứng lên, từ từ rời khỏi chỗ :
- Cả anh nữa, anh cũng phản bội tôi.
- Không, tôi không hề phản bội cô. Tại cô không chịu ra ngoài nên chúng ta không thể gặp nhau.
- Ra làm sao được. Họ đang chực sẵn ở ngoài. Tôi ra là bị bắt ngay. Họ đã khám phá được là tôi ở đây.
- Ai?
Nàng nhìn tôi nhưng không nói. Tôi vỗ về :
- Có ai rình mò gì đâu, Isabelle.
- Có chớ, có những âm thanh, anh không nghe sao?
- Đó là tiếng gió. Isabelle.
Tự nhiên, nàng dịu giọng :
- Chắc là tiếng gió.
Tôi tiến về phía Isabelle, đi ngang qua một cái ghế dựa phủ vải hoa. Thình lình, Isabelle nói một hơi :
- Anh biết không, ở ngoài đó đang có một người đàn bà định bắt cóc tôi. Bà ta tự xưng là mẹ tôi. Tôi không dám ngủ nữa. Tại sao họ không cho người đến đây canh cửa? Tôi phải tự canh gác lấy. Mệt đến muốn ngất đi... Có một cái gì cháy nóng trong đầu, không làm sao nhắm mắt được. Ngay cả anh, anh cũng bỏ tôi.
- Tôi bỏ cô bao giờ?
- Anh đã nói chuyện với họ và chắc chắn là đã bị mua chuộc rồi. Tại sao anh không tới để bảo vệ tôi? Anh không muốn mà, tôi biết nếu anh muốn thì anh đã cứu thoát tôi rồi.
Nàng quay mặt vào tường. Buổi chiều đi vào qua cửa sổ. Tôi ôm Isabelle trong vòng tay. Nàng run rẩy, nép sát người vào trong khi tôi chua xót nghĩ: hai người xa lạ không hiểu rõ ràng nhau vậy mà vẫn có thể tìm một lối thoát tương đối êm dịu qua sự ngộ nhận kéo dài.
Isabelle thở dài :
- Tại sao anh không yêu em?
- Anh yêu em.
Tất cả những gì trong tôi đều là tình yêu đối với Isabelle.
- Không! Bọn người kia vẫn còn đó. Nếu yêu em anh đã giết họ rồi.
Tôi vẫn giữ nàng trong vòng tay và nhìn ra vườn cây giữa lúc bóng tối từ từ dâng lên và những lối đi vừa nhuộm tím. Tôi tự biết mình đang sáng suốt nhưng đồng thời có cảm tưởng như đang đứng trên một chóp nhọn thật cao mà bên dưới là vực thẳm của một dòng suối đổ máu.
Ngả đầu vào vai tôi, Isabelle thì thào :
- Anh có thấy lạnh không? Cứ mỗi đêm là tất cả đều chết đi. Trái tim cũng chết.
- Không có cái gì chết đâu. Isabelle, không bao giờ.
- A! Tất cả đều nói dối. Cả anh nữa, anh cũng nói dối.
- Phải, nhưng không cố ý.
Isabelle bị run lên và áp cả thân mình vào người tôi :
- Họ bịt mắt em rồi lấy kim đâm vào. Vậy mà em vẫn nhìn thấy.
- Em thấy gì?
Nàng bỗng đẩy mạnh tôi ra :
- Họ sai anh tới đây nhưng đừng hòng tôi khai điều gì cả. Anh là gián điệp, họ trả tiền để anh dọ thám tôi. Tôi mà nói ra là họ sẽ giết tôi. Truyện "Bia Mộ Đen Và Bầy Diều Hâu Gãy Cánh " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Tôi không chút ngạc nhiên :
- Anh không phải gián điệp đâu.
Isabelle dường như suy nghĩ lại. Tôi cố gắng không động đậy, không thở mạnh. Chúng tôi đang đứng trên một ngưỡng cửa mà phía sau đó là cả một vùng tự do - điều mà Wernicke gọi là tự do - đó là sự trở về từ những khu vườn điên dại để ra những con lộ bình thường, những ngôi nhà và những cuộc tiếp xúc giữa con người.
Cuối cùng, tôi tìm một lối khuyên giải :
- Nếu em nói rõ cho anh biết, họ sẽ không còn muốn quấy rối em. Và nếu họ vẫn tiếp tục, anh sẽ đi tìm cảnh sát... anh cho báo chí hay. Lúc đó, họ sẽ hoảng sợ. Và em được yên lành.
Nàng chấp hai tay lại :
- Không phải chỉ có vậy thôi...
- Vậy còn gì nữa?
Trong một thoáng, mặt nàng bỗng đanh lại, môi mím chặt, cằm đưa tới trước. Bây giờ, nàng là hiện thân của một nữ đồng trinh hung hãn.
- Thôi!
Giọng nàng cũng khác hẳn đi. Tôi dỗ dành :
- Có gì đâu. Anh chỉ muốn cho em biết rõ hơn.
Tôi hồi hộp. Ánh mắt Isabelle đã hoàn toàn ngây dại, màu chiều biến nó đục lờ như hai viên đá đen. Nhưng hai viên bản thạch đó đang nhìn tôi với tất cả khinh mạn :
- Mầy muốn biết rõ lắm, phải không? Mầy đã phản tao, đồ mật thám!
Tự nhiên tôi bỗng giận sôi lên mặc dầu vẫn biết mình đang đứng trước một người loạn trí. Tôi hét to lên :
- Khốn kiếp! Tội gì phải dây vào tất cả những chuyện này?
Tôi thoáng thấy mặt Isabelle biến sắc và dịu lại nhưng cơn giận vô nghĩa đã mang tôi ra khỏi phòng như một trận cuồng phong.
- Rồi sao nữa?
Tôi nhún vai không buồn nhìn Wernicke :
- Chỉ vậy thôi. Nhưng tại sao lại phái tôi tới gặp cô ta? Có thay đổi được gì đâu. Đã vậy, thay vì an ủi người bệnh, tôi lại nổi xung, chẳng ích lợi gì cả.
- Cậu không biết chớ làm như vậy là đúng lắm. Rất có lợi cho cô ấy.
Wernicke lấy từ sau dãy sách ra một chai rượu và hai cái ly. Vừa rót rượu, ông ta vừa ôn tồn hỏi :
- Uống một chút cô-nhắc với tôi đi. Có một điều mà tôi muốn biết: là thế nào cô ấy biết có bà mẹ tới đây?
Tôi sửng sốt :
- Mẹ cô ta đã tới đây?
Wernicke gật đầu :
- Tới từ hôm qua. Cô ấy chưa gặp mặt, dầu là nhìn từ cửa sổ.
- Nhưng tại sao cô ta lại có thể thấy.
Wernicke ngắm nghía màu rượu trong ly :
- Muốn nhìn thấy cô ấy phải có một đôi mắt tương đương với viễn vọng kính. Tuy nhiên, những người bị
bệnh tâm trí thường hay có những trực giác lạ lùng. Có thể cô ấy đoán ra nhờ đã lần lần khôi phục.
- Ông nói sao? Cô ta hiện còn điên dữ hơn lúc trước.
Wernicke vẫn bình thản :
- Không đâu.
Tôi đặt ly xuống và nhìn những quyển sách dày cộm :
- Cô ta còn thảm hại đến nỗi tôi muốn nôn mửa.
- Thảm hại thì đúng nhưng điên thì không.
- Vậy, tốt hơn hết là nên để cô ta hoàn toàn sống sung sướng như mùa hè vừa qua. Bây giờ... ghê tởm quá.
Wernicke nhìn nhận :
- Ghê tởm thật.
- Giống như kẻ đang ở trong phòng tra tấn.
Wernicke gật đầu :
- Nhưng không phải chỉ có một mình cô ấy. Cậu hãy còn trẻ để giải quyết vấn đề thương hại. Thêm một ít tuổi nữa sẽ biết.
- Tôi cũng đã có một mớ kinh nghiệm về phần tôi.
- Đừng tự hào lắm về cái nhãn hiệu cựu chiến binh. Những gì cậu thấy không dính líu chi đến vấn đề siêu hình của sự xót thương mà chỉ là dậy lên thêm sự ngu dại của loài người. Lòng trắc ẩn bắt đầu từ một nơi nào đó và tự kết thúc tại một nơi nào đó... vượt ra ngoài phạm vi của những kẻ hay than van như cậu hoặc những kẻ hay ban phát những lời an ủi, chia buồn.
Ông ta uống cạn ly bình lặng nhìn màn đêm đang từ từ buông xuống. Ánh đèn điện làm ngời chiếu những gáy sách nhiều màu. Đột nhiên, ông ta đứng lên, lấy nón đội rồi nhích vành nói sang một bên để chào tôi :
- Xong rồi. Đã tới giờ đi thăm bệnh
- Sao bác sĩ không cho cô Geneviève Terhoven một ít thuốc ngủ?
- Nhưng thuốc ngủ không thể chữa hết bệnh.
- Ít ra cô ta cũng được một đêm yên nghỉ.
- Cám ơn. Tôi sẽ làm theo lời cậu... À, tôi quên nói điều này: Hôm nay chỉ một mình cậu thôi cũng đã hơn cả một lô y sĩ chuyên chữa bệnh điên. Rất cám ơn.
Tôi không hiểu ông ta muốn nói gì. Tôi lặp lại :
- Đừng quên cho cô ta uống thuốc ngủ. Loại mạnh.
- Đồng ý. Câu có sang Trung Hoa chưa?
- Trung Hoa à? Sao tôi lại phải đi?
- Tôi... Tôi đã có lần ở đó... trước chiến tranh. Giữa thời nạn lụt và đói khát xảy ra liên miên.
- Ông khỏi bận tâm kể thêm. Tôi đã đọc hàng lô sách nói về những chuyện đó rồi. Ông đi gặp cô Geneviève Terhoven ngay bây giơ phải không?
- Tôi sẽ tới cô ấy trước. Đừng lo, tôi sẽ giúp cô ấy ngủ yên.
Và ông ta cười khó hiểu :
- Sau đó tôi sẽ có một vài câu hỏi tế nhị với mẹ cô ta.
Văn phòng chìm trong bóng tối. Tôi mở đèn lên và bắt gặp một mảnh giấy trên bàn “Riesenfield đã lên đường. Hôm nay, nghỉ phép vào nửa đêm. Hãy sẵn sàng tỉnh táo, nhớ cắt móng tay và đừng quên cầu nguyện cho đức vua và tổ quốc. Ký tên Kroll, thượng sĩ và con người. Tái bút: Coi chừng! Tội lỗi đang rình rập ngay cả trong giấc ngủ”.
Tôi lên phòng riêng. Chiếc dương cầm cười nhe cả hàm răng trắng xóa. Trên kệ là những quyển sách của các nhàã tư tưởng lớn. Chúng nhìn tôi với đầy vẻ nghi ngờ. Tôi gởi ra cửa sổ một loạt âm thanh, Lisa xuất hiện trong chiếc áo choàng với một bó hoa to tướng. Ả nói lớn qua con hẻm :
- Của Riesenfierd! Ngốc quá! Có cần loại rau này không?
Tôi từ chối bằng cử chỉ. Biết gởi cho ai? Không thể cho Gerda, cả Isabelle nữa.
- Không hả?
- Không, cám ơn.
- Đổ quạ mổ! Vui lên một chút chớ.
Ả đóng sầm cửa lại. Tôi lại tung thêm một loạt âm thể ra ngoài trời. Không cảm hứng. Tôi đậy nắp dương câm và xuống gác. Xưởng mộc của Wike vẫn còn đèn, tôi lên chỗ anh ta và hỏi ngay :
- Vụ mấy đứa bé sanh đôi tới đâu?
- Xong xuôi. Tốt đẹp. Đã vậy lại còn mua được một chỗ nằm tốt, đất có cát, khô ráo, ở trên cao.
- Cho ai? Cho bà ta và chồng? Để làm gì?
- Đừng quên là giữa thời buổi này có một chỗ chôn cất tức là để chiếm được một vị trí tốt nhất cho cuộc đời. Vả lại, bà ta có thể bán đi nếu cần. Lạm phát như điên, thế nào cũng kiếm được chút ít. Truyện "Bia Mộ Đen Và Bầy Diều Hâu Gãy Cánh " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
- Quá đúng, tôi quên mất, xin lỗi. Còn bạn, đang làm gì đây?
Wike chỉ một chiếc quan tài :
- Đóng hộp cho thằng cha ngân hàng. Werner. Bất đắc kỳ tử. Gỗ quý, bạc khối, tơ thứ thiệt, giờ phụ trội... ngon lành. Đêm nay không ở chơi à? Kurt Bach đi đâu mất. Vậy là ngày mai bạn có thể bán được một cái tháp thứ quý nhứt. Thằng cha này ngã chết sau khi đóng cửa nhà băng.
- Thành thật chia buồn. Phần tôi cũng gần như sắp chết. Nên tới Moulin Rouge, quá một giờ trở về làm tiếp, được không?
WilKe suy nghĩ một chút rồi gật đầu :
- Ý kiến hay. Nhưng có cần mặc áo đuôi tôm không? Tôi không có.
- Cần cóc gì.
- Cũng được. Có hay không có áo đuôi tôm thì cùng phải xài tất cả số tiền làm một đêm chỉ trong một tiếng đồng hồ. Nhưng... hay là tìm một quán rượu nho nhỏ. Chắc chút nữa tôi phải tới Blum, bia của hắn ngon lắm.
Tôi băng qua sân trong bóng tối. Một đốm mờ nằm ngang dưới chân tháp tưởng niệm đen: bó hoa của Lisa. Ả đã đem bỏ lại đó trước khi tới Moulin Rouge. Tôi ngập ngừng nửa muốn lấy, nửa muốn không. Tới lúc chợt nghĩ là Knopf có thể tưới nước bẩn lên đó, tôi không do dự nữa. Đem bó hoa về phòng, tôi cắm vào một bình đất nung. Gian phòng như sáng chói ra. Thế là tôi đang sống cùng những đóa hoa cúc nâu, trắng và vàng phảng phất mùi nghĩa địa. Bất giác tôi tưởng như mình đang nằm dưới đáy mồ. Thật ra, có phải tôi đã vừa chôn một vật gì đó hay không?
Càng về khuya, hương hoa càng ngào ngạt và trở nên khó chịu. Nhìn sang xưởng mộc tôi biết ngay là giờ này Wilke hãy còn ngồi ở quán để chờ giờ của ma quỷ đi qua mới dám trở về. Tôi đem bó hoa sang chỗ hắn. Một chai bia nhỏ đang tựa mình vào cái hòm của gã khổng lồ. Tôi uống cạn, đặt tại chỗ rồi mở toang cửa sổ ra để lúc trở về ngỡ là một oan hồn nào đó đã vào đây uống bia của hắn. Ngắt từng cánh hoa ra, tôi rải trên chiếc quan tài đóng dở dang và đặt ở chân làm tờ giấy bạc một ngàn Đức kim mất giá. Truyện "Bia Mộ Đen Và Bầy Diều Hâu Gãy Cánh " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Wilke sẽ ngạc nhiên ra sao? Hắn phản ứng thế nào? Nếu cái hòm của Wilke không xong được đêm nay cũng chưa phải là tai họa. Tên chủ ngân hàng đó, với khối tiền lạm phát, đã làm sạt nghiệp chẳng biết bao nhiêu trương chủ đã tin cậy hoàn toàn nơi hắn.
29.07.2014
20
Người dịch: Vũ Kim Thư
Nguồn: NXB Văn Nghệ TPHCM
Nội dung thu gọn
Tôi vừa vào tới. Georges xổ ra ngay một tràng dài khiến tôi ngơ ngác :
- Lại đây, lại đây, lại xem một phép lạ. Còn lạ hơn là bắt gặp một kiệt tác của Rembrandt nằm trong tiệm cầm đồ! Đừng xúc động mạnh! Ôm chặt lấy trái tim!
- Thật không?
- Coi đây! Một, hai, ba!
Y lấy từ trong khăn tay ra một vật tròn và ném xuống bàn. Tôi phải nhìn một lúc khá lâu mới nhận ra: một đồng hai mươi Đức kim đồng vàng. Tôi hoàn toàn không tin ở mắt mình. Một đồng tiền thế này... một đồng tiền mà tôi đã nhìn thấy. A! Đúng rồi! Trước khi có chiến tranh!
Tôi nói với Georges :
- Anh cho phép tôi hôn nó. Đây là vật biểu trưng của một thời đại vàng son.
Tôi cầm lấy đồng tiền, nâng niu trong bàn tay. Đồng tiền vàng có chạm hình Hoàng đế Guillaume đệ nhị, giờ đây đang cưa gỗ ở Hòa Lan.
- Anh làm sao có được, Georges?
- Của một góa phụ vừa hưởng được cả một chôn giấu.
- Trị giá bao nhiêu?
Georges lim dim mắt như để tính nhẩm rồi nói luôn một hơi :
- Bốn tỷ Đức kim giấy bạc giấy. Một ngôi nhà nho nhỏ. Hay mười hai ả điếm hạng sang. Một tuần lễ tới Moulin Rouge. Còn gì nữa? À, tám tháng tiền cấp dưỡng một phế binh có mức độ tàn phế trăm phần trăm...
- Xin can...
Henri Kroll đi vào, ống quần bó chặt bằng hai cái kẹp. Tôi tung đồng tiền vàng xoáy lốc trên không :
- Xem đây! Ông anh sẽ hài lòng với tinh thần tôi Chúa!
Henri chụp lấy, dán mắt vào đồng tiền vàng rồi kêu lên :
- Trời! Đức Hoàng thượng! Thời đó, chúng ta còn cả một quân đội!
Tôi chen vào :
- Với màu sắc rực rỡ..
Henri quắc mắt :
- Nhưng chú mầy vẫn phải nhìn nhận rằng thời đại đó vẫn hơn cái chế độ dân chủ xã hội này.
- Có thể.
- Không phải có thể, mà là chắc chắn. Thời đó, chúng ta có đủ cả: tiền tệ vững chắc, không một người thất nghiệp... và cả thế giới ngưỡng mộ nước ta. Tôi có nói dối không?
- Chắc là không.
- Lâu lắm mới nói một câu nghe được. Và chế độ này, chúng ta có được gì?
- Rối loạn, năm triệu người thất nghiệp và thua trân.
Hai tiếng sau cùng của tôi là Henri sững sờ. Ông ta rống lên :
- Đừng nói tới chuyện thua trận. Tôi có bảo chú mày nói vậy đâu. Phải nhớ là trước kia chúng ta được bọc trong nhung lụa. Và bây giờ thì hỗn loạn khắp nơi.
- Tại ông hỏi...
- Bỏ đi, chuyện cần kíp là phải có một vị Hoàng đế mới và được chánh phù quốc gia, vậy thôi!
- Khoan! Ông còn quên một chi tiết, một từ ngữ rất quan trọng, một liên từ: bởi vì. Trí nhớ ông hơi kém, ông Kroll.
- Sao? Chú mày muốn nói gì?
- Bởi vì, tôi muốn nhấn mạnh ở hai tiếng bởi vì. Hiện chúng ta đang có năm triệu ngưởi thất nghiệp, nạn lạm phát và thua trận bởi vì chúng ta đã có một chính phủ theo kiểu của ông. Bởi vì chánh phủ đó, có thực hiện giấc mộng xâm lăng, đã mở một cuộc chiến. Bởi vì, cuộc chiến đó, đưa đất nước tới bại trận. Vả chính vì vậy mà tất cả chúng ta phải gánh lấy cái hậu quả thảm bại mà ông vừa nhắc tới. Ông và các bạn của ông, những người cùng lý tưởng với ông đều nói: trước đây là thời kỳ vàng son và bây giờ tất cả đều tệ hại, và kết luận là chế độc cũ cần phải đặt lại. Trên thực tế, đúng hơn là phải nói thế này: ngày nay tất cả đều tệ hại bởi vì trước đó là một chế độ tệ hại. Ông hiểu tôi muốn nói gì chưa?
Henri Kroll gầm lên :
- Đồ phản bội!
Georges cười vang :
- Đối với Henri thì bất cứ ai không chịu đứng nghiêm đều là phản bội.
Henri ưỡn ngực tới chuẩn bị một câu trả lời nảy lửa. Hình ảnh đức vua mà ông ta vửa nhìn thấy trên đồng tiền vàng lúc nãy làm cho ông ta tin tưởng thêm hơn. Nhưng giữa lúc đó, Kun Bach đi vào.
- Ông Kroll, cái tháp có khắc “Đây là nơi an nghỉ cuối cùng của chủ hiệu buôn đồ sắt Tây Quartz” nên chạm hình thiên thần bên phải hay bên trái.
Henri quay phắt lại :
- Cái gì?
- Hình thiên thần trên tháp tưởng niệm ông Quartz.
- Bên phải. Thiên thần luôn luôn ở bên phải.
Trở về thật mau với tinh thần nghề nghiệp, ông ta bảo Kurt :
- Được rồi, để tôi cùng đi.
Và ông ta ném trả đồng tiền vàng lên mặt bàn. Kurt Bach vừa thoáng thấy, vội cầm lên, ngắm nghía :
- Một thời kỳ đã trôi qua!
Georges nghiêng đầu :
- Theo ý bạn thì đó là thời kỳ gì?
Thời kỳ của nghệ thuật tự do. Bánh mì chỉ có mấy xu, một ly rượu mạnh năm xu chẵn. Chỉ cần vài miếng tròn thế này là đã đủ xuất ngoại, sang Ý chẳng hạn.
Kurt hôn đồng tiền và đặt trở lại trên mặt bàn. Mặt hắn đăm chiu như vừa già thêm mười tuổi. Rồi hắn lặng lẽ đi ra. Trước khi theo Kurt, Henri còn quay lại lườm chúng tôi :
- Để rồi xem, sẽ còn nhiều cái đầu rời khỏi cổ.
Tôi vểnh tai lên hỏi Georges :
- Anh có nghe rõ không? Có phải đó là một khẩu hiệu của Watzek? Con đường Arquebusiers nhỏ hẹp này coi bộ đã là một ổ rắn của Quốc Xã rồi.
Georges lơ mơ nhìn ra cửa :
- Có thể. Coi bộ không khá mấy. Vậy mà những người như Henri năm 1918 lại là những kẻ ong óng chống quân địch. Từ đó tới nay họ quên hết cả, chiến tranh đối với họ là một cuộc phiêu lưu hấp dẫn.
Nhét đồng tiền vào túi áo gilet, Georges nói tiếp :
- Khi đã thoát nạn rồi, người ta thường chỉ thấy đó là một cuộc phiêu lưu vô hại. Thật đáng buồn nôn. Chỉ có những người chết mới có được ý niệm chính xác về chiến tranh. Buồn thay! Họ chỉ là thiểu số...
Georges đội nón lên :
- Thôi, mình đi ăn. Để xem anh chàng Edouard Knoblock nghĩ gì về đồng tiền con ó.
Nàng ngồi trên thềm, trước trại những người chưa lành bệnh. Ở nàng không còn sót lại một chút gì về điên loạn như hôm trước. Mắt trong và sáng, mặt hiền hòa, nàng trông đẹp hơn bao giờ hết.
Cơn mưa chiều làm khu vườn chiếu ngời ánh nắng và ẩm ướt. Từng tảng mây xanh đục lướt trên thành phố. Bất cần hòa hợp với thời tiết, Isabelle mặc dạ phục và mang giầy vàng chói. Một chiếc vòng ngọc bích trị giá hơn cả vốn liếng của hãng chúng tôi, kể cả bàn ghế, tháp tưởng niệm và lợi tức năm năm tới khoanh tròn ở cổ tay trắng nuột của nàng. Đây là lần đầu tiên, tôi trông thấy chiếc vòng đó của Isabelle. Chắc chắn là phải có một cái gì trọng đại hôm nay - lúc nãy là đồng tiền vàng của vua Guillaume đệ nhị và bây giở là chiềc vòng ngọc bích.
Isabelle chợt hỏi tôi :
- Anh có thấy họ không? Chúng đã uống quá nhiều bây giờ chúng ngồi yên, no đủ và thỏa mãn. Chúng phát ra tiếng vù vù như hằng vạn con ong.
- Cô nói ai?
- Cây cỏ chớ còn ai. Hôm qua, trời nắng cháy, chúng kêu la mãi.
- Cây cỏ mà cũng kêu la được sao?
- Tại sao không? Anh chẳng nghe gì cả hay sao?
- Không.
Chiếc vòng ngọc bích như thao láo nhìn tôi với những con mắt biếc.
Isabelle cười :
- Vậy là anh ít khi nghe thấy gì cả, Rudopf. Tai anh to mà anh lại chẳng biết nghe, anh chỉ làm ồn ào thôi.
- Tôi à?
- Anh làm ồn ào lắm, Rudopf. Nhiều lúc người ta không chịu nổi. Còn tệ hại hơn những đóa hoa khi khát nước.
Tôi cố giữ giọng thật tự nhiên :
- Isabelle, đừng đùa nữa.
Nàng hôn tôi thật mau :
- Đừng đùa à? À này, Rudopf, dường như tên thật của anh không phải vậy. Anh tên gì?
Tôi ngạc nhiên và chưa bao giờ nàng đặt câu hỏi đó. Tuy nhiên tôi vẫn phải nói thật :
- Tôi là Louis.
- Louis. Anh có bao giờ mệt mỏi với cái tên Louis không?
- Có chớ. Và mệt mỏi với chính mình.
Nàng gật đầu như cho đó là một điều rất tự nhiên :
- Vậy thì đổi tên đi. Sao không lấy tên là Rudopf? Hay một tên nào khác. Và nên đi xa. Đi tới một nước khác.
- Đổi để làm gì? Mọi người ở đây đều đã biết tôi là Louis.
Isabelle dường như không nghe tôi nói. Nàng lẩm bẩm :
- Cả tôi nữa, tôi cũng sắp đi xa. Tôi có cảm giác như vậy. Tôi đã quá mệt mỏi và chán chường vị sự mệt mỏi của tôi. Tất cả đều gần như có một chút trống không và đầy ý vĩnh biệt, buồn thảm và chờ đợi.
Tôi nhìn nàng và đột nhiên lo sợ. Chuyện gì đã xảy ra trong đầu nàng.
- Mỗi người chúng ta có phải luôn luôn đang biến đổi hay không?
Mắt Isabelle hướng về phía thành phố :
- Tôi không muốn nói tới vấn đề đó. Rudopf Tôi là còn có một sự biến đổi khác hơn. Một sự biến đổi to lớn. Gần giống như sự chết. Hay là sự chết cũng nên. Truyện "Bia Mộ Đen Và Bầy Diều Hâu Gãy Cánh " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
- Isabelle!
Nàng lắc đầu nhưng không nhìn tôi :
- Ở đâu cũng có một cái gì phân hóa. Ngay cả trong cây cối và sương mù. Bóng tối cũng dầy đặc sự phân hóa. Và sự một mỏi lướt dài qua xương xẩu của tôi. Tôi không thích đi vơ vẩn nữa Rudopf. Dầu là có anh tôi cũng không thích. Dầu vậy, tôi vẫn cảm thấy mến anh. Anh có hiểu được tôi hay không cũng mặc. Ít ra thì anh cũng có mặt ở đây. Nêu không thì tôi chỉ sống có một mình.
Tôi không hiểu nàng muốn nói gì. Đây là những giây phút khác thường. Tất cả bỗng hoàn toàn im lặng, không một cành lá động đậy, chỉ có những ngón tay của Isabelle ngọ quậy trên viền ghế mây với sự hiện diện của màu ngọc bích. Nắng chiều làm khuôn mặt nàng đầy sinh khi hoàn toàn trái ngược với ý nghĩ chết chóc mà nàng vừa nêu ra. Dầu vậy, tôi vẫn không khỏi ngầm lo sợ. Isabelle sẽ ngã quỵ theo cơn gió? Không, gió mới nổi lên và lướt qua những tàng cây. Nàng đứng lên và cười thật tự nhiên :
- Có rất nhiều cách để chết. Nhưng anh, anh chỉ biết có một cách. Thôi, chúng mình vào trong.
Tôi bỗng nghe mình nói :
- Anh yêu em, Isabelle.
Nàng cười lớn và hôn tôi rồi thì thầm :
- Âm nhạc... và ánh nắng trong sương mù. Tuổi trẻ của mình rồi sẽ ra sao, Rudopf?
Thình lình, tôi thấy cay ở mắt mình mà không biết tại sao :
- Rồi sẽ ra sao? Nhưng bọn mình đã có một tuổi trẻ nào chưa?
- Làm sao biết.
Trong ánh sáng đỏ rực buổi chiều, tôi chợt nhận ra một vết phân chim trên áo, ngang chỗ trái tim. Isabelle cũng nhìn thấy và cưỡi rũ rượi. Tôi dùng khăn tay chùi sạch vết bẩn, cố quay lại câu chuyện đang bỏ lửng :
- Em là tuổi trẻ của anh, Isabelle, bây giờ anh mới nhận ra. Cái tuổi trẻ mà người ta bắt đầu nói tới khi nó vuột khỏi tầm tay...
Tôi dừng lại, hơi sững sờ về điều vừa nói ra, tôi đang tưởng tượng gì đây? Sự thật, tôi đã có một tuổi trẻ hay không? Và tại sao nó lại vuột thoát? Bởi vì cô gái điên này đã nói thế? Hay là cơn sợ mới mẻ và thầm lặng vừa hiện tới? “Anh yêu em, Isabelle” Anh yêu em còn hơn là anh có tưởng về tình yêu đó. Cũng giống như một đợt gió nổi lên, người ta tưởng nó chỉ làm cho mát mẻ, nhưng rồi trái tim bất ngờ bị bẻ gập như cành liễu trong cơn bão. Anh yêu em vì em nghe thấy tiếng kêu của hoa lá khi chúng khát, em biết được buổi chiều tự nó có điều mệt mỏi. Một cánh cửa vừa mở ra những khu vườn xa lạ, anh chưa biết rõ là gì, anh ngạc nhiên, anh xấu hổ vì đã đại ngôn, nhưng những từ ngữ to lớn đó cứ thoát ra ngoài ý muốn, chúng âm vang mà không nêu một nghi vấn nào với anh. Một người nào đó đã nói với giọng nói của anh mà anh không nhận ra. Truyện "Bia Mộ Đen Và Bầy Diều Hâu Gãy Cánh " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Isabelle dừng sững lại. Chúng tôi đang bước vào lối đi mà cách nay vài hôm, trong cơn loạn trí, Isabelle đã thoát y. Nhưng hôm nay tất cả đều đổi khác. Con đường nhỏ chói chang ánh nắng chiều, tràn ngập màu tươi trẻ xa lạ vừa ưu tư vừa khoan khoái.
Isabelle nói như gió thoảng :
- Anh có yêu em không?
- Yêu nhiều lắm. Và anh biết sẽ không còn một người nào nữa để anh yêu như vậy, bởi vì anh sẽ không còn là anh nữa và anh sẵn sàng giữ lấy tình yêu đó dù rằng phải đánh đổi bằng sinh mạng.
Mắt nàng chiếu rực nắng hồng :
- Vậy là cuối cùng anh đã hiểu. Anh đã hiểu tất cả... hạnh phúc không tên, tang chế, giấc mơ, khuôn mặt đôi. Mong trời, Rudopf, mình có thể vượt qua, nhưng một niềm tin mình sẽ rơi xuống. Anh có tin thế không?
Tôi đáp nhỏ :
- Anh phải tin.
Ánh nắng cuối ngày vẫn còn gay gắt nhưng đã trộn lẫn màu xám đục càng lúc càng lan rộng trên nền trời. Sự huyền bí vừa đi ngang qua tôi, phớt nhẹ vào người tôi: tôi vẫn mang một tên và tôi sẽ kéo nó theo suốt cả cuộc đời. Tôi không phải là loài phượng hoàng. Tôi không thể phục sinh từ xác thân mục rữa của tôi. Tôi cố bay bổng lên và rơi xuống đất như một con gà mái vụng về bỡ ngỡ.
Isabelle làm tôi giật mình :
- Đừng buồn, anh!
- Isabelle, anh không thể đi trên những cầu vồng, nhưng anh muốn được đi trên đó. Ai có thể đi trên đó?
- Không ai cả.
- Không à? Cả em cũng không đi được?
Nàng lắc đầu :
- Không một ai. Chúng mình chỉ cố thử thôi, cũng không đến nỗi tệ lắm.
Nắng tắt trong vườn cây, tất cả đều nhuộm xám. Tôi đã sống một buổi chiều tương tư hôm nay nhưng tôi không thể nhớ rõ là lúc nào. Tôi ôm Isabelle kéo sát vào. Chúng tôi hôn nhau như những kẻ khốn nạn và tuyệt vọng, như hai kẻ sắp xa rời nhau vĩnh viễn, tôi bỗng thấy như nghẹt thở :
- Anh gần như mất cả. Isabelle. Anh yêu em.
Isabelle thì thầm :
- Đừng nói gì cả, Rudopf.
Chúng tôi bước chậm về phía cổng vườn. Mặt trời đã lặn mất, những cánh đồng như chìm khuất, một vùng sáng đỏ còn đọng lại trên chóp vườn, các con đường lớn dưới phố như rực lửa.
Chúng tôi đứng bên nhau, im lặng, một lúc lâu, Isabelle nói :
- Bảo rằng sự hiện hữu có một điểm phát xuất và một điểm kết tận có lẽ không đúng lắm.
Tôi không hiểu ngay nàng muốn nói gì. Sau lưng chúng tôi, vườn cây bắt đầu trở mình để vào đêm. Phía trước, cảnh vật như đang bị nung nấu trong một lò đúc hợp kim. Một điểm phát xuất và một điểm kết tận? Tôi chợt hiểu ra. Tội gì phải trích ra từ cuộc sống một định mệnh nho nhỏ, chia cắt từng đoạn một rồi đặt lương tâm mình vào đó để dày vò?
- Isabelle, anh tin là đã tìm được tình yêu. Đó là bến bờ cao vọi hướng lên ngàn trùng tinh tú... một toan tính luôn luôn vô hiệu,từ cõi chết đến với cõi bất diệt... một sự gặp gỡ giữa chân trời và sóng biển. Isabelle, lúc nói, anh không suy nghĩ nhiều, ngôn ngữ tự nó cứ tuôn ra, có thể trong đó có một vài lời nói dối, nhưng anh nghĩ rằng em vẫn có thể hiểu anh mà không cần anh phải nói.
- Vâng.
- Em hiểu anh rồi phải không?
Mắt nàng sáng lên :
- Rudopf, em thường lo ngại cho anh.
- Lo ngại? Tại sao?
Nàng lặp lại :
- Lo ngại. Mà không, bây giờ hết rồi. Vĩnh biệt Rudopf!
Tôi siết chặt hai bàn tay Isabelle :
- Em đi sao? Anh có làm gì buồn lòng không?
Nàng cố gỡ tay ra. Tôi nói mau :
- Isabelle, anh xin lỗi. Đó chỉ là tiếng nói, những lời vô nghĩa.
- Rudopf, tại sao anh cứ muốn hủy diệt những gì anh có?
- Anh cũng không biết tại sao.
- Ngọn lửa không khói và cũng chẳng có dấu vết tro than, đừng dập tắt nó, Rudopf. Vĩnh biệt!
Chuyện gì nữa đây? Phải chăng tôi đang ở trên sân khấu? Phải chăng đây là lần vĩnh biệt thật sự? Tôi ôm nàng vào lòng :
- Mình ở bên nhau, phải không em?
Nàng ngả đầu vào vai tôi và khóc.
- Tại sao em khóc? Thế này không phải là hạnh phúc sao?
Nàng diu dàng hôn tôi rồi nhẹ lùi ra :
- Vĩnh biệt, Rudopf!
- Tại sao em cứ nói vĩnh biệt mãi? Mình có xa rời nhau vĩnh viễn đâu? Mai anh sẽ trở lại.
Nàng nhìn tôi :
- Rudopf! Làm thế nào để chết được nếu không nói với nhau lời vĩnh biệt?
- Phải, làm thế nào?
Chúng tôi dừng lại trước trại bịnh. Phòng ngoài không một bóng người. Một mảnh vải màu bị bỏ quên trên một chiếc ghế mây.
Thình lình, Isabelle bảo :
- Đi với em!
Tỏi thoáng do dự nhưng biết là không thể từ chối nên bước tới. Tôi theo nàng lên làu. Không một lần nhìn lại phía sau, nàng đi thẳng vào phòng riêng. Tôi dừng lại ở ngưỡng cửa. Nàng tháo đôi giày vàng chói ra rồi nằm dài trên giường, vẫy tay :
- Lại đây, lại đây, Rudopf!
Tôi bước vào tới ngồi ở mép giường, cố tránh làm cho nàng thất vọng như lần trước, nhưng tim tôi đập mạnh vì chẳng biết phải làm gì hay giải thích ra sao khi một nữ tu hoặc Wernicke bất chợt vào đây.
Isabelle lại bảo :
- Nằm xuống với em.
Tôi lùi ra một chút nhưng nàng đã nhanh hơn, rướn dậy và ngả đại vào lòng tôi. Nàng kêu lên nho nhỏ :
- Đây rồi, Rudopf!
Và sau phút thở dồn dập, nàng ngủ thiếp đi.
Trời đã tối hẳn trong phòng. Khung cửa sổ làm thành một hình chữ nhựt đục mờ. Tôi ngồi yên, lắng nghe hơi thở của Isabelle và những tiếng động của các phòng kế cận. Thình lình nàng mở mắt ra, gần như không thở nữa và đẩy tôi ra. Tôi vội vàng bảo :
- Chính anh đây. Rudopf.
- Ai?
- Rudopf, anh vẫn ở bên em.
- Anh ngủ ở đây à?
Giọng nàng đã đổi khác. Tôi nhắc lại :
- Anh vẫn ở bên em.
- Anh ra mau đi. Ra ngay!
Tôi nghĩ là nàng không nhận ra tôi!
- Chỗ mờ đèn ở đâu, Isabelle?
- Đừng mở đèn. Đi ra đi, ra mau!
Tôi bàng hoàng nhưng đành phải đứng lên, mò mẫm ra cửa. Isabelle động trên giường như kéo mềm để đắp.
- Ra ngay đi! Ra mau. Ralph! Coi chửng bà ta thấy!
Giọng nàng đã trở nên chát chúa, hoàn toàn khác lạ.
Tôi khép cửa lại và lẳng lặng xuống lầu. Người nữ tu gác bệnh ngồi ở tiền đình biết tôi được phép thăm nữ bệnh nhân Terhoven, hỏi :
- Cô ấy có bình tĩnh không?
Tôi trả lời bằng cái gật đầu và đi thẳng ra khu vườn dành cho những người điên nhưng không loạn dạo mát ban đêm. Chuyện vừa xảy ra là gì? Tại sao nàng gọi tôi là Ralph? Nhân vật đó là ai? Chưa bao giờ nàng gọi tôi như thế cả. Và tại sao nàng sợ tôi bị bắt gặp?
Trên đường xuống đồi, tôi không khỏi hoang mang. Tình yêu và những ngôn ngữ kiêu kỳ của tôi tan tác trong gió đêm. Một cơn buồn khó chịu kéo tới, một nỗi sợ mơ hồ khiến tôi bước mau hơn, tôi muốn trở lại thành phố thật mau để được nhìn ánh sáng, để hòa mình trong nhịp độ của cuộc sống chung.
Giữa đêm, tôi giật mình thức giấc vì những tiếng ồn ào khác lạ. Mở cửa sổ ra, tôi nhìn thấy lão Knopf đang được dìu về. Đây là lần đầu tiên lão ta không trở về một mình. Thường lệ, dầu say bí tỉ, lão vẫn mò được về nhà. Lão ta rên như bò rống. Một vài cửa sổ gần đó mở ra.
- Thằng già say khốn kiếp!
Tiếng chửi mắng nghe như quỷ khóc giữa đêm. Tác giả của câu rủa xả vừa rồi là bà Konersmann, một góa phụ. Suốt ngày, bà ta chẳng làm gì khác hơn là kêu réo như chim ác là. Từ lâu, tôi có ý nghĩ là bà ta đã rình mò sự đi lại vụng trộm giữa Lisa và Georges.
Trong bóng tối, một giọng đàn ông ra vẻ người hùng, quát to :
- Câm miệng, con mẹ già hỗn láo!
Tôi nín thở, biết là sắp có giông tố nổi lên. Và đúng vậy, không đầy một giây chờ đợi, từ cửa sổ người đàn bà góa đó, một tràng chửi rủa không tiếc lời tuôn xuống. Dĩ nhiên, nạn nhân hứng chịu chẳng ai khác hơn là lão Knopf và người đàn ông trong bóng tối. Nhưng rồi cuối cùng, mụ quỷ ám cũng phải ngưng lại vì thở không ra hơi. Những câu hỏi sau cùng của bà ta là sẽ thưa lên Đức Giám mục, sẽ báo cho cảnh sát biết và cho cả chủ nhân anh chàng dám bảo bà ta câm miệng. Người đàn ông dường như vẫn được yên lành nhờ bóng tối nên lại cất giọng oang oang :
- Câm miệng, đồ xác chết sình! Ông Knopf bịnh nặng
gần chết còn ong óng miệng để chửi hả? Đồ quỷ cái!
Cuộc phản công lại ác liệt hơn lần trước. Tất cả những ngôn ngữ tệ hại, ác độc nhất của Đức tuôn ra xối xả. Bà ta vừa chửi vừa rọi đèn bám để tìm xem kẻ nào đã dám vô lễ với mình. Nhưng ánh đèn quá yếu khiến bà ta chẳng nhận ra cái gì cả. Tuy nhiên, bà ta vẫn tru tréo : Truyện "Bia Mộ Đen Và Bầy Diều Hâu Gãy Cánh " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
- Tao biết mầy là ai rồi! Thằng bất lương Henri Bruggemann hả? Mầy sẽ ở tù về tội đám chửi một người đàn bà góa. Quân giết người, bọn hôi thúi! Mẹ mày...
Từ những cửa sổ hai bên đường, tiếng hoan hô đả đảo vang lên.
Lão Knopf đã được dìu tới trước cửa nhà bởi hai bợm rượu. Mặt lão ta tái mét, mồ hôi từ trên trán nhỏ giọt làm ướt ngập cả bộ râu đang trễ xuông hai bên khóe miệng. Đột nhiên, lão ta vùng mạnh khiến hai người kia lảo đảo, rồi loạng choạng đi tới cái tháp đen. Hai tay ôm lấy khối đá, lão ta kêu gào thảm thiết.
Tôi nhìn quanh. Trong số khản giả có nhiều bộ mặt quen thuộc. Georges trong bộ đồ ngủ đỏ ối, bà Kroll với chiếc áo ngủ xanh và cả Henri nữa. Tôi không khỏi ngạc nhiên khi thấy ông ta cũng mặc đồ ngủ chớ không đeo huy chương và đội nón chóp. Điều đáng nói là bộ quần áo ngủ của ông ta được may bằng loại vải có sọc đen trắng như màu quốc kỳ nước Phổ.
Georges lên tiếng :
- Chuyện gì vậy? Lại say đến loạn trí rồi à?
Đây không phải là lần thứ nhất lão Knopf say. Người trong bóng tối lúc nãy bây giờ đã đứng đó. Đúng là Henri Bruggemann. Hắn ra điều sành sõi :
- Nguy lắm rồi! Lần này thì cả gan và thận đều hư cả.
Một người khác hỏi :
- Vậy sao không đưa vào nhà thương luôn?
- Ông ta không chịu.
Gia đình lão Knopf xuất hiện, bà Knopf ra trước theo sau là ba cô con gái, cả bốn đều đầu bù tóc rối và hốt hoảng. Lão Knopf lại kêu gào đến rợn người. Georges hỏi :
- Có điện thoại gọi bác sĩ chưa?
- Chưa. Đem được ông ta về là gần chết rồi. Ông ta cứ muốn nhảy xuống sông.
Bà Knopf và ba cô con gái đứng vây quanh cái tháp đen. Henri đi tới. Ông ta lấy tư cách chiến hữu để khuyên lão thượng sĩ hồi hưu buông tay ra vì dường như cái tháp đang lung lay. Sự ngụy hiểm đối với lão sẽ tăng gấp đôi. Nếu cái tháp đổ xuống, đầu lão ta nhứt định chẳng an toàn, đã thế lại còn phải đền tiền vì đã làm vỡ khối đá hoa cương đó.
Nhưng lão Knopf nhứt định không nghe. Bây giờ lão ta hí một tràng dài như ngựa gặp ma. Tôi nghe tiếng Georges gọi bác sĩ bằng điện thoại. Từ bên kia đường, Lisa mạc áo ngủ bang sa tanh trắng băng qua và tới gần tôi :
- Cô Gerda hỏi thăm cậu.
Ngay lúc đó, một cặp tình nhân từ sau các thánh giá bằng đá phóng vội ra và biến mất vào bóng đêm. Wilke mặc áo mưa và Kurt Bach trong bộ đồ ngủ đen lần lượt tới. Lão Knopf lại kêu rống.
Rất may là bệnh viện ở gần nên bác sĩ chỉ mất có vài phút để tới nơi. Không thể nào gỡ tay Knopf ra khỏi khối đá nên người ta dành phải kéo quần lão xuống để có chỗ chích thuốc. Đã quá quen nghề trong chiến tranh, ông bác sĩ đưa cho Georges chiếc đèn bấm rồi lụi vào mông lão già say một mũi thuốc.
Knopf ngất ngưởng ngoái nhìn lại rồi lả người vào cái tháp đen. Sức kháng cự không còn, lão bị khiêng vào nhà như một xác chết.
Georges hỏi Bruggemann :
- Sao quá vậy?
Bruggemann lắc đầu :
- Co biết gì đâu. Ông ta thắng cá khi đánh cuộc với một người ở Munster về hai thứ rượu. Họ bảo tôi làm trọng tài. Và khi anh chàng kia thua, móc bóp trả tiền thì mặt Knopf bỗng trắng nhợt rồi ông ta mửa thọc mửa tháo ra. Mửa xong ông ta kêu hú khiến cả quán hỗn loạn lên. Và ông biết chuyện gì xảy ra không? Thừa cơ hôi đó, thằng cha thua cuộc trốn mất, không trả một đông.
- Thật là kinh khủng!
Bruggeemann nhũn vai :
- Biết làm sao, đời mà!
- Đúng vậy, nhưng nếu ông bạn không muốn đời tàn thì nên tranh con hẻm Arquebusiers này. Bà Konersmann đang kiểm soát lưu thông với một cái đèn bấm và một chai bia tổ bố. Thử hỏi Lisa xem.
Lisa gật đầu :
- Chai rượu còn này. Nếu bị ném trúng đầu thế nào cũng bị cảm lạnh.
Bruggemann nhớn nhác :
- Chết cha! Làm sao về đây? Chỗ này là cùng đường rồi.
- Không sao. Ông bạn có thể băng qua khu vườn này rồi thoát ra đường, Bleibtreu. Mau đi, trời sắp sáng rồi.
Không kịp nói cám ơn Bruggemann chạy biến. Henri Kroll quan sát cái tháp xem có bị sức mẻ gì không rồi trở vào nhà. Wilke hất hàm về phía nhà lão Knopf vào khu vườn mà Bruggemann vừa chạy trốn, trong khi nói với giọng triết lý rẻ tiền :
- Loài người là thế đó.
Rồi hắn trở lên xưởng mộc để tiếp tục ngủ trong cái hòm của gã khổng lồ. Bà Kroll chợt nhớ là quên gắn hàm răng giả vội vàng chạy biến vào nhà. Kurt Bach ngắm nghía bờ vai tròn lẵn Lisa với tất cả sự thèm muốn nhưng cô ả vẫn lạnh lùng. Thất vọng, hắn bỏ đi.
Lisa bỗng hỏi :
- Lão Knopf chắc sụm luôn.
Georges trả lời :
- Chắc vậy. Chưa chết ngay là còn khá.
Ông thầy thuốc từ cửa nhà Knopf ra. Georges hỏi mau :
- Đỡ không?
- Nguy lắm. Gan hư từ lâu. Chín nhừ cả rồi. Một hoặc nhiều lắm là hai ngày nữa là vĩnh biệt!
Bà Knopf đi ra. Ông bác sĩ nghiêm mặt :
- Nhớ kỹ là chỉ một giọt rượu nữa thôi là hết cứu. Bà có lục trong phòng của ông ấy xem...
- Thưa, có coi kỹ rồi, bác sĩ. Tôi và mấy đứa nhỏ lục không chừa một chỗ. Bắt gặp được hai chai. Đây, bác sĩ xem.
Bà ta vừa nói vừa mở nút định trút rượu xuống đất. Tôi chòm tới :
- Khoan, bà Knopf! Điều cốt yếu là không cho ông Knopf uống rượu, phải vậy không, bác sĩ?
- Cố nhiên.
Mùi rượu thơm lừng trong không khí ẩm mát ban đêm. Tôi đề nghị :
- Nếu bà sợ để ở nhà không cấm nổi ông thì để chúng tôi đỡ lấy gánh nặng đó cho.
Bà Knopf thế mà thông minh. Bà trao cho hai chai rượu bọn tôi. Ông bác sĩ nhìn tôi. Trước khi ra về, ông ta không quên kết luận :
- Sự bất hạnh của người này là một điều may cho kẻ khác.
Bà Knopf quay vào, đóng cửa. Bên ngoài chỉ còn Georges, Lisa và tôi. Lisa lại lo ngại cho lão già say :
- Bác sĩ cũng nói lão ta sắp chết, phải không?
Georges gật đầu. Trong đêm tối, bộ đồ ngủ màu đỏ của y trông như đen lợt. Lisa rùng mình nhưng vẫn đứng yên một chỗ.
- Chào!
Tôi vừa nói vừa bỏ đi.
Từ cửa sổ trên gác, tôi nhìn thấy Konersmann qua lại trước nhà bà ta, chờ đợi Bruggemann. Tôi nghĩ tới lão Knopf và liên tưởng tới Isabelle.
Lúc cảm thấy mi mắt bắt đầu nằng nặng, tôi bỗng để ý đến bóng đèn trong sân. Người đàn bà góa dữ như con cọp cái đó đang đi săn con mồi Bruggemann. Trước mắt tôi là cái ống nước cũ gắn dài theo tường dùng để dọa lão Knopf. Tôi cảm thấy xấu hổ vì đã đùa dai với một người già nua. Nhưng ánh đèn bấm vẫn tiếp tục rọi qua rọi lại trên tường khiến tôi không dằn nổi. Kê miệng vào ống nước cũ tôi dùng giọng ma quái, gầm gừ :
- Kẻ nào dám quấy rối ta?
Bà Konersmann sửng sốt đứng phắt lại. Bà ta nhìn quanh và khi chẳng thấy một ai quanh đó, bà ta rón rén đi ra, ánh đèn bấm lướt dài trên ngõ hẻm và dừng lại trước một cánh cửa. Người đàn bà góa ác độc bỗng hức lên như mắc nghẹn. Rồi tất cả chìm vào đêm đen.
29.07.2014
21
Người dịch: Vũ Kim Thư
Nguồn: NXB Văn Nghệ TPHCM
Nội dung thu gọn
Tôi đã vận dụng tất cả mọi phương cách nhưng vẫn chưa thoát được lão Roth, một cựu nhân viên phát thư từng đem toàn những tin đau buồn tới khu phố chúng tôi trong thời chiến.
Trước năm 1914, mọi người đều vui vẻ khi thấy ông ta tới, nhưng từ khi thế chiến xảy ra, Roth bỗng trở thành bóng dáng của tai họa đối với nhiều gia đình. Cái túi da của ông ta đầy ngập những tin tức chẳng lành: lính gọi nhập ngũ, giấy cáo tri có mang hàng chữ “Hy sinh cho Tổ quốc”. Chiến tranh càng kéo dài, ông ta càng phát nhiều thơ từ loại đó. Roth tới đâu thì là y như có nước mắt rơi ở đó.
Rồi một hôm ông ta bỗng có bổn phận phát cho chính ông ta một trong những bức thơ định mệnh. Và không đầy một tuần sau ông ta nhận thêm một bức thư thứ hai cùng loại. Sức người có hạn. Roth không chịu nổi. Thế là ông ta bắt đầu loạn trí. Giới thẩm quyền Bưu điện buộc lòng cho ông ta về hưu. Và rồi cũng như bao nhiêu người khác, Roth bị nạn lạm phát lên án tử hình nhưng được phép chết từ từ vì đói khổ. Một số bạn bè giúp đỡ cho con người già nua đơn độc đó. Vài năm sau ông ta lại bắt đầu đi đó đi đây nhưng tâm trí vẫn cứ bất bình thường. Roth cứ tưởng mình là người đưa thơ nhưng chỉ muốn đem tới những tin lành, ông ta thường lượm lặt các bao thơ cũ và những bưu thiếp rồi tới từng nhà phân phối, bảo đó là thơ của những tù binh Đức còn sống ở Nga.
Ông ta bảo :
- Họ không chết đâu, họ chỉ bị bắt và không bao lâu nữa họ sẽ trở về đây.
Tôi nhìn tâm bưu thiếp của Roth vừa đưa, đó là một mẩu giấy in kêu gọi tất cả công dân tham gia vào cuộc xổ số của chế độ cũ. Thật là cả một sự khôi hài chua chát trong thời buổi lạm phát này.
Ông ta làm thế nào lượm được mảnh giấy này? Tôi cố làm ra vẻ thật vui :
- Cám ơn ông. Cám ơn nhiều lắm.
Roth gật gù :
- Họ sẽ từ Nga trở về. Không còn bao lâu nữa...
- Vâng, họ sắp trở về. Không thiếu mất một binh sĩ nào cả. Nhưng phải từ từ. Nước Nga ở quá xa.
- Vâng, hai người con của ông cũng sẽ trở về một lượt.
Mắt người điên sáng lên :
- Phải, phải. Chúng nó cũng về. Chúng nó đã báo tin cho tôi. Lúc này tất cả những thơ từ đều chứa toàn tin lành.
Người đưa thơ cười rồi lặng lẽ tiếp tục chuyển phát thơ tưỏrng tượng. Lúc đầu, nhà chức trách muốn nhốt ông ta lại nhưng gặp sự phản đối mãnh liệt từ mọi giới, họ đành để ông sống tự do.
Một vài tên lưu manh mới đây nảy ra ý nghĩ, nhờ sự trung gian của Roth, gởi tới các nhà chính trị đối nghịch những bức thư hăm dọa. Có kẻ còn lợi dụng lão già mất trí này gởi những lời lẽ thô bỉ hoặc gạ gẫm đến những quả phụ còn xuân.
Nhưng rồi một số lầm lẫn đã xảy ra. Roth thường đưa lộn thư của người này cho người kia. Chính vì vậy mà có một bức thơ gởi cho Lisa được trao tận tay tu viện trưởng Bodendick đề nghị một cuộc găp gỡ lén lút lúc một giờ đêm với giá mười triệu Đức kim.
Cửa nhà lão Knopf mở toang. Tiếng máy may kêu rào rào. Từ sáng sớm, người ta đã mang tới một xấp vải đen để may tang phục. Lão Thượng sĩ vẫn còn thoi thóp nhưng theo lời bác sĩ thì kể như lão đã chết.
Biết chắc chắn là chồng sắp chết, bà Knopf không thể ngồi đợi tử thần mà không chuẩn bị lễ tiễn đưa cho chu đáo: mạng che mặt đen cho góa phụ, nón và vớ đen cho cả bốn mẹ con. Phải chuẩn bị một tang lễ lớn vì dù sao họ cũng là hạng một thời thuộc giởi trung lưu.
Georges nhô cái đầu sói bóng vào. Cùng đi với y là Oscar “mắt treo cờ tang”. Vừa thấy họ, tôi hỏi ngay :
- Đô-la lên tới bao nhiêu?
Georges hờ hững đáp :
- Chẳn chòi một tỷ hồi trưa nay. Mình có thể ăn mừng dưới hình thức lễ đại xá ngũ thập chu niên, nếu muốn.
- Tại sao không! Và chừng nào sạt nghiệp?
- Tới lúc sập tiệm. Uống gì, bạn Fuchs?
Oscar hững hờ :
- Gì cũng được. Tiếc là ở Wenderbruck này không có Vodka.
- Rượu Vodka? Bạn đã từng đánh giặc trên đất Nga?
- Chớ sao. Chỉ huy cả một nghĩa trang chớ phải bỏ đâu! Đúng là thời kỳ vàng son!
Tôi không giấu được ngạc nhiên :
- Thời kỳ vàng son? Một người nhạy cảm, có thể khóc được bất cứ lúc nào như bạn mà lại bỏ thế à?
- Chớ sao, cậu bé. Thực phẩm dư dả, rượu loại nào cũng có, công việc nhẹ nhàng, ở cách mặt trận thật xa, còn muốn gì hơn? Con người rồi cũng quen với sự chết chóc như với bệnh hay lây.
Hắn nhấp ly rượu của Georges vừa rót ra với điệu bộ của một tay chơi sành sõi.
- Một lần, lúc còn ở Nga, người ta loan báo là Đức Hoàng đế sắp thị sát vùng của ta chiếm đóng. Ồ, thật là cả một sự xáo trộn. Cũng may là gần đó còn có hai nghĩa địa khác để trao đổi.
Georges nhíu mày :
- Đổi cái gì? Mộ bia hay vòng hoa?
- Không, mấy đồ trang trí nghĩa địa đều luôn luôn thừa thải. Tôi nói đây là trao đổi xác chết.
- Giỡn à?
- Không đùa đâu, đổi xác chết đàng hoàng. Không phải xác chết nào cũng có giá trị của một xác chết đâu. Bộ binh thì nghĩa địa nào cũng có hàng khối. Hạ sĩ, thượng sĩ, trung sĩ, thiếu úy, trung úy... nhiều vô số kể. Nhưng muốn tìm những cấp lớn hơn thì không phải dễ. Người bạn chỉ huy nghĩa địa gần chỗ tôi có tới ba cái xác tiểu đoàn trưởng trong khi tôi chẳng có một cái nào, thí dụ vậy. Nhưng bên tôi thì có tới hai cái xác trung tá và một cái xác đại tá. Tôi đổi cho anh ta một cái xác đại tá để lấy hai cái xác tiểu đoàn trưởng. Thế là hắn phải trả cho tôi một con ngỗng thật béo. Nếu có thể, hắn sẵn sàng bán cả em gái hắn để lấy một cái xác trung tá. Trình diễn trước Đức Vua mà trong nghĩa địa không có lấy một cái xác trung tá thì còn thể thống gì?
Georges đưa bàn tay che mắt :
- Chỉ nghĩ tới cũng đủ ớn lạnh.
Oscar nhướng mày và đốt một điếu thuốc xì-gà :
- Bây giờ tới chuyện anh chàng coi sóc nghĩa địa thứ ba. Cái khó của hắn gần như chẳng có một sĩ quan nào coi được, không có tới một ông thiếu tá, chỉ toàn là thiếu úy, trung úy... linh tinh. Hắn hận đời vô kể. Tôi đưa cho hắn một trong hai ông tiểu đoàn trưởng vừa đổ được để lấy về hai ông đại úy và một thượng sĩ tác chiến. Quý vị thấy chưa, lúc nào tôi cũng được việc với bạn bè. Đai úy thì tôi có hàng lô. Nhờ vậy mà tôi có được ba con ngựa rằn để trưng bày trong khu đất chết cho thêm phần long trọng.
- Còn mấy ông tướng?
Oscar nheo mắt với tôi :
- Tướng hả. Louis? Một ông tướng không phải là chuyên đùa, một ông tướng chết ở mặt trận lại càng hiếm có như...
Hắn cố tìm một so sánh trong lúc hỏi chúng tôi :
- Quý vị có nuôi loại côn trùng bốn cánh không?
Chúng tôi đồng thanh trả lời không. Hắn hỏi ngay :
- Uổng quá. Phải bảo là hiếm có như con diều giấy của Lucanus Cervris hay là như loại sư tử đầu đàn bà. Nếu không như vậy thì làm gì có chiến tranh, phải không? Ông đại tá của tôi là chết ở hậu tuyến vì bội thực sau một bữa tiệc chớ đâu phải ở mặt trận, ông đại tá đó...
Oscar nhăn mặt. Hắn không nói về đại tá đó nữa.
- Hắn muốn tôi đổi thêm một sĩ quan tham mưu và cho biết sẵn sàng để tôi lấy bất cứ món gì, nhưng bộ sưu tập của tôi đã đầy đủ, tôi không muốn làm sứt mẻ. Cuối cùng hắn ra giá ba mươi sáu chai vodka, tôi đành chìu lòng hắn... dành đổi ông đại tá. Ba mươi sáu chai vodka! Không phải đồ bỏ! Bây giờ tìm không ra một chai!
Tuy thế, hắn vẫn vui lòng uống ly rượu mạnh thứ hai. Georges lò mò :
- Việc gì phải rắc rối với mấy cái xác chết? Đổi tới đổi lui, lôi thôi quá. Ở địa vị bạn, tôi chỉ cặm một vài cây thánh giá với tên tuổi và cấp bậc tưởng tượng... Làm như vậy mình có thế có cả một ông tướng, nếu muốn.
Oscar nhăn mặt bất mãn :
- Ồ, ông Kroll! Làm như thế là giả mạo, không đúng tinh thần nghề nghiệp, vả lại, đến lúc bị tiết lộ thì sao. Bọn đào huyện đâu phải vừa. Giả mạo... một ông tướng. Hừm, chắc chắn là Đức Hoàng đế thuộc lòng tên tuổi các tướng lãnh của ngài. Truyện "Bia Mộ Đen Và Bầy Diều Hâu Gãy Cánh " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Đề tài đã gần cạn nhưng Oscar vẫn cố vớt vát :
- Quý vị có biết chỗ cốt yếu của câu chuyện là gì không?
Chúng tôi ngồi im. Đó cũng là cách tỏ ra không hiểu. Oscar chặc lưỡi :
- Đức vua không tới. Tất cả đều phải dẹp bỏ. Tôi đã cho trồng cấp tốc một vườn hoa. Thật tiếc...
Rồi hắn mơ màng như tiếc nuối một thời oanh liệt :
- Quả là một thời kỳ vàng son. Hàng vạn nấm mồ nằm trong khu đất của tôi. Ngày nay - Hắn rút ra một mảnh giấy từ túi áo - Chỉ có hai tấm bia loại trung bình. Xin giao ông.
Tôi đi thơ thẩn trong khu vườn bệnh viện. Lần đầu tiên, đêm nay. Isabelle chịu dự thánh lễ. Hết giờ, tôi đi tìm mãi nhưng chẳng thấy nàng đâu cả. Lá cây đập mạnh vào nhau như tiếng vỗ cánh của loài dơi. Đâu đâu cũng có mùi đất và hương vị mùa Thu. Mùa Hè đâu rồi?
Wernicke ngồi trong phòng riêng. Vừa dùng lưng bàn tay đẩy chồng hồ sơ bệnh lý sang một bên, ông ta vừa hỏi tôi :
- Có gặp cô Terhoven không?
- Có, trong nhà thờ. Ở ngoài không thấy đâu cả.
Wernicke gật đầu :
- Kể từ nay, cậu khỏi phải lo cho cơ ấy nữa.
- Đồng ý! Còn chỉ thị nào khác nữa không?
- Đừng vờ vĩnh thế. Tôi không hề ra lệnh mà chỉ làm bổn phận của bác sĩ với bệnh nhân.
Và nhìn tôi chăm chú, ông nói tiếp :
- Có si tình tì chút nào chưa?
- Si tình? Si ai?
- Cô Terhoven chớ ai! Cũng đẹp đó chớ! A, hư rồi! Tôi quên nghĩ tới chuyện đó.
- Tôi cũng thế.
Ông ta cười :
- Vậy là tốt. Cậu không bị thiệt hại gì cả.
- Thật sao? Từ trước tới nay tôi ngỡ chỉ có ông Bodendick là đại diện Thượng đế, bây giờ lại có thêm một vị nữa. Bác sĩ có biết chính xác cái gì làm hại và cái gì chằng làm hại không?
- Dẹp chuyện đó đi. Dầu sao tôi cũng có quyền. Rất tiếc là tôi không có thì giờ để tranh luận. Tuy thế, cũng nên hút với tôi một điều thuốc xì-gà. Cậu có để ý là đã sang Thu rồi không?
- Có. Và chúng ta đồng ý trên điểm đó.
Wernicke đưa hộp xì-gà tới. Tôi lấy một điếu để khỏi phải bị cho là kẻ si tình nếu từ chối. Thình lình tôi cảm thấy thê thảm đến buồn nôn. Tuy nhiên, tôi vẫn cố đốt điếu thuốc.
Wernicke nhìn khói thuốc :
- Tưởng cũng cần nói rõ cho cậu biết. Bà mẹ cô ấy! Tôi phải mất luôn hai đêm để dẫn dụ bà ta. Cuối cùng bà ta nói toạc ra. Chồng chết sớm, trẻ và đẹp, nuôi một bạn trai trong nhà, cô con phát điên lên... đó là trường hợp đáng nói. Bà ta và người bạn trai không giữ gìn ý tứ, đứa con gái bắt gặp quả tang, có lẽ cô ta đã theo dõi từ lâu... Cậu hiểu chưa? Truyện "Bia Mộ Đen Và Bầy Diều Hâu Gãy Cánh " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
- Chưa!
Tất cả sự thể càng khiến tôi buồn nôn hơn điếu xì-gà loại xấu của Wernicke :
- Chuyện xảy ra là như vậy. Oán hận bà mẹ, ghê tởm, mặc cảm trốn lánh trong sự nhị trùng hóa nhân cách, trường hợp điển hình! Sau đó bà mẹ và người bạn kia kết hôn, cơn khủng hoảng nổ bùng... và bây giờ, cậu hiểu chưa?
- Chưa!
Wernicke hơi sốt ruột :
- Giản dị lắm. Sự khó khăn đã đi tới cái gút của vấn đề. Và lần này - Ông ta xoa tay - chúng ta may mắn hơn nhân vật thứ hai, người bạn cũ trong nhà Ralph hay Rodopf, một cái tên như thế không còn ở đó nữa để quấy rày chúng ta. Ly dị cách nay ba tháng, chết cách đây mười lăm hôm, tai nạn xe hơi. Nguyên nhân bị hủy diệt thế là con đường mở rộng. Nói như thế chắc đã quá đủ để cậu nắm toàn diện vấn đề?
- Hiểu rồi!
Vừa trả lời tôi vừa có ý nghĩ xẻ cổ họng con người thông thái vui tính này ra để nhét vào đó một cuộn băng tẩm thuốc mê.
- Cậu thấy chưa, hiện thời chúng ta đã phăng tới đầu mối. Chỉ trong đầu hôm sớm mai, bà mẹ không còn là kẻ kình địch nữa. Tôi đã phải làm việc suốt tuần để chuẩn bị một cuộc găp gỡ giữa hai me con và tất cả đều diễn ra hoàn toàn tốt đẹp. Cậu đã thấy cô Terhoven trở lại dự thánh lễ lúc nãy rồi.
- Khoan, ông lại đóng vai trò của Bodendick rồi à? Với một kẻ vô thần...
- Đừng giả bộ ngu! Vấn đề không phải ở chỗ đó. Tôi muốn nói là cô ấy đã có phần tỉnh táo, dễ giao tiếp hơn. Cậu không nhận ra điều đó trong lần gặp gỡ cuối cùng sao?
- Cậu thấy không - Wernicke lại xoa tay - Sau cơn xúc động mạnh đâu tiên, kết quả đã có phần mỹ mãn.
- Và cơn xúc động đó cũng nằm trong phần trị liệu?
- Chớ sao.
Tôi nghĩ tới Isabelle đang nằm trong phòng :
- Bác sĩ giỏi quá!
Wernicke vẫn chìm mình trong thành quả vừa đạt được nên không để ý tới giọng châm biếm của tôi.
- Một cuộc tiếp xúc ngắn ngủi cộng thêm phương pháp chữa trị của tôi là mọi việc đều êm xuôi. Nhưng đó là chuyện dự đoán... và tôi đang đặt nhiều hy vọng. Cậu hiểu là tôi không có uy quyền để cho bất cứ gì ngăn trở hay làm chậm trễ diễn tiến bình thường.
- Nói cách khác, tôi không được...
Wernicke gật đầu :
- Tôi biết là cậu hiểu rõ như thế. Cậu có một chút tò mò của nhà thông thái. Cậu đã giúp ích chúng tôi quá lâu nhưng bây giờ... Ũa! Chuyện gì vậy?
- Điếu xì-gà. Mạnh quá!
- Không phải đâu. Loại xì-gà Ba Tây này có tiếng là nhẹ nhất trong các loại thuốc lá khác mà.
- Có thể như vậy.
Tôi dụi mẩu xì-gà còn lại vào cái gạt tàn. Wernicke lại tiếp tục nói một cách say mê :
- Bộ óc con người... Trước kia tôi muốn được làm thủy thủ, một tay phiêu lưu, một nhà thám hiểm rừng già. Buôn cười không! Bây giờ tôi mới biết bộ óc con người mới đáng là nơi được thám hiểm - Ông ta vỗ trán - dường như tôi đã có dịp nói với cậu những chuyện đó phải không?
- Đúng rồi, không cần nhắc lại nữa!
Lá khô dập nát dưới bước chân. Mình là kẻ si tình chị Nguyệt! Dính vào những chuyện rắc rối của nhà tâm bệnh học quèn đó làm gì? Với những người cùng loại ông ta, tất cả đều giản dị.
Tôi đi thẳng ra cổng và suýt đụng phải một người đàn bà đi ngược lại. Bà ta mặc áo choàng lông, không phải là người của viên. Trời tối nhưng tôi vẫn thấy được một khuôn mặt xanh mét, buồn phiền. Bà ta đi qua còn để lại phía sau một ít mùi nước hoa.
Tôi hỏi người gác cổng :
- Ai vậy?
- Không biết. Bà ta tới gặp bác sĩ Wernicke. Đã tới đây mấy lần rồi. Dường như đi thăm một người bệnh
nào đó.
A! A! Đúng là mẹ của Terhoven. Ra tới ngoài, tôi nhìn ngoái lại. Tôi giận sôi lên, vừa hận vừa tức là đã tự biến thành lố bịch thương hại cho chính mình... và cuối cùng là cảm nghĩ trống không và bất lực.
Tựa người vào cây dẻ, tôi cảm nhận sự tươi mát của vỏ cây. Tôi không còn biết mình muốn gì và đang ở đâu.
Một lúc sau, tôi tiếp tục đi và lần lần bình tĩnh lại. Cứ để cho họ nói, Isabelle, cứ để cho họ nhạo báng chúng mình. Isabelle em là một cuộc sống bé nhỏ quý mến của tôi, Isabelle nhẹ nhàng và thanh thoát, em dám đi vào những nơi mà loài người tới đó sẽ mất thăng bằng, em bay bổng trong khi họ trợt chúi và tiến tới những biên giới mà họ không thể ngờ... bây giờ họ muốn làm gì em? Tại sao họ phải vận dụng toàn lực để kéo lôi em trở về thế giới của họ thay vì cứ để em sống ở đó thoát khỏi mọi hệ lụy, vượt trên thời gian và cõi chết? Hay là Wernicke đã nói đúng, ông ta muốn cứu em ra khỏi những sự sợ hãi không tên đang lần lần đưa em vào vực thẳm u mê? Ông ta thật sự có được khả năng đó hay không? Hay lại làm cho em rơi mau hơn vào vực thẳm? Nhà sưu tầm bươm bướm đó có hiểu được những nguy cơ và những phút thoát trần của cuộc sống bất chấp thời gian và không gian? Ông ta đã uống mặt trăng chưa? Đã biết là cây cỏ kêu khóc chưa? Tất cả những điều đó với ông ta chỉ là một sự lệch lạc gây ra bởi những va chạm mạnh của tri giác, ông ta là nhà tiên tri, hay Thượng đế, để biết được những gì sẽ xảy ra một cách tất nhiên? Truyện "Bia Mộ Đen Và Bầy Diều Hâu Gãy Cánh " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Tôi dừng lại. Thế là, nếu được chữa khỏi, nàng sẽ ra đi! Mẹ nàng, mặc áo choàng lông, phảng phất mùi nước hoa, sẽ can thiệp... Đối với tôi, Isabelle thế là không còn nữa...
Tôi vào một quán cóc. Vài người tài xế đang ngồi ở trong cùng. Một tấm gương méo mó phản chiếu khuôn mặt đờ đẫn của tôi. Phía trước nằm trong tủ kính là khoảng nửa chục ổ bánh nhỏ dồn cá mòi, đuôi cá vểnh lên.
Ly rượu mạnh đầu tiên khiến tôi có cảm tưởng dạ dầy thủng lỗ. Tôi ăn ngấu nghiến một hơi mấy ổ bánh và gọi thêm một miếng phô-mai. Tất cả những món ăn đó đều khó ngửi nhưng tôi vẫn nuốt như điên. Tôi lại kêu thêm một dĩa dồi đỏ hỏn tưởng chừng như chúng có thể hí bất cứ lúc nào. Càng ăn tôi cảm thấy rõ sự đau xót và cơn đói cào của ruột.
Người chủ quản nhìn tôi :
- Bạn nhỏ ăn coi ngon lành quá!
- Đói lắm. Còn gì ăn nữa không?
- Còn xúp đậu. Đặc sệt nếu bạn cho thêm bánh mì vào.
- Tuyệt! Cho xúp ra đây.
Món xúp đậu biến mất trong nháy mắt. Chủ quán đem thêm ra một lát bánh mì quết mỡ heo, món này không tính tiền. Tôi lại nuốt chửng! Nhưng vẫn cứ đau khổ và đói cồn cào.
Mấy người tài xế bắt đầu chú ý đến trạng thái lạ thường của tôi. Một người lên tiếng :
- Tôi biết có một thằng cha ăn luôn một hơi ba chục cái trứng luộc.
- Không có đâu. Ăn như vậy là chết ngay. Khoa học đã chứng minh.
Tôi nhìn anh chàng thích làm bạn với khoa học :
- Anh có thấy ai chết như vậy chưa?
- Thấy chớ.
- Không chắc đâu. Có điều khoa hoc chứng minh rất rõ mà ông bạn không để ý là những người lái xe đều chết yểu.
- Sao vậy?
- Hơi xăng chớ còn sao. Nhiễm độc từ từ.
Chủ quán lại xuất hiện với một dĩa xà-lách trộn theo kiểu Ý. Giờ này, ông ta tìm đâu ra xà-lách tươi? Lại có cả sốt dầu trứng. Bí mật! Hay là ông ta đã lấy bớt một ít trong bữa ăn tối để chia cho tôi? Mặc! Tôi cứ tống hết vào rồi cáo từ. Ruột nóng như lửa nhưng không hiểu sao tôi vẫn có cảm tưởng là nó trống không như chiêc thùng không đáy của các cô Danaides <1>.
Đường phố tối ám, rải rác những người ăn xin. Đây không phải là những người hành khất trước kia mà là những người què cụt vì chiến tranh, những kẻ thất nghiệp và những người già cả không ai nuôi dưỡng giữa thời buổi lạm phát gia tăng.
Cảnh tượng trước mắt khiến tôi xấu hổ khi nghĩ tới mình vừa ăn xong một bữa quá no, quá đầy đủ. Nếu tôi chia phần ăn lúc nãy cho vài ba người trong những kẻ khổ sở này chắc chắn họ sẽ được một bữa ăn sang trọng. Tôi lấy tất cả tiền còn lại trong túi và phân phát. Ít quá. Sáng mai vào lúc 10 giờ khoản tiền đó lại mất giá thêm một phần tư. Mùa Thu năm nay, đồng Đức kim đã bị phá giá gấp mười lần hơn. Tất cả những người ăn xin đều biết vậy nên sau khi nhận tiền họ chạy bến đi, bởi một phút là một de dọa. Trong vòng một tiếng đồng hồ, giá của một dĩa xúp có thể lên tới vài triệu Đúc. Đó là tùy theo chủ quán mua đồ sớm hay trễ.
Tôi tiếp tục đi. Từ trong bệnh viện một vài người đi ra cùng một người đàn bà băng bột ở cánh tay phải.
Bệnh viện đứng sừng sững như một tòa thành chiếu sáng trong bóng tối. Hầu hết các cửa sổ đều sáng choang, dường như phòng nào cũng đầy nghẹt bệnh nhân. Giữa thời buổi lạm phát con người chết rất mau. Không ai biết rõ hơn chúng tôi, những người chuyên bán mộ bia.
Ra đường lớn, tôi đi thẳng tới một hiệu tạp hóa thường mở cửa rất khuya. Chúng tôi đã có thỏa ước riêng với bà chủ tiệm. Lúc chồng bà ta chết, chúng tôi đã giao tới một mộ bia loại bình thường và giao ước với giá 6 Mỹ kim đổi lấy hàng hóa. Đó là lối mậu dịch thông thường trong vùng của chúng tôi, người ta có thể đổi những đồ bằng sành để lấy dồi chả, nữ trang; để lấy khoai tây, bàn ghế; để lấy bánh mì, dương cầm; để lấy thịt đùi, lưỡi dao cạo; để lấy rau cải...
Tháng vừa rồi, Georges suýt đổi được một tấm bia cẩm thạch để đổi lấy một cái áo đuôi tôm gần như mới tinh. Tuy nhiên, cuối cùng Georges đành từ khước vì quá tin dị đoan: đó là cái áo của một người đã chết. Người đàn bà góa cho biết, cái áo đó được nhuộm lại rồi và như vậy là kể như còn mới. Theo người thợ nhuộm thì hơi clor đã tống hơi hướm của người chết ra khỏi các nếp áo và các đường may. Georges tiếc quá vì cái áo rất vừa với y.
Tôi nắm chốt cánh cửa. Đã bị khóa mất rồi. Chán nản, tôi nhìn qua những món hàng bày trong tủ kính rồi lững thững trở về nhà.
Trong sân, các tấm bia bằng sa thạch, chưa khắc tên, giăng hàng ngang như chắn lối đi. Kurt Bach vừa làm ra chúng vừa nguyền rủa sự phản bội nghề nghiệp và tài năng của chính hắn. Mấy lúc sau này, hắn ít có dịp đẻo đá để tạc thành những con chim ưng buồn rũ hoặc những tháp tưởng niệm xứng đáng. Chẳng còn gì để làm, hắn đành gọt đẻo những tấm bia rẻ tiền bất cứ lúc nào cũng có chỗ bán, nhứt là vào mùa Thu khi có gió thổi mạnh cũng như vào những ngày đầu xuân.
Mấy chiếc máy may trong nhà lão Knopf vẫn chưa ngưng nghỉ. Xuyên qua cửa kính, ánh đèn từ phòng ăn lão cho thấy họ vẫn còn may tang phục, cửa sổ phòng riêng của lão không có ánh đèn. Có lẽ lão đã chết. Tôi chợt nghĩ, nếu đúng thế, chúng tôi nên đặt cái tháp đen chĩa chóp nhọn lên trời ở mồ của lão. Đõi với lão, cái tháp huyền bí đó cũng như một quê hương thứ hai. Khối đá hoa cương già nua đó đã làm chán nản luôn cả hai thế hệ của dòng họ Kroll.
- Vào đi!
Georges đã nghe tiếng bước chân tôi từ trên gác xuống. Tôi xô cửa và dừng sững lại. Như thường lệ. Georges ngồi ở ghế dựa, quanh y là những tạp chí hình ảnh. Hội đoàn tuyển chọn sách báo ngoại quốc mà Georges đã đóng tiền mua dài hạn vừa gởi tới những tuần sau đó.
Nhưng đó không phải là chuyện làm tôi ngạc nhiên. Vấn đề là y mạc áo đuôi tôm, sơ-mi thẳng nếp và áo cánh trắng, giống y như bức họa của tờ báo Độc thân. Tôi hỏi dò :
- Vậy là nhượng bộ rồi phải không? Cái áo của chồng người đàn bà góa chớ gì?
- Không đâu! - Georges vươn vai thỏa mãn - Cái áo mà chú thấy đấy chứng tỏ là nữ giới luôn luôn vượt chúng mình về lãnh vực khéo léo. Người đàn bà đó đã đem chiếc áo của ông chồng chết đến một tiệm may đổi lấy cái áo này. Làm như vậy là không chạm đến sự tế nhị của tôi. Cái kia lót bằng sa tanh còn cái này thì lót một lớp lụa đôi. Lại vừa vặn cả tay áo và vẫn một giá.
Tôi ngắm Georges. Cái áo còn tốt, chắc chắn không hoàn toàn mới, có lẽ cũng là của một người nào đã chết. Nhưng thấy Georges quá hài lòng, tôi không muốn làm y mất vui. Vả lại, tất cả những gì chúng ta đang có không phải là của những người đã chết để lại hay sao? Ngôn ngữ, tập quán, kiến thức, thất vọng và còn gì nữa? Hơn thế, trong suốt cuộc chiến, Georges đã chẳng lừng mặc quần áo của những người đã chết hay sao? Năm sau cùng cuộc chiến, chúng tôi đã phải mặc những bộ quân phục còn vấy máu hoặc bị thủng vì vết đạn. Như vậy, bây giờ mặc y phục vẫn còn tươm tất của người chết chẳng phải là đã hơn nhiều sao? Tuy thế, đối với Georges, biểu trưng cho hòa bình là không bao giờ mặc đồ của những người đã chết.
- Các ngôi sao màn bạc bây giờ có thay đổi gì không? Henry Porten, Erna Morena và Lisa de Putti?
Georges ngước mắt :
- Họ cũng có những phiền muộn giống mình. Chạy trốn vào những của cải nổi: xe hơi, áo lông, vương miện, chó đẹp, nhà to, cổ phân đầu tư và sản xuát phim ảnh... có điều là họ tạo được những thứ đó dễ hơn mình.
Y khoan khoái ngắm một bức ảnh chụp cảnh tiếp tân ở Hollywood. Một cuộc khiêu vũ trong một không khí sang trọng không thể tả. Bọn đàn ông đều ăn mặc như Georges hoặc lễ phục.
- Chừng nào anh sắm lễ phục?
- Sau khi được khiêu vũ một lần với áo đuôi tôm. Muốn sắm phải tới Bá Linh. Ba ngày. Và khi nào nạn lạm phát đã kiệt sức và tiền bạc không luôn ra khỏi ngón tay như cát . Trong khi chờ đợi đành bằng lòng với hiện tại.
- Anh còn thiếu giầy nhảy.
Georges lấy đồng vàng 20 Đức kim ra, tung lên không bắt lấy và nhét lại vào túi áo, không nói một lời. Tôi thèm muốn được là con người của y. Y ngồi đó, mặt phớt lạnh điếu xì-gà thò đầu ra túi áo, bên kia đường là Lisa luôn say mê y, bởi gia đình Kroll có cả một xưởng thợ trong khi cha của ả chỉ là một nhân viên công nhựt.
Từ lúc bé, Lisa lúc nào cũng ngẩn người mỗi khi nhìn thấy Georges ra đường với cổ áo trắng toát, mũ thủy binh trên đầu trong khi cô nàng mặc váy cũ do mẹ sửa lại cho vừa. Và con bé hàng xóm tiếp tục ngẩn người trước sự hiện diện của gã con trai hàng xóm giàu sang. Georges khõi cần nhích động ngón tay cũng đã chinh phục được một trái tim lúc còn non. Theo tôi chắc không ngờ Lisa thấy người yêu hói đầu. Đối với ả, Georges vẫn cứ là “hoàng tử của lòng em”.
Georges lấy một hộp cá con rồi chỉ nửa ổ bánh mì và một miếng bơ :
- Chú nghĩ sao? Một bữa lót dạ ngoại lệ để nói chuyện triết lý về một thành phố nhỏ sau khi mặt trời lặn, có nên không?
- Chán lắm. Tại sao đã sang trọng thế này lại chẳng đến nhà hàng cũ Hohenzollern hay nay là “Triều đình” để ăn tối. Trứng cá caviar và trái cây miền biển.
- Tôi chỉ thích những tương phản. Nếu không thì tội gì lại phải làm một tên bán mộ bia trong một thị trấn nhỏ giữa giấc mộng hải hồ.
Georges đứng sừng sững bên cửa sổ với tất cả màu sắc huy hoàng. Bên kia đường vẳng sang một tiếng rú thán phục. Georges quay cả thân trước ra ngoài, hai tay cho vào túi quần để làm nổi bật chiếc áo gillet trắng. Lisa cuồng nhiệt lên. Ả quấn sát chiếc kimono vào người, ưỡn ẹo vài bước nhảy Ả Rập, và thình lình để khỏa thân thành bóng mờ trước ánh đèn, choàng chiếc kimono vào, dời ngọn đèn sang một bên và tái hiện với thân hình nóng hổi và nụ cười ngon mát. Georges bình thản theo dõi vũ điệu chào mừng như một lãnh chúa Thổ Nhĩ Kỳ và tôi đứng đó nhưng một hoạn quan trong cung điện.
Đối với Lisa, chiếc áo đuôi tôm không phải là vật lạ vì ả đã từng chạm tay chạm chân chẳng biết bao nhiêu người mặc áo đó trên sàn nhảy Moulin Rouge. Tuy nhiên, một khi chiếc áo đó nằm trên người Georges thì sự việc khác hẳn. Như vàng khối.
- Anh thật là có phước. Rồi đây thế nào Riesefield cũng khô cạn cả xương tủy và sẽ sạt nghiệp. Nhiều lắm là hắn chỉ thành công được một phần tư với bao nhiêu gian khổ đó, còn anh thì chỉ cần làm một hình nộm cũng đủ chiến thắng trăm phần trăm.
Georges có vẻ nhìn nhận :
- Đó là bí quyết và tôi tiết lộ cho chú nghe đây. Đừng bao giờ phức tạp hóa những gì có thể thực hiện một cách đơn giản. Đó là tư tường khôn ngoan nhất trong cuộc sống. Nhưng không mấy dễ dàng khi thực hành, nhứt là với những người trí thức và lãng mạn.
- Và sau nữa?
- Chỉ có vậy thôi. Đừng bao giờ chơi trò lực sĩ của tinh thần khi mà một cái quần mới cũng có thể gặt hái được hiệu quả tương tự. Như vậy chú sẽ không làm phiền người bạn đồng hành và y sẽ theo chú một cách dễ dàng. Chú cứ bình tĩnh, thản nhiên như là những con sơn ca, tôi nói theo nghĩa bóng, sẽ rơi thẳng vào miệng - tất cả đều đã được quay chín.
- Coi chừng dính mỡ lên ve áo, khô cá con hôi lắm.
- Chú nói có lý - Georges cới áo ra - Đừng bao giờ cố đuổi bắt hạnh phúc. Đó là lời khuyên thứ hai.
Georges tiếp tục nhấm những con cá khô. Tôi hơi bực :
- Tại sao anh không làm một loạt lời hay ý lạ cho các hãng sản xuất du lịch. Đáng tiếc là những tư tưởng đó lại quá tầm thường đối với giới trí thức.
- Đừng có mồm mép. Tôi tặng không cho chú. Đối với tôi đó không phải là những ý nghĩ lạt lẽo mà là những sinh tố. Bất cứ ai ưa sầu muộn hay làm cái nghề chán phèo của tôi đều cần phải vui sống. Không cần phân biệt tánh chất của cuộc giải trí... Châm ngôn thứ ba.
Tôi nhận thấy không thể nào hơn nổi Georges nên ngay khi hộp cá khô vừa sạch nhẵn, tôi trở lên phòng. Tôi định trút cả bực bội vào tiếng dương cầm, nhưng khốn nỗi cái chết hay cơn hấp hối của lão Knopf đã không cho phép tôi đàn. Còn loại nhạc đưa ma, tôi đã nghe ngập cả tai đến không còn đủ can đảm để đánh lên.
-------------------------------------------
<1> Danaidea: Tên của 50 cô gái con Danaos, đêm tân hôn đã giết tất cả, trừ chồng họ ra. Các cô bị đày xuống địa ngục, bị phạt đổ nước cho đầy một cái thùng không đáy.