Phần VI - Chương 4
TÔI THỬ ĐO TỬU LƯỢNG CỦA NGƯỜI
Dịch giả: Thái Nguyễn Bạch Liên
Nguồn: NXB Cà Mau
Nội dung thu gọn
Thủ tướng của chúng tôi sinh trưởng từ vùng đất thấm đượm nền văn hóa Thiệu Hưng, văn hóa sư gia, cũng là nơi sản xuất loại rượu ngon có tiếng - Thiệu Hưng hoàng tửu, vì thế mà ông biết uống rượu hay do câu “nam vô tửu như kỳ vô phong” răn dạy, điều đó tôi không dám khẳng định, song những câu chuyện về Chu Ân Lai và rượu thì rất nhiều, có thể viết thành một cuốn sách khá dày và luôn luôn liên quan đến hai chữ “Mao Đài”. Hồng quân chúng tôi thường nói đùa, hồi Vạn lí trường chinh, khi qua Quý Châu chiếm được trấn Mao Đài, lính tráng đã uống cạn tất cả mọi vò rượu ở đây, dần dần tạo nên điển tích “uống hết rượu Mao Đài”. Kỳ thực chất lượng rượu Ngũ Lương hơn hẳn Mao Đài, nhưng vì Hồng quân và Chu Thủ tướng không uống loại rượu này, mất đi hai điểm đó, Ngũ Lương đành nhường ngôi mỹ tửu cho Mao Đài.
Chuyện vui cuối cùng vẫn là chuyện vui, nhưng Mao Đài quả đã thành danh trên thế giới và gắn bó với Thủ tướng của chúng tôi, và hồi ấy lúc qua trấn Mao Đài trong cuộc Vạn lí trường chinh, Thủ tướng dùng loại cốc đong được một lượng, uống liền 25 cốc Mao Đài tửu, ông nói với tôi như vậy, sau này nhiều lần kiểm nghiệm tôi thấy đúng.
Vậy xin được kể tiếp câu chuyện tửu lượng của Thủ tướng.
Năm 1940, tôi đảm nhiệm công việc cảnh vệ cùng Chu Ân Lai từ Diên An về Trùng Khánh để dự đàm phán với Quốc dân đảng. Trên đường đi, chúng tôi gặp không biết bao nhiêu là sĩ quan của Quốc dân đảng, sư trưởng, quân đoàn trưởng, Tư lệnh v.v... họ đều tốt nghiệp ở trường quân sự Hoàng Phố, từng là học sinh của Chu Ân Lai, thầy trò cửu biệt trùng phùng, thiết rượu chào mừng, vừa để ôn cố, vừa để thầy giáo cũ của mình tẩy trần sau mỗi chặng đường là đương nhiên và không thể từ chối. Là cảnh vệ cho Thủ tướng, tôi không dám vắng mặt trong tất cả các buổi tiệc và nhận thấy chưa một cậu học trò nào địch nổi tửu lượng của thầy, nhưng tửu lượng bao nhiêu thì vẫn đo không được, có lẽ khoảng 1 cân, ít ra cũng 8 lượng, tôi nhẩm đoán.
Mùa thu năm 1945, cuộc đàm phán Quốc - Cộng nâng lên cấp thượng đỉnh Tưởng - Mao. Khi Mao Trạch Đông vừa đến Trùng Khánh thì 8 giờ tối hôm ấy Tưởng Giói Thạch đã mở tiệc khoản đãi ở dinh quan Lâm Viên, đàm phán bắt đầu từ những cốc rượu. Tiếp sau đó là liên tục yến hội, nào chính phủ Nam Kinh mời, nào các đảng phái dân chủ khác mời, nào đoàn thể nhân dân mời. Mỗi lần tiệc tùng như vậy, mọi quan khách đều tranh nhau chúc rượu Mao Trạch Đông. Lúc ấy Mao - Chu như hình với bóng, Chu Ân Lai sợ kẻ xấu ám hại Mao Trạch Đông, cho nên khi nói chuyện ông lùi sau Mao nửa người, còn lúc ai mời rượu ông lại dành lên trước nửa người và luôn miệng: “Ái dà, Mao Chủ tịch của chúng tôi tửu lượng có hạn, tôi xin thay, xin hầu quý vị...”. Nhìn Chu Ân Lai hết cốc này đến ly khác, hết vòng này đến lượt khác, uống thay cho Mao Trạch Đông, thể như “liều mình cứu chúa”, mắt tôi tự nhiên nhòa lệ, tôi thương ông quá.
Năm năm cùng Chu Ân Lai có mặt trong các tiệc rượu, nghe ông giảng giải về tửu đạo, tôi cũng đã hiểu biết ít nhiều xung quanh chủ đề rượu và uống rượu. Rượu vào có người mặt đỏ, có người không. Người mặt đỏ chưa hẳn là không biết uống, ngược lại người không đỏ mặt chắc gì đã là giỏi rượu, mà phải nhìn vào đôi mắt của họ để phán đoán. Có người càng uống, mặt càng đỏ, mắt sáng quắc như xuất thần, nó năng oai vệ, sang sảng, Chu Ân Lai thuộc loại này. Có người rượu vào, da mặt cũng đỏ, nhưng ánh mắt ảm đạm, thần sắc lúc tán lúc tụ, uống rượu trở thành tra tấn hoặc hình phạt đối với họ, Mao Trạch Đông là như vậy, và ông không bao giờ quá chén “ba ly”. Có người uống khá nhiều nhưng mặt vẫn như thường vì màu đỏ đã được da thịt che khuất, như tướng quân Hứa Thế Hữu chẳng hạn. Còn ai càng uống càng trắng, càng xám, càng xanh, nghĩa là biến sắc ba màu thì không nên ham rượu. Lúc về già, nguyên soái Hạ Long tuy rượu vào, mặt không biến sắc, nhưng Chu Ân Lai vẫn khuyên ông cai luôn “ngọn gió” quyến rũ ấy.
Cùng một người, tửu lượng của anh ta còn phụ thuộc vào tình trạng sức khỏe, ăn ngủ, tính tình và tâm trạng lúc nâng ly. Trong thời gian đàm phán ở Trùng Khánh, Chu Ân Lai từng thay Mao Trạch Đông nhận chúc rượu, luôn “liều mình cứu chúa”, khi ấy điều kiện sức khỏe của ông thật bất lợi, mất ngủ và phải làm việc căng thẳng, hầu như không được nghỉ ngơi. Vào tiệc, Chu Ân Lai lại bận rộn như ở bàn đàm phán, uống hàng chục cốc mà chưa miếng nào vào bụng, vòng này đến lượt khác, như thể đánh trận vậy. Quả thật, uống rượu cũng giống như ở chiến trường, những người thành tâm như Trương Trị Trung thì không nói làm gì, còn loại ô hợp kia, lai lịch nhân cách nào đâu có biết, lắm kẻ từng giết nhau giữa tửu trường “nam chinh bắc chiến”, và nói chung hai ba đấu rượu lọt xuống bụng rồi thì tà ý hay chân tâm khó mà đoán biết, tất cả đều bốc lên, đều “rượu vào lời ra”: “Mao tiên sinh, lần này trở lại đàm phán, so với giai đoạn trước thuận lợi hơn nhiều, chúc cho chúng ta sớm đi đến hiệp nghị, xin chúc mừng, xin cạn cốc.” “Ân Lai huynh, rượu của Mao tiên sinh huynh gánh dùm uống giúp, còn của bản thân huynh nữa nhé, phải cạn hai cốc, hai cốc...”
“Chu tiên sinh, tiểu đệ xin thay mặt đảng bộ Trùng Khánh, Quốc - Cộng hợp tác mà, hãy xem nhau như đồng sự và cốc thứ nhất xin mời Mao tiên sinh, cốc thứ hai mời hiền huynh Ân Lai.”
Những ngày đàm phán đi vào bế tắc, giữa thỏa hiệp và nguyên tắc, Chu Ân Lai đã tìm được cách đột phá. Phía bên kia cũng lắm kẻ cuồng say vì sự nhượng bộ to lớn của Trung Cộng, nhưng không ít người cay cú do chưa tiêu diệt được cộng sản, tất cả những tâm trạng vui buồn ấy đều thể hiện trong tiệc rượu, trào lên rồi ập xuống sau mỗi vòng cụng ly, cạn chén, cảnh tượng ở tửu trường làm tôi liên tưởng đến biển cả, những ngọn sóng hùng hổ vươn cao như muốn nuốt hết tất cả, bỗng kiệt sức không thể dâng lên hơn nữa, đành đổ nhào xuống mõm đá, vỡ tan thành bọt trắng ngần, lan tỏa ra phía sau, lúc ấy thật yên tĩnh, chỉ còn lại tiếng rào rào của bọt sóng lùi dần, xa dần mà thôi. Cứ thế hết cơn sóng này đến cơn sóng khác, Chu Ân Lai vẫn hiên ngang chống đỡ cho Mao Trạch Đông, mặt ông đỏ ong, đôi mắt sáng quắc, lại thêm hàng mi đen dày càng khiến cho ông oai vũ. Chu lên tiếng:
- Tôi đề nghị chúng ta không nên loạn chiến, bất luận là uống rượu hay đàm phán, đều cần bình đẳng cả. Tôi xin mời tất cả các vị uống được rượu cùng nâng ly, và sau đây thay mặt Mao Chủ tịch kính quý vị 3 ly. - Chu Ân Lai lịch sự, lễ độ mỉm cười, đưa mắt nhìn toàn thể tửu trường, rồi gật đầu: - Vâng, xin quý vị cạn trước cho phải đạo. Sau đó Chu Ân Lai một hơi 3 ly uống cạn, và không quên: - Giờ đến lượt tôi, kính quý vị 3 ly nữa. Và ông giữ đúng lời mời của mình, lại cạn thêm 3 ly nữa, tửu trường lặng sóng, tôi chỉ còn nghe tiếng Chu Ân Lai khẽ nói: chúng ta đâu phải chuốc rượu, cụng ly cạn cốc là vì hữu nghị, không gây khó dễ cho người khác, ai uống được xin cứ tiếp tục đứng dậy kính mọi người 3 ly. Quả nhiên, Trương Quần, Thiệu Lực Tử, Trương Trị Trung thay nhau phát biểu:
- Ân Lai huynh nói chí phải, chúng ta không nên loạn chiến, ai uống được xin mời tự nhiên kính rượu mọi người - Người nào kính rượu liền một lúc phải cạn 3 ly đầy như Chu Ân Lai vừa làm mẫu nên không mấy ai dám cả gan một mình đương đầu khiêu chiến. Tửu trường “im tiếng súng”, tôi nghe văng vẳng bên tai lời nhận xét của tay phóng viên đứng phía sau: “Mỗi một Chu Ân Lai mà đã đánh bại cả Quốc dân đảng trong đêm rượu này”. Tôi thương Chu Ân Lai quá chừng, ông phải làm việc, phải đấu trí ngay cả lúc uống rượu.
Trở về văn phòng ở Hồng Nham, tôi ngửi thấy một mùi toàn rượu từ hơi thở của Chu Ân Lai, tôi quan tâm và hỏi: “Thưa Chu Phó chủ tịch, sao đồng chí không để Mao chủ tịch uống bớt một vài ly cho đỡ mệt?”. Ông ôn tồn đáp lại: “Mình sợ trong rượu có tay chân của địch!” và sau đó Chu lại tiếp tục công việc chuẩn bị cho phiên họp đàm phán ngày mai.
Lần thứ hai ở Vân Nam, cũng một cốc rượu lịch sử, nhưng tình hình hoàn toàn khác với Trùng Khánh. Hội nghị Bandung kết thúc, chúng tôi đáp máy bay từ Indonesia về Côn Minh, cán bộ lãnh đạo quân, chính, đảng tỉnh Vân Nam mở tiệc chào mừng đoàn đại biểu do Chu Ân Lai dẫn đầu thắng lợi trở về. Đêm ấy Chu Ân Lai đã được mọi người chúc rượu, kính rượu và một lần nữa tửu lượng mênh mông của ông lại phát huy tác dụng. Chu Ân Lai không từ chối một ai, cũng như khi ra về ông ân cần bắt tay tạm biệt từng người một, tôi đếm đúng 280 đồng chí tất cả.
Năm 1961, Mao Trạch Đông triệu tập hội nghị Lư Sơn lần thứ hai, Chu Ân Lai được gia đình Dương Thượng Khuê mời cơm. Nhắc đến Thượng Khuê và vợ Dương là Thủy Tĩnh thì bất cứ người nào trong Trung Nam Hải đều biết rõ, bởi vì Dương Thượng Khuê là bậc cách mạng lão thành, từng là trưởng ban tuyên truyền tỉnh ủy khu xô-viết trung ương, sau năm 1949 là bí thư tỉnh ủy Giang Tây. Trung ương mở hội nghị ở Lư Sơn, vợ chồng Dương Thượng Khuê - “quan sở tại” đã hết lòng thết đãi, bày tỏ sự quan tâm, phục vụ. Thủy Tĩnh lúc ấy còn trẻ, ân cần giao tiếp, để lại ấn tượng đẹp đẽ với mọi khách quý đến Giang Tây. Thủy Tĩnh thường giúp anh chị em cảnh vệ, nhân viên cơ quan mối mai nên vợ nên chồng, tiếng lành đồn xa về bí thư tỉnh ủy phu nhân đẹp người đẹp nết này. Ngoài ra, Thủy Tĩnh còn nổi tiếng với tửu lượng của mình, cô đã “hạ gục” một Bộ trưởng chính phủ trong cuộc “đọ sức” trên tửu trường. Hồi đó, trong chính phủ nhiều người biết uống rượu, như bộ ba Thủ tướng, Trần Nghị và Kiều Quán Hoa, hoặc như danh tướng Hứa Thế Hữu 7 lần tham gia cảm tử quân, 9 lần bị thương nặng chốn sa trường cũng “khét tướng” là một trong bốn vị đại tửu ở Nam Kinh, hoặc như Bộ trưởng Liêu Lỗ Ngôn trước khi tàn tiệc ra về còn uống một lúc nửa chai, ông bảo “không nên lãng phí” v.v...
Chu Ân Lai đến chậm vì ông có công việc cần bàn với Mao Trạch Đông, tiệc vui ở nhà Dương Thượng Khuê và Thủy Tĩnh phải chia làm hai, Đặng Tiểu Bình và Lý Phú Xuân dùng trước và sau đó còn đi tham quan một số cơ sở với Dương Thượng Khuê, phần của Chu Ân Lai dành lại, giao cho Thủy Tĩnh đợi khách và thù tiếp. Tôi được Thủ tướng kéo vào bàn tiệc. Thức ăn hôm ấy Thủy Tĩnh khéo bày thực đơn “tứ tinh vọng nguyệt”, bốn “ngôi sao” là các món rau tươi chầu về một “mặt trăng” - thịt xào, kèm theo hai chai Mao Đài. Thủy Tĩnh ân cần tiếp đãi Thủ tướng, hai bên hàn huyên, chén tạc chén thù, và đều biết rõ tửu lượng của nhau. Trước khi ra về, Thủ tướng mới tiết lộ hôm nay phần dự cơm khách, phần để thử xem tài uống rượu của nữ nhi, ông vui vẻ nói: “Thật danh bất hư truyền”, Thủy Tĩnh đáp lại: “Em cám ơn, Thủ tướng lại nhà”. Tôi ngồi cùng Thủ tướng và vẫn chưa đo được chính xác tửu lượng của Người, vì khi tửu ý vừa nhen lên thì cuộc vui đã kết thúc, không rõ ông vừa uống vào giai đoạn nào.
Anh em phục vụ chúng tôi sống và làm việc bên cạnh Chu Ân Lai khá lâu, quan sát và đúc kết ra 3 giai đoạn hay còn gọi 3 đỉnh, 3 cao nguyên trên “tửu lộ” của ông. Cao nguyên thứ nhất, chúng tôi mệnh danh là “phong cảnh tự nhiên”, ở đây chúng ta không có cảm giác rằng Chu Ân Lai biết uống rượu, phần lớn là các buổi tiệc gia đình do chị cả Đặng chủ trì bày biện, ông chỉ uống xã giao, lý do vì sao chúng tôi sẽ kể ở phần sau. Điều đáng chú ý ở giai đoạn này là những lúc cảm cúm, nhiễm lạnh này nọ, Chu Ân Lai không bao giờ uống thuốc, nghe ông gọi “chú Hà ơi, cho tí gì nhé” là tôi biết ngay chai Mao Đài, đĩa lạc rang và cái ly nhỏ. Thủ tướng vừa nhắm lạc rang với Mao Đài, vừa phê duyệt văn thư. Vị thứ tư kèm theo là thau nước ấm ngâm chân, phương thuốc của Chu Ân Lai chỉ có ngần ấy, tam bôi tửu xong, mũi lấm tấm mồ hôi, hắt hơi và đi ngủ thế là lành bệnh. Chu Ân Lai kể cho chúng tôi nghe không biết bao nhiêu câu chuyện về linh dược Mao Đài đã giúp Hồng quân trị bách bệnh trên dặm đường Vạn lí trường chinh, nay về Trung Nam Hải, Thủ tướng vẫn không quên và ưa dùng bài thuốc của những ngày gian khổ ấy. Cao nguyên thứ hai là trạng thái hưng phấn, lúc này đôi mắt Thủ tướng của tôi như có thần, dung mạo tuyệt vời, tư duy mẫn cảm, giọng nói oai vệ, đề tài rộng lớn “trên dưới cũng phải tới 5 ngàn năm, ngang dọc không ít hơn 10 vạn lý”. Đây là giai đoạn làm chúng tôi thoải mái nhất, tám chín lạng vẫn cứ vui mà hai ba cân cũng chẳng hề gì, đó là theo cách nói của dân nước tôi, đo tửu lượng bằng cân lạng.
Cao nguyên thứ ba, đó là say, quả là rất nguy hiểm, phải sau một, hai ngày mới bình phục sức khỏe, lúc này những con sâu rượu hành hạ Thủ tướng tôi, và chứng tôi là những người có lỗi đầu tiên, song xin đừng quở trách, vì tôi vẫn chưa đo được tửu lượng của Người, để biết mà “hãm” lại. Tỷ như lần “cược rượu” với tướng quân Hứa Thế Hữu mà tôi sắp kể dưới đây thì tửu lượng của Thủ tướng thật không ngờ.
Thế Hữu là viên tướng truyền kỳ với nhiều giai thoại, ông lấy việc uống rượu làm một tiêu chí đánh giá lòng trung thành và tính hào hiệp của quân sĩ. Vào thời cực thịnh của Hứa, ông bày trò “thách rượu”, một cái bát và một vò rượu đặt giữa bàn, giúp việc cho ông là viên “giám tửu” có nhiệm vụ kiểm tra người uống trung thực hay giảo hoạt và phạt rượu, sĩ tướng dưới trướng Hứa Thế Hữu đều sợ hình thức uống rượu này, đồn đại thế nào đến tai Chu Ân Lai và Chu đã dùng phương pháp “lấy rượu trị rượu”. Thủ tướng có tài xử lý các mâu thuẫn phức tạp nhất, tùy người mà sử dụng phương pháp khác nhau, ví như Hứa Thế Hữu chẳng hạn, ngoài Mao Trạch Đông ra, ai nói gì ông cũng giả vờ nghe cho xong chuyện, tính nóng như lửa, đến như lão Tổng Tư lệnh Bành Đức Hoài mà toàn quân phải kính nể vẫn cứ nhường nhịn Thế Hữu. Đối với một đồng chí như vậy, đơn thuần phê bình không giải quyết được vấn đề, khuyên ngăn càng vô hiệu, nói nặng nói nhẹ đều như “nước chảy đầu vịt”, song Chu Ân Lai đã nghĩ cách, cách đặc biệt với những người đặc biệt... Nhân Hứa Thế Hữu về thủ đô công tác, Chu Ân Lai phát hỏa “tấn công”:
- Hứa Tư lệnh này, đêm nay có rỗi không? Đến chỗ tôi, ta cùng uống rượu. - Chu mời mọc thân thiết.
- Dạ rỗi, không phải hội họp gì cả. - Hai mắt Hứa Thế Hữu sáng hẳn lên, lâu nay nghe đồn Thủ tướng hay rượu, mấy bận định kết giao bạn uống nhưng chưa có dịp, nay được Thủ tướng mời, thật như cởi tấc lòng. Hứa xoa xoa hai bàn tay với nhau và không biết nên báo cáo với Thủ tướng như thế nào, liền buộc miệng: “Lần sau tôi sẽ tìm cách săn cho Thủ tướng một con báo”...
- Đêm nay - Chu Ân Lai khẽ nói - phạm vi hẹp, chỉ mình tôi và Hứa Tư lệnh, cho nên cứ tự nhiên nhé. Đúng như Thủ tướng nói, không có người thứ ba, có chăng chỉ là nhân viên phục vụ tiếp rượu và thức ăn mà thôi, đến món thứ tư thì đứng sang một bên và án binh bất động.
- Thủ tướng có dịp về Nam Kinh, tôi sẽ mời ăn cơm dã chiến, toàn là thịt săn tại chỗ. - Hứa vui vẻ vào cuộc, còn Chu mỉm cười gật đầu, ông tin như vậy và cũng đã nghe tài săn bắn của Thế Hữu.
- Hứa Tư lệnh, ta uống rượu gì?
- Dạ tùy Thủ tướng chọn.
- Nghe nói đồng chí ưa Mao Đài, mà tôi cũng thích loại rượu đó.
- Dạ, Mao Đài vậy.
- Cho chai Mao Đài. Chu Ân Lai gọi nhân viên phục vụ mang rượu lên rồi chậm rãi hỏi Hứa Thế Hữu: - Nghe nói Nam Kinh có “tứ đại tửu”, là ai vậy?
- Dạ Vương Bình, Giang Vị Thanh, Nhiếp Phượng Tri và Hứa Thế Hữu tôi.
- Trong bốn người ai có tửu lượng lớn nhất?
- Dạ, có lẽ là tôi ạ - Hứa Thế Hữu cười.
- Nam Kinh, Hứa Tư lệnh là số 1, nếu đến Sơn Đông, liệu có được không?
- Sao lại không được ạ? Tôi đã từng đánh khắp Sơn Đông rồi kia mà, còn kẻ nào dám đối địch nữa đâu!
- Tư lệnh nói đánh trận phải không?
- Dạ vâng, thắng trận Tế Nam hồi ấy, Thủ tướng còn nhớ không?
- Nhớ chứ, đánh trận thì tôi tin, còn uống rượu chưa chắc, Võ Tòng 18 bát rượu, người Sơn Đông dữ lắm!
- Ái dà, Thủ tướng cứ tin tôi, lâu nay Hứa này đã chịu thua ai trên tửu trường đâu!
Vừa lúc ấy, nhân viên phục vụ bưng lên một chai Mao Đài còn khằng xi, tự tay Chu Ân Lai nhận rượu đặt lên bàn và bắt đầu chọc tức viên Tư lệnh Hứa Thế Hữu.
- Hứa Tư lệnh là người thật thà mà nghe nói uống rượu lại lắm mưu mẹo.
Hứa Thế Hữu như lồng lên, chửi thề:
- Thủ tướng để tôi đi tìm cái thằng nói láo ấy và cho nó một trận, tôi biết hắn rồi.
- Thôi thôi, mới thế mà đã nổi nóng. Hứa Tư lệnh biết đâu mà tìm. Bây giờ tôi và Tư lệnh hai ta thi nhau, coi ai uống hơn ai?
- Thủ tướng ư? Dạ không được đâu ạ.
- Sao? Tư lệnh chê tôi uống không nổi à?
- Dạ không phải như thế, nếu Thủ tướng chưa tin tửu lượng của Hứa tôi, dạ dám xin cho mời một “đấu thủ” khác.
- Đã uống rượu thì không phân biệt quan to hay quan nhỏ mà chỉ xem tửu lượng ai cao, ai thấp. Đồng chí Thế Hữu, nếu đồng chí không thắng được tôi lần này thì chứng tỏ lâu nay...
- Sao ạ?
- Chứng tỏ lâu nay Hứa Tư lệnh của tôi cũng nói trạng và tán phét - Chu Ân Lai cười, pha chút khiêu khích.
- Dạ vâng, Thủ tướng đã cho phép, thì em xin theo.
Chu Ân Lai mở rượu định rót vào ly cho Hứa Thế Hữu, Hứa vội vàng ngăn lại:
- Dạ thôi, mỗi người một chai tiện hơn.
- Cũng được - Chu Ân Lai gọi người phục vụ - Cho thêm chai Mao Đài nữa đi.
Cuộc tửu thí bắt đầu! Hứa vào ngav 3 ly kính rượu Thủ tướng, ông quay cuồng với quyết tâm thanh minh, rằng Hứa tôi thật thà thế mà có kẻ ton hót lên Thủ tướng phải mang tiếng là “nói trạng”, là “tán phét”, cứ thế lần này 2 ly uống cạn, lần khác 2 ly một hơi, cấp tập rót rót, uống uống. Còn Chu thong thả, vừa nhắm, vừa uống, tận hưởng vị nồng cay của rượu hòa với mùi thơm bùi của lạc, thức ăn mà ông rất hợp khẩu vị, quay sang hỏi han tình hình Nam Kinh, tình hình quân đội, nhiều lúc khẳng khái và cảm động hồi ức lại những chuyện xưa từng vang bóng một thời... Bỗng nghe Hứa Thế Hữu báo cáo:
- Thưa Thủ tướng, dạ cạn xong. Hứa cho chai rượu đặt thẳng đứng vào miệng ly, cả chai, cả ly không còn một giọt. Mặt Hứa chớm đỏ nhưng không nhìn rõ, giọng nói tuy âm vang song có chiều mệt nhọc khó thở, ông nhẹ nhàng đặt chai không xuống bàn, có lẽ vì uống với Chu Ân Lai nên Hứa mới “văn minh” như vậy, và quay nhìn Chu. Truyện "28 Ngày Đêm Quyết Định Vận Mệnh Trung Quốc " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
- Ồ, thế thì tôi thua Hứa Tư lệnh rồi! - Chu Ân Lai vừa nói, vừa cố rót chai rượu vào ly, nhưng ô hay, cả chai lẫn ly đều khô từ lâu! Mắt Hứa như muôn ngàn hoa lửa, thật là “quỷ tha ma bắt” cả một chai Mao Đài chứ ít đâu, sức mình mà còn phải cố gắng lắm mới xong, thế nhưng Chu Ân Lai ung dung ẩm thực và cùng cạn như nhau, hay là rượu giả? Hứa tự nhiên nghi ngờ, đoán già đoán non.
- Hứa Tư lệnh, theo cách nói của nhà binh, cuộc thi đến đây kết thúc, được không? Chu Ân Lai hỏi.
- Dạ chưa được ạ, đây mới là hiệp một thôi, xin Thủ tướng sang hiệp hai để phân rõ thắng bại. - Hứa kỳ kèo mãi và Chu Ân Lai đồng ý, cho nhân viên phục vụ bưng lên 2 chai Mao Đài nữa. Hứa nhanh nhẹn mở nút kiểm tra, Chu cười:
- Như nhau cả thôi, tùy Tư lệnh chọn.
Vẫn thế, mỗi “đấu thủ” một chiến thuật “công tửu” đợt hai. Bình thường Thủ tướng tôi cũng cạn ly liên tục, nhưng hôm nay ông đổi cách uống “nâng lên đặt xuống” ung dung tự tại, ngược lại Hứa Thế Hữu thì mất vẻ hào phóng của Nam Kinh tứ đại tửu, ông lo thua cuộc nên đâm ra hồi hộp lúng túng và đành sử dụng chiêu thức “tốc chiến tốc thắng”.
Sau hai tiếng đồng hồ, cuối cùng Hứa Thế Hữu cạn xong chai Mao Đài thứ hai, ông không gọi rượu nữa, đầu óc có vẻ lắc lư nhìn Chu Ân Lai. Chu cho chai rượu dốc thẳng vào ly, không còn một giọt, ông gọi nhân viên phục vụ:
- Cho thêm hai chai nữa, xem ra Hứa Tư lệnh còn uống được mà.
Hai chai thứ ba đặt lên bàn, Chu hỏi Hứa:
- Tư lệnh dùng chai nào?
Hứa chỉ gật đầu hình như muốn nói “chai nào cũng được”, rồi từ từ tuột xuống đất, gắng gượng đứng lên nhưng không còn sức nữa, Chu Ân Lai vực ông lên ghế và sau đó là tiếng ngáy như sấm động của Hứa.
Khi tỉnh rượu, Hứa Thế Hữu đứng nghiêm theo tư thế con nhà lính và báo cáo Chu Ân Lai:
- Thưa Thủ tướng, Hứa tôi xin bái phục, từ nay về sau Thủ tướng chỉ đâu, Thế Hữu này xin đánh đó.
- Nói bậy, Mao Chủ tịch chỉ đâu, chúng ta đánh đó, - Chu Ân Lai sửa lại câu nói của Hứa.
- Dạ vâng, nhưng Hứa tôi muốn thề rằng, Thủ tướng bảo chết, thì tôi chết, bảo sống thì tôi sống, Thế Hữu này xin nghe lời Thủ tướng.
- Vậy hôm nay tôi muốn Hứa Tư lệnh làm điều này...
- Xin sẵn sàng đợi lệnh!
Từ đó về sau người ta thấy Hứa Thế Hữu bãi trò “thách rượu”, sĩ tướng của ông được “giải phóng”, những nhân viên “giám tửu” giúp việc này đều “phục viên”, còn ông, như đã hứa với Chu Ân Lai, mỗi lần không quá 6 cốc, khoảng nửa cân, tự nguyện rút khỏi Nam Kinh tứ đại tửu. Tất nhiên những kết quả vừa nêu thật quá sức đối với một người ghiền rượu như Hứa, nên cũng đã diễn ra từ từ theo một quá trình có sự giám sát của vợ con ông.
Đối với người Trung Quốc chúng tôi, Mao Đài là loại rượu trắng có độ cồn khá cao, một lúc uống cạn hai chai mà không đổ, không say, thật cũng chẳng mấy ai. Thủ tướng tôi sở dĩ làm được điều đó, ngoài tửu lượng mênh mông ra, còn phải kể đến nhiệm vụ mà ông cần hoàn thành, tỷ như ở Trùng Khánh, hoặc như hôm nay vì mong muốn Hứa Thế Hữu đừng lấy rượu trị người nên ông đã thắng đối thủ có hạng trên tửu trường. Điều đặc biệt thứ hai là mấy chục năm phục vụ Thủ tướng, tôi chưa hề thấy ông “lấy rượu giải sầu”, đối với Chu càng vui ông càng gần rượu. Câu chuyện sau đây là do chị cả Đặng (Đặng Dĩnh Siêu - vợ của Thủ tướng) kể lại. Chị mà không kể thì làm sao chúng tôi biết được và cũng không có ai dám hư cấu một câu chuyện như vậy đối với lãnh tụ của mình, ấy là lần đầu tiên Chu Ân Lai bước đến cao nguyên thứ ba trên “tửu lộ” của mình!
Tháng 8 năm 1925, Chu Ân Lai và Đặng Dĩnh Siêu kết hôn, hôn lễ ngoài một số nghi thức tập tục cổ truyền ra, còn chủ yếu là bạn bè thân hữu hai họ cùng dự tiệc rượu. Tiệc vui chưa từng có, nhiều người say và cả chú rể Chu Ân Lai cũng không tránh khỏi sự cuốn của câu nói “nam vô tửu như kỳ vô phong”, nên đêm tân hôn đã không động phòng hoa chúc, khiến cô dâu phải vò võ canh trường. Đặng Dĩnh Siêu kể lại như vậy và tâm sự: “Từ hôm đó tôi mới hay Thủ tướng biết uống rượu, và bắt đầu phản đối, nhưng vô hiệu, có lẽ vì công việc mà mấy chục năm nay ông phải uống nhiều rượu đến thế...”. Đêm ấy chị cả Thái đành ở lại, vừa chăm nom cho Chu Ân Lai mau tỉnh rượu, vừa động viên Đặng Dĩnh Siêu đừng buồn. Trong cơn say, chú rể kể đủ chuyện từ phong trào Ngũ Tứ đến cách mạng Tân Hợi, từ bên Pháp lúc đi du học đến nước Nga quê hương của Lê-nin, và vui nhất là câu nói mà sau này Đặng Dĩnh Siêu nhắc mãi:
- Từ Nhật Bản về đến Thiên Tân, tham gia mít tinh, nghe diễn thuyết, chao ôi diễn giả là một cô gái có đôi mắt to, đầy hấp dẫn - chị cả Thái hỏi dặm: - Cô nào vậy? - Tiểu Siêu chứ còn ai - mọi người cười ầm, kể cả cô dâu tên Siêu mà Chu vừa nhắc. Cũng hay, “Tiểu Siêu” hai chữ ấy sau này trở thành lời xưng hô thân ái của Chu Ân Lai đối với vợ, mãi cho tới già.
Câu chuyện mà Chu Ân Lai vừa kể trong lúc say là có thật, đó là năm 1919, ông từ Nhật Bản trở về nước, và lao ngay vào phong trào Ngũ Tứ, gặp Đặng Dĩnh Siêu mới 15, thua ông những 6 tuổi, họ cùng nhau tham gia khai hội, viết tập san, tổ chức “giác ngộ xã” và Chu luôn gọi Dĩnh Siêu là “em gái nhỏ”, hoặc “Tiểu Siêu”. Tháng 11 năm 1920, Chu Ân Lai đi du học ở Pháp, năm 1924 về nước và năm 1925 cưới “Tiểu Siêu” ở Quảng Châu. Năm năm xa nhau mà tình yêu vẫn son sắt, vui với Đặng Dĩnh Siêu, vui với bạn bè, Chu Ân Lai càng gần với rượu và mãi vui đến mức quên cả lời em dặn dò, quên cả đêm tân hôn, kể thì cũng hơi thất lễ và vợ chồng sau này chính vì rượu mà ít nhiều đã xảy ra mâu thuẫn, chung quy là ở chỗ: người vợ nào mà không sợ chồng do quá chén vừa hỏng việc, vừa hại sức khỏe. Quả là như vậy, chúng tôi nhẩm tính, từ Chu Ân Lai đến Trần Nghị, Kiều Quán Hoa, Hứa Thế Hữu v.v... đều mắc chứng ung thư, có lẽ các vị uống nhiều rượu quá chăng.
Lần thứ hai, tại Mạc Tư Khoa, Chu Ân Lai đã bị quỵ vì rượu và chính tôi là người trong cuộc, tôi đã không làm tròn nhiệm vụ mà trước khi lên đường chị cả Đặng căn dặn: “Chú trông giúp chị, đừng để Thủ tướng uống nhiều rượu nhé!”, chắc bà sợ những thùng rượu Nga và những người Nga uống rượu!
Tháng 4 năm 1954, lần đầu tiên sau ngày thành lập nhà nước cộng hòa nhân dân, Trung Quốc tham gia hội nghị quốc tế Genève. Chu Ân Lai đã bôn tẩu khắp nơi trên thế giới cho sự tham dự của Trung Quốc tại hội nghị này mà sử sách còn ghi lại đầy đủ. Lúc này sức khỏe của Thủ tướng không được tốt lắm, mấy lần xuất huyết mũi, cho nên chị cả Đặng rất lo lắng khi hay tin đoàn Trung Quốc phải sang Liên Xô hội đàm công việc chuẩn bị tham gia hội nghị. Bà nhớ lại những lần tiếp xúc với các đồng chí Liên Xô, mỗi người bên ấy là cả một “thùng rượu”, họ uống rượu 65 độ như thể dân chúng tôi uống trà, rượu gì cũng uống được, vào bàn tiệc chỉ sau vài lần “cạn chén”, “đến đáy” là hoàn toàn “giải phóng”. Bà căn dặn tôi nhớ chăm lo cho Thủ tướng, tuy tửu lượng của ông có cao mấy cũng không bì được với người Nga. Từ ngày được phong chức “phó quan”, tôi có nhiệm vụ bảo vệ Thủ tướng khi uống rượu, chúng tôi và Thủ tướng đã thống nhất cần phải xa rượu, vừa giữ gìn sức khỏe, vừa bảo đảm công việc, chúng tôi quyết định phương pháp “lấy nước thay rượu”. Nhân viên Trung Nam Hải đều biết cách dùng nước trà thay rượu nho, dùng bạch thủy thay rượu trắng, nhưng phải nhớ chai nào bình nào, kẻo rót nhầm cho khách thì khốn, nên tất cả đều được huấn luyện, thực tập nhiều lần. Sau những lần thù tiếp đó, các đồng chí Liên Xô và Châu Âu cứ tưởng tửu lượng của Thủ tướng tôi mênh mông như biển cả, khâm phục người da vàng cũng áp đảo được người da trắng trên bàn rượu. Tại “sân nhà” dùng được phương pháp đó, nhưng sang nước người “đá sân” của họ thì đành bó tay, đành dựa vào tửu lượng thực tế của mình.
Hội đàm giữa Liên Xô và Trung Quốc về các vấn đề chuẩn bị tham gia hội nghị Genève, sự phối hợp đấu tranh ngoại giao của hai đoàn Xô - Trung tại hội nghị v.v... đều đi đến kết quả nhất trí. Trước khi đoàn Trung Quốc trở về Bắc Kinh, Khrusov - Bí thư thứ nhất Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô và Malenkov - Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng lúc bấy giờ đã mở tiệc chiêu đãi Chu Ân Lai. Tham dự dạ yến hôm ấy còn có Molotov - Ngoại trưỏng và sẽ là trưởng đoàn Liên Xô tại hội nghị Genève, cùng nhiều quan khách khác, toàn thể thành viên của đoàn Trung Quốc đều được mời dự tiệc. Đêm ấy tôi đã linh cảm chẳng lành, tôi không nói được tiếng Nga, mọi công việc thông dịch đều trông vào một mình Sư Triết, người tiếp rượu đều do bạn đảm nhiệm, hoàn toàn không thể “lấy nước thay rượu” như ở nhà, huống hồ chế độ ăn uống phục vụ lãnh đạo của Liên Xô lúc đó rất nghiêm ngặt, thức gì cũng qua kiểm tra khó mà đánh tráo.
Khrusov khai mạc, ông nói rất ngắn, sau vài câu là đề nghị nâng ly, toàn thể cử tọa đều đứng dậy, người Nga nhiệt tình hào hiệp khó ai bằng, không giống như bên nước tôi ai kính rượu, người đó uống, còn đây, đã hô “xuống đáy” là y như rào rào “cạn”, “cạn”. Theo phép ngoại giao, sau kính rượu là hồi rượu, khách phải mời lại chủ và cứ thế “kính - hồi”, “mời - đáp” liên tục hết đợt này sang đợt khác, Thủ tướng của chúng tôi lâu nay vẫn chủ trương “khách tùy chủ biện” nên không hề chối từ bất cứ một ai, tôi nhận xét ông đã bước vào cao nguyên thứ hai trên “tửu lộ” của mình. Bằng một giọng nói thông minh và pha chút dí dỏm, Chu Ân Lai tay lắc ly rượu, quay sang nói với Khrusov:
- Người say đâu phải vì rượu, nhưng từ một góc độ nào đó mà quan sát thì Trung Quốc, Triều Tiên và Việt Nam, ba nước chúng tôi được tham gia hội nghị quốc tế lần này là rất có ý nghĩa và thắng lợi.
Khrusov do uống nhiều rượu hay là đầu óc sao đó, nghe xong phiên dịch, ông vẫn chưa hiểu hết câu nói của Chu Ân Lai. Khi ấy, Mỹ không thừa nhận ba nước Trung Quốc, Triều Tiên, Việt Nam, nhưng phải ngồi vào bàn đàm phán với họ, điều đó chẳng khác nào như một sự thừa nhận hay sao. Khrusov chắc không nhận thức được ý nghĩa trên, nên ông vẫn khăng khăng:
- Hội nghị lần này chưa chắc đã giải quyết được vấn đề gì, chúng ta khó mà dự đoán được kết quả của nó.
- Thưa đồng chí Khrusov, hiện nay Mỹ, Anh và Pháp đã không thể ngồi đàm phán với chúng ta, nghe chúng ta nói rõ lập trường, nguyên tắc của mình đôi với các vấn đề quốc tế, tôi nghĩ đó là một thắng lợi rất đáng trân trọng - Chu Ân Lai giải thích thêm cho Khrusov. Phiên dịch xong, các đồng chí lãnh đạo Liên Xô hình như phân tích gì đó nên Khrusov gật đầu lia lịa rồi thét vang “Kha-ra-số”, “tốt, tốt”, “đúng, đúng”, đoạn nâng ly mời Chu Ân Lai, uống cạn, rồi ôm lấy Thủ tướng tôi, xoay và hôn má. Người Nga thường thổ lộ tình cảm của mình như vậy, phải ôm, phải xoay, phải hôn mới nói hết những gì muốn nói. Chu Ân Lai cạn ly cùng Khrusov và cao hứng mà rằng:
- Nếu hội nghị lần này giải quyết được một số vấn đề nào đó thì thật là quý hóa và có ích cho sau này, đoàn chúng tôi muôn cố gắng để giành được thắng lợi. - Cử tọa vỗ tay, tôi thấy mọi người rời khỏi ghế ngồi bước tới ôm hôn Chu Ân Lai, chúc rượu, cạn ly, mặt Thủ tưóng tôi không còn đỏ nữa, dần dần biến sang xanh và trắng, chết rồi, triệu chứng sắp bước vào cao nguyên thứ ba, tôi lo lắng vô cùng, nhưng đành bó tay. Đang lúc bối rối như vậy thì tôi thấy Molotov đến cạnh Chu Ân Lai, ông nâng ly:
- Hội nghị Genève lần này, hai chúng ta sẽ kề vai sát cánh chiến đấu bên nhau, hãy cạn cốc vì tình hữu nghị giữa chúng ta. - Chu Ân Lai vẫn phong độ, gật đầu mỉm cưòi đáp lễ, nhưng mặt ông hầu như trắng bệnh, ông ép sát mình với Molotov và rỉ tai thân mật:
- Đồng chí Molotov, tình hữu nghị giữa chúng ta đã có từ lâu, năm 1928 khi sang Mạc Tư Khoa dự đại hội 6 của đảng chúng tôi, tôi gặp đồng chí, nghe đồng chí đọc lời chào mừng. Đồng chí là đại ca, chúng tôi phải học tập các đồng chí, đây là lần đầu tiên Trung Quốc tham gia hội nghị quốc tế, chưa có kinh nghiệm và cả tri thức nữa, nên cần tiếp tục học tập các đồng chí, xin hãy cạn chén vì sự cùng nhau nỗ lực của chúng ta! - Chu Ân Lai một hơi uống cạn ly rượu và bỗng nghe tiếng choang, ly vỡ, ông quỵ người, Molotov và Trương Văn Thiên kịp đứng bên đỡ lấy Chu Ân Lai, chúng tôi dìu ông ra xe và nhanh chóng đưa về phòng nghỉ. Phía Liên Xô bối rối, mọi người tỉnh rượu và xin lỗi, Trương Văn Thiên vừa đi theo Chu Ân Lai vừa giải thích với bạn, rằng Thủ tướng chúng tôi gan yếu, hồi Vạn lí trường chinh đã đau một lần, không được uống nhiều rượu, mấy hôm nay làm việc căng thắng nên mới như thế này... Molotov lắc đầu: “Chúng tôi thật đáng trách và phải nhớ bài học này.” Truyện "28 Ngày Đêm Quyết Định Vận Mệnh Trung Quốc " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Phải sau một ngày mệt nhoài, nôn hết rượu, Thủ tướng tôi mới tỉnh lại, ông hỏi Sư Triết:
- Ngày hôm qua tôi đã nói những gì?
- Thủ tướng nói rất hay, các đồng chí Liên Xô đều phải khen “Kha-ra-số”.
- Không có gì mất tư cách?
- Dạ không, chỉ có đoạn... năm 1928 tại đại hội 6 của đảng chúng ta, nghe đọc lời chào mừng, chắc Thủ tướng muốn chỉ Stalin, nhưng nói nhầm ra Molotov...
- Ừ, còn chỗ nào không thỏa đáng nữa, đừng giấu tôi.
- Dạ không, - Sư Triết khẳng định. - Đúng là như vậy ạ.
Đoàn về đến Bắc Kinh chậm một ngày, Thủ tướng đã báo cáo kết quả hội đàm lên Mao Chủ tịch và Trung ương, ông không quên nhận khuyết điểm về say rượu với Mao, Mao hỏi: Truyện "28 Ngày Đêm Quyết Định Vận Mệnh Trung Quốc " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
- Có uống nhiều như ở Trùng Khánh không? - Mao cười: - Người ghiền rượu mà uống say là chuyện bình thường, nếu gặp tôi, tôi không đấu rượu với họ mà yêu cầu họ thi ăn ớt cùng tôi, lấy sở trường bù sở đoản!
Tôi kể lại chuyện này cho Sư Triết nghe, anh ngạc nhiên: “Thủ tướng quá thật thà, uống tí rượu mà phải kiểm thảo với Trung ương, ở bên này như vậy là thường, nếu kiểm thảo phê bình thì ngày nào cũng cần khai hội”, lúc ấy Sư Triết đang công tác ở Liên Xô.
Năm 1972, khi được Chu Ân Lai mời tiệc, Nixon đã hỏi:
- Nghe nói tửu lượng của Ngài rất lớn?
- Ngày xưa uống được, hồi Vạn lí trường chinh từng một lúc uống hết 25 cốc Mao Đài, loại cốc to hơn cái ly này nhiều.
- Thế còn bây giờ?
- Tuổi cao, bác sĩ đã hạn chế, nhiều nhất cũng chỉ 3 ly mà thôi.
- Tôi nghe người ta kể, rằng khi Hồng quân trên đường trường chinh đánh chiếm trấn Mao Đài, các ông đã uống hết mọi vò rượu ở đây?
- Đó là chuyện vui, nhưng trong thực tế Mao Đài quả nhiên trở thành linh dược trị bách bệnh cho Hồng quân trong những năm tháng ấy.
- Xin hãy cạn ly bằng Mao Đài - một loại linh dược của Hồng quân.
Chu Ân Lai mỉm cười, chiều khách, cạn với Nixon một ly Mao Đài. Đó là ly rượu cuối cùng của đời ông, vì ngày 12 tháng 5 năm 1972, khám nghiệm trong nước tiểu của Chu có số hồng huyết cầu nhiều hơn quy định, ngày 18 tiếp tục kiểm tra mới hay, Chu Ân Lai đã mắc chứng ung thư bàng quang. Ông xa rượu vĩnh viễn, sớm hơn 4 năm trước khi tạ thế.
29.07.2014
Phần VI - Chương 5
KHÓC THAN VÀ GIẬN DỮ
Dịch giả: Thái Nguyễn Bạch Liên
Nguồn: NXB Cà Mau
Nội dung thu gọn
Năm 1942, ba cơ quan của Trung Cộng là Cục phương Nam, Tân Hoa xã, Văn phòng đại diện quân đoàn 18 đều làm việc ở Trùng Khánh, thân phụ Chu Ân Lai và thân mẫu Đặng Dĩnh Siêu cũng được đưa về đây cùng sống với con cái dâu rể. Số nhà 50 đường Tằng Gia Nham ngoài đề 3 chữ “Chu công quán” với những tầng lầu xinh xắn, nhưng Chu Ân Lai rất ít ở đây vì gần Thượng Thanh Từ, trụ sở của cơ quan đầu não Quốc dân đảng do thủ lĩnh đặc vụ Đới Lạp chỉ huy. Chu và gia đình trú tại Hồng Nham Chủy, tuy xa trung tâm thành phố khoảng 5 cây số nhưng an toàn, phong cảnh lâm viên có cây cối núi đồi, lại được quân lính bảo vệ. Thân phụ Chu Ân Lai có tên gọi Chu Thiệu Cương, người hiền lành, trung hậu và hơi nhút nhát, ai cũng xưng hô là cụ Chu, chị cả Đặng không dám kêu “cha” mà một điều hai điều đều “thưa cụ, bẩm cụ”. Cụ Chu ưa uống rượu và du lãm, cho nên anh em phục vụ chúng tôi thường phải chú ý hai điều ấy thôi.
Đó là những ngày cuối tháng 6 năm 1942, Trùng Khánh vô cùng nóng nực, Chu Ân Lai vào viện mổ bàng quang, Đổng Tất Vũ nhận được điện của Mao Trạch Đông từ Diên An truyền về: “Ân Lai cần tĩnh dưỡng, chưa lành bệnh chưa ra viện, có ra viện cũng phải nghỉ ngơi giữ gìn sức khỏe, mong đồng chí hết sức chú ý”.
Đổng Tất Vũ, Đặng Dĩnh Siêu và Tiền Chi Quang ngày ngày thay phiên nhau vào viện chăm nom Chu, nhưng một sự việc không may đã bất ngờ xảy ra: ông cụ đi chơi trúng gió, kíp đưa đi cấp cứu, song tuổi cao sức yếu, không may qua đời. Biết làm thế nào bây giờ, vết mổ của Chu còn chưa cắt chỉ, ông lại là người con có hiếu; mỗi lần về quê thăm gia tộc gặp các bậc bề trên, Chu Ân Lai đều lễ phép cúc cung bái lạy đâu và đấy, ai ai cũng khen ông giữ được gia phong. Các đồng chí cả ba cơ quan quyết định giấu Chu Ân Lai, giữ gìn thi thể ông cụ và nán đợi vài ngày nữa xem bệnh tình của Chu thuyên giảm ra sao rồi mới báo cáo với ông.
Vừa thấy tôi vào dọn dẹp bệnh phòng, Chu Ân Lai liền hỏi:
- Sao hai hôm nay không thấy Đổng Tất Vũ?
- Thưa Phó chủ tịch, chắc bên Cục phương Nam có công việc. - Tôi trả lời qua quýt rồi giả vờò bận rộn soạn cái này sắp cái kia. Chu Ân Lai vẫn tỏ ra áy náy bồn chồn và gọi tôi:
- Chú Hà, bỏ đấy, tôi hỏi thật chú ở nhà có việc gì không?
- Dạ không ạ, chắc bên Cục phương Nam...
- Cục phương Nam thế nào, nếu có công việc lại càng phải vào gặp tôi, cớ sao hai ngày rồi không thấy Đổng Tất Vũ đâu cả?
Kỷ luật và nguyên tắc dạy chúng tôi, rằng việc không được biết không nên hỏi, việc không được nói phải thật im lặng, tôi loanh quanh một lúc rồi tìm cách cáo từ. Ngày thứ ba vết mổ của Chu Ân Lai vừa cắt chỉ, Ngô Khắc Viện vào viện báo cáo tình hình cơ quan, dù Ngô có bản lĩnh đến mấy cũng không giấu được ánh mắt hoảng loạn khi nhìn thẳng vào Chu Ân Lai, ông hỏi Ngô: Truyện "28 Ngày Đêm Quyết Định Vận Mệnh Trung Quốc " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
- Các đồng chí đang giấu tôi điều gì phải không? Chú Hà - Chu Ân Lai gọi tôi đưa ông ra viện gấp. Sự tình đến nước này thì khó lòng mà giấu được Chu, tôi tìm cách kéo dài thời gian làm thủ tục để liên lạc với chị cả Đặng chủ động chuẩn bị.
Xe tới văn phòng Hồng Nham Chủy, không cần ai dìu đỡ, Chu Ân Lai lao vào nhà và thấy Đặng Dĩnh Siêu tay mang băng đen.
- Chuyện gì thế Tiểu Siêu?
- Cụ vừa qua đời cách đây 3 hôm vì trúng gió...
- Trời! - Chu Ân Lai chỉ kêu được ngần ấy và gục quỵ xuống đất khóc than như một đứa trẻ thơ: - Tiểu Siêu! Sao em nỡ giấu anh. Các đồng chí! Sao các đồng chí nỡ giấu tôi. Đã 3 ngày rồi, trời ơi! Các đồng chí không có cha mẹ hay sao? Chủ nghĩa Mác dạy chúng ta không cần cha mẹ hay sao? Không làm người con hiếu thảo thì chúng ta sao trỏ thành cộng sản được? Không có cha mẹ làm gì có chúng ta?
... Mọi người chỉ còn biết im lặng và cùng Chu Ân Lai tuôn trào dòng lệ của đạo làm con. Đổng Tất Vũ đến bên cạnh ông và đưa bức điện của Mao Trạch Đông như để thanh minh mọi sự giấu kín trong 3 ngày qua, Chu Ân Lai lau nước mắt và đứng dậy thảo ngay điện báo cho Máo: “Thưa Chủ tịch, vừa về thì hay tin thân phụ qua đời đã 3 ngày, đau thương cùng cực, ân hận làm con bất hiếu, sáng mai sẽ an táng”. Vài phút sau Mao phúc điện phân ưu: “Tôn ông tạ thế, Bộ Chính trị gửi lời chia buồn thống thiết, mong đồng chí cẩn trọng, bệnh vừa thuyên giảm, chú ý nghỉ ngơi”.
Chu Ân Lai đứng bên linh cữu cha đúng một đêm tròn, tưởng nhớ đức cù lao, công dưỡng dục của phụ mẫu, ai khuyên ông đi nghỉ vì mới ra viện, ông cũng không nghe. Thi hài cụ ông Chu Thiệu Cương mai táng tại phần đất của Trung Cộng ở Trùng Khánh lúc bấy giờ, sau đó trở thành nghĩa trang liệt sĩ chôn cất Lý Thiếu Thạch cùng 20 chiến sĩ Hồng quân bị Quốc dân đảng ám hại ngay trong lúc Mao và Tưởng đàm phán, tại đấy còn có sinh phần của thân mẫu Đặng Dĩnh Siêu.
Câu chuyện tôi vừa kể là những gì muốn nói về đức tính hiếu thảo trong con người Chu Ân Lai, muốn nói về tình cốt nhục trong con người cộng sản mà hồi ấy Quốc dân đảng và Tưởng Giới Thạch cố sức bôi đen, xuyên tạc chúng tôi. Ngày 8 tháng 4 năm 1946, sau khi tiễn các đồng chí Vương Nhược Phi, Bác Cổ, Diệp Đình, Đặng Phát bay về Diên An, Chu Ân Lai và chúng tôi trở lại văn phòng của Trung Cộng ở Thượng Thanh Từ để chờ phúc điện từ Trung ương về chuyến bay hạ cánh. Vương Nhược Phi và Bác Cổ có nhiệm vụ báo cáo với Mao Trạch Đông và Trung ương tình hình đàm phán với Quốc dân đảng và kết quả của hội nghị chính trị hiệp thương, còn Diệp Đình vừa được phóng thích từ nhà ngục của Quốc dân đảng. Theo kế hoạch Chu Ân Lai bố trí thì Diệp phải nghỉ ngơi vài ngày ở Trùng Khánh, nhưng ông nhớ Diên An da diết nên xin Chu cho phép cùng con gái đi đón là Dương Mi cùng bay trong chuyến này; người thứ tư là Đặng Phát, đại biểu Trung Cộng dự hội nghị công hội ở Paris quá giang về Diên An. Tôi thấy Chu Ân Lai bồn chồn một cách lạ thường, đi đi lại lại và luôn hỏi Trần Hạo “đã có điện của Diên An chưa?”. Đã mấy phen lâm nạn trên không, Chu Ân Lai lo lắng cho các chiến hữu đồng chí của mình, huống hồ lúc ấy tình hình rất phức tạp, Quốc dân đảng và Tưởng Giới Thạch sẵn sàng đánh phá bất cứ khi nào chúng tôi sơ suất. Còn nhớ Mao Trạch Đông đến Trùng Khánh đàm phán, hiệp định “song thập” chưa ký kết thì bỗng đại sứ Mỹ là Hurley chuẩn bị về nước, Chu Ân Lai rất lo lắng, ông gặp Hurley chất vấn:
- Thưa ngài đại sứ, ngài đón Mao Chủ tịch từ Diên An đến đây dự đàm phán, nay hiệp định vẫn chưa được ký, ngài sắp về nước, rõ ràng là sẽ rất khó khăn, rõ ràng sẽ làm mất lòng tin của mọi người!
Hồi ấy, Tưởng Giới Thạch đã có ý định hãm hại Mao Trạch Đông, cho dù ông ta đang bị dư luận trong và ngoài nước gây sức ép nhưng cũng không loại trừ khả năng manh động. Sở dĩ Chu Ân Lai đồng ý để Mao Trạch Đông bay từ Diên An về Trùng Khánh là vì trong phi cơ có hai “con tin”: đại sứ Mỹ Hurley và Trương Thị Trung - Thượng tướng của Quốc dân đảng. Vậy lần này trở về Diên An, Chu Ân Lai quyết tìm mọi cách bảo vệ an toàn cho Mao Trạch Đông, ông gặp Trương Thị Trung:
- Huynh không thể đón Mao Chủ tịch đến đây mà không đưa về lại Diên An, nếu quả thất tín như vậy là chúng tôi kiên quyết phản đối!
Cuối cùng Chu Ân Lai gặp Tưởng Giới Thạch buộc ông ta phải đáp ứng yêu cầu của Trung Cộng, đảm bảo an toàn cho Mao Trạch Đông trở về Diên An.
Nhưng lần này đối với Vương Nhược Phi, Bác Cổ, Diệp Đình và Đặng Phát, Chu Ân Lai đã không làm được như vậy và quả nhiên điện báo từ Diên An truyền đến: máy bay mất tích, đó là vụ không nạn “mồng 8 tháng 4” được ghi trong lịch sử Trung Cộng, phi cơ đã đâm vào rặng núi Hắc Trà Sơn, cướp đi sinh mạng của những người cộng sản và Chu Ân Lai quằn quại khóc than như thể bao trách nhiệm đều mình ông gánh chịu. Ngày 19 tháng 4, chúng tôi làm lễ truy điệu các liệt sĩ 4 tháng 8, Chu Ân Lai nén đau thương kể lại chuyến bay vượt Tần Lĩnh lần trước và căn dặn mọi người đừng nghi oan cho các phi công quân đội Mỹ lúc bấy giờ. Đó là lần thứ hai tôi chứng kiến Chu Ân Lai khóc than, ông khóc cho tình đồng đội, đồng chí, bằng hữu... một nhu cầu trong cuộc sống của con người.
Ngày 26 tháng 6 năm 1946, quân đội Quốc dân đảng phát động tấn công khu giải phóng Trung Nguyên và tuyên bố trong 48 tiếng đồng hồ sẽ tiêu diệt toàn bộ Hồng quân Trung Nguyên. Lý Tiên Niệm cùng các tướng lĩnh chỉ huy phá vòng vây theo 3 hướng và cuộc nội chiến mà Trung Cộng cũng như nhân dân Trung Quốc tìm mọi cách ngăn chặn cuối cùng đã bùng nổ. Tuy nhiên, Chu Ân Lai vẫn liên tục điện về Diên An đề xuất: “Tình thế hiện nay vừa đánh vừa đàm, nhưng đánh là chủ yếu”. Trong khi đó, Tưởng Giới Thạch vừa dốc quân vào nội chiến, vừa bức hại các nhân sĩ dân chủ của lực lượng thứ ba, ngày 11 tháng 7 ám sát Lý Công Phác - uỷ viên Trung ương Đồng minh Dân chủ, tiếp đến ngày 15 lại là Văn Nhất Đa, cũng trung uỷ của tổ chức này. Tôi hộ tống đưa Chu Ân Lai đi gặp Marshall - đại diện phía Mỹ, ông phản đối:
- Quốc dân đảng dùng vũ lực đánh Trung Cộng, chúng tôi có quân đội của mình nên chẳng nói làm gì, nay họ thảm sát cả Đồng minh Dân chủ, những nhân sĩ tay không tấc sắt, thật là hành động phát xít... - Nói đến đây, mắt Chu Ân Lai đỏ hoe và không ngăn nổi dòng lệ tuôn trào, ông khóc cho đồng bào của mình trong cảnh nồi da xáo thịt, khóc trước một người nước ngoài.
Mấy hôm sau, Đào Hành Tri, một trung uỷ nữa của Đồng minh Dân chủ vì uất ức, chảy máu não và qua đời. Chu Ân Lai và Đặng Dĩnh Siêu đến thăm Đào tiên sinh lúc lâm chung, nắm bàn tay khô lạnh vàng nghệ của người sắp khuất, Chu Ân Lai nước mắt giàn giụa an ủi: sự nghiệp của tiên sinh sẽ do bạn bè và hậu thế kế tục, xin tiên sinh hãy an lòng. Tháng 10 năm ấy (1946), Tưởng Giới Thạch đánh chiếm Trương Gia Khẩu, Trường Xuân, An Đông, Tô Bắc và Sơn Đông, cả một vùng đất đai rộng lớn, và mở “nguỵ quốc đại” - quốc dân đại hội mà không có Trung Cộng và lực lượng thứ ba tham gia. Ngày 28 tháng 10, tổng thư ký của Đồng minh Dân chủ là Lương Thấu Minh bỗng đưa ra phương án đình chiến theo hiện trạng rất bất lợi cho phía Trung Cộng chúng tôi. Chu Ân Lai bàng hoàng vì mới đây thôi, ông vừa ký cùng Đồng minh Dân chủ một “hiệp định quân tử” cam kết sẽ thống nhất hành động phối hợp đối phó với Quốc dân đảng, thế mà nay Lương Thấu Minh không hề trao đổi gì cả, đã đơn phương trao phương án cho Marshall và Quốc dân đảng. Chu Ân Lai gặp Lương Thấu Minh, với một giọng nói đau xót, ông trách móc Lương:
- Tiên sinh không cần giải thích gì nữa, trái tim tôi đã tan nát mất rồi. Quốc dân đảng áp bức chúng tôi, thôi cũng đành mội lẽ, nay đến như lực lượng thứ ba - Đồng minh Dân chủ mà lại đi áp bức chúng tôi nữa hay sao? Làm người phải trọng chữ tín, hiệp nghị của chúng ta tiên sinh vứt đâu? Lâu nay chúng tôi một lòng đoàn kết với tiên sinh, nay chúng tôi lâm nguy, tiên sinh không những không giúp đỡ, ngược lại còn... các người thật không đáng bạn bè!
Nói đến hai chữ “bạn bè”, bỗng Chu Ân Lai oà khóc, ông khóc trước mặt kẻ phản bội, có gì hèn yếu lắm không? Hoàn toàn không, bởi ông tiếc nuối về một niềm hy vọng từng ấp ủ bấy lâu, nay tan vỡ như những quả bóng bọt. Lịch sử đã không phụ lòng Chu Ân Lai, ngoại trừ một vài người bội bạc như Lương Thấu Minh, còn đại đa số nhân sĩ Đồng minh dân chủ đã tuyên bố kiên quvết không tham gia quốc dân đại hội độc đảng của Tưởng Giới Thạch, vì vậy mới có tên gọi “nguỵ Quốc đại”.
Tôi đã kể những lần khóc than của Chu Ân Lai, vì người thân, vì bạn bè đồng chí, vì nhân dân đồng bào và vì cả sự vô mộng, thất vọng, nhưng có lẽ làm tôi đau đớn nhất vẫn là bao giọt lệ oan ức của ông khi phải viết kiểm thảo. Lịch sử còn ghi nhận, trên nhiều vấn đề quan trọng, ý kiến của Chu Ân Lai là chính xác nhưng không được Mao Trạch Đông tiếp nhận và do đó đành chịu phê bình. Thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, Mao Trạch Đông chủ trương “một ngựa tiên phong cả đoàn cùng chạy”, say sưa đưa ra kế hoạch với chỉ tiêu cao, xa thực tế; ngược lại Chu Ân Lai luôn nhấn mạnh cân đối, ông nói:
- Tôi là thủ tướng, qua thực tế công tác tôi nhận thấy: “một ngựa tiên phong” sẽ gây nên sự căng thẳng cho toàn cục, chỉ tiêu kế hoạch cao, xa thực tế là một sự mạo hiểm, làm kinh tế cần cân đối và ổn định mới có thể tăng trưởng được.
Chu Ân Lai và Trần Vân hô hào “chống mạo hiểm” trên báo chí, gây cho Mao Trạch Đông tức giận, ông quy kết Chu - Trần là bảo thủ hữu khuynh, dội nước lạnh lên nhiệt tình cách mạng của quần chúng nhân dân và phát động phê phán phái “chống mạo hiểm”, buộc Chu Ân Lai và Trần Vân viết kiểm điểm. Trần Vân “cáo bệnh” vào viện tĩnh dưỡng, mãi đến lúc Mao Trạch Đông nhận ra hậu quả của ba năm khốn đốn và than rằng “gia bần niệm hiền thê” (nhà túng bần lại nhớ tới vợ hiền) thì ông mới “lành bệnh” trở về làm việc. Thời gian đó Chu Ân Lai một mình đứng mũi chịu sào, ông bảo thư ký là Phạm Nhược Ngu khởi thảo bản kiểm điểm, nhưng Mao Trạch Đông không đồng ý, yêu cầu Thủ tướng phải tự mình viết để có thể “nâng cao” nhận thức.
Chu Ân Lai ngồi vào bàn làm việc, tay cầm bút, tay bóp trán, đôi lông mày nhíu lại, mắt nhìn trang giấy, nhưng vẫn thế không ra được nửa chữ, ông ném bút, nhoè mực, mấy lần xé tờ này lấy tờ khác... Thủ tướng ngồi yên như pho tượng, nước mắt giàn giụa, ông khóc cho thân phận một “sư gia” gặp phải “huyện quan” không tương xứng chăng? Tôi, chị cả Đặng, và thư ký Phạm Nhược Ngu đứng bên ngoài nhìn vào mà lòng đau như cắt, nhưng không biết làm cách gì để có thể giúp được Thủ tướng... Mãi sau, khi những nguồn tin nhân dân đói khổ dồn dập tràn về Trung Nam Hải, “khuyết điểm” chống mạo hiểm của Thủ tướng mới được giải oan, nhưng tất cả đều đã muộn...
Điều kỳ lạ mà tôi muốni nói trước khi kết thúc chương “khóc than” này là những ngày cuối đời trên giường bệnh, Thủ tướng của chúng tôi không hề nhỏ lệ, ông không tiếc thân mình hay bao dòng nước mắt của Chu Ân Lai đã cạn lâu rồi bởi nhiều điều oan trái trước đó? Có lẽ do cả hai!
Chuyện kể tới đây sẽ có người nhầm rằng Thủ tướng tôi chắc chẳng bao giờ tức giận nổi nóng, hoàn toàn không phải như vậy, bởi vì những trận lôi đình của ông từng làm chúng tôi khiếp đảm. Song đối với ông, trong các cuộc đấu trí tranh chấp cùng kẻ địch, dù phẫn nộ, giận dữ đến mấy Chu Ân Lai vẫn tỏ ra điềm tĩnh, không hề thô lỗ, đúng như người xưa răn dạy “nóng nảy mất khôn”, ông phải giữ cái đầu rất lạnh để ra đòn chính xác mà hạ gục đối phương, còn tất cả đều “nuốt” vào con tim. Sự tức giận nổi nóng mà tôi sắp kể sau đây chỉ đề cập Chu Ân Lai với bạn bè, đồng chí và những người thân cận bên ông, phần lớn ở dạng tình cảm khác thường, vẻ mặt nghiêm khắc phê bình, thậm chí là trách cứ, răn dạy. Nhiều cán bộ làm việc ở trung ương đã phát biểu rất giống nhau, “trong cuộc đời của mình, tôi chỉ sợ hai người, sợ Chủ tịch uy nghiêm và sợ Thủ tướng cẩn thận”. Người viết chuyện này có gặp một Bộ trưởng hồi thập niên 50 và hỏi ông: trong chính phủ đồng chí sợ ai nhất? - Chu Ân Lai, và không sợ ai nhất? - cũng Chu Ân Lai. Sợ Thủ tướng vì ông làm việc quá ư nghiêm túc, cẩn thận, trách nhiệm, còn “không sợ” Chu, vì ông vô cùng cao thượng, thuần khiết, chân chất, thẳng thắn và yêu người. Khi nổi giận, Mao Trạch Đông từng thét lên: “xéo”, nhưng ở Chu Ân Lai quá lắm là “xằng bậy”, “như hề” và “không cho phép làm như vậy”.
Hồi ấy, những năm đầu xây dựng nước Trung Hoa mới, có lẽ vì không khí chiến thắng hay sao mà hoạt động khiêu vũ được mọi người ưa chuộng, kể cả các vị ở Trung Nam Hải. Tôi còn nhớ, Bắc Kinh lúc bấy giờ có vài vũ trường dành riêng cho cán bộ và tướng lĩnh Trung ương, Mao Trạch Đông, Chu Đức, Lưu Thiếu Kỳ thường nhảy ở Xuân Ngẫu Trai, Chu Ân Lai lại thích Tử Quang Các và Bắc Kinh phạn điếm. Vũ điệu không phong phú như ngày nay, quanh đi quẩn lại chỉ là, “hữu nghị vũ” nhịp ba, nhịp bốn, còn vũ nữ, bạn nhảy được tuyển chọn rất nghiêm ngặt, phần lớn là nữ chiến sĩ Quân giải phóng hoặc diễn viên các đoàn văn công, ban ngày tập luvện vũ đạo, học chính trị nội quy kỷ luật, ban đêm đến vũ trường đã định cùng múa với các vị lãnh đạo. Đã là nhảy múa thì trăm người trăm tính, năm ngón tay cũng dài ngắn khác nhau, người lịch lãm với tâm hồn bay bổng, tận hưởng vẻ đẹp của âm nhạc, vũ đạo và tiết tấu, thư giãn nỗi mệt nhọc sau một ngày làm việc căng thẳng, kẻ ham vui đôi phần cuồng nhiệt, lại có gái nhảy bên mình, trẻ đẹp và lý lịch trong sạch, mắt nhìn mắt, miệng cười với miệng, lắm phe bàn tay không được thật thà cho lắm đã rời khỏi vị trí mà vũ luật quy định để tìm đến tận đâu... họ chặc lưỡi và cho rằng, âu cũng là tiêu khiển và có như vậy thì nhảy mới say.
Chúng tôi cùng Thủ tướng đến vũ trường Tử Quảng Các, chậm so với giờ khai mạc gần gũi một tiếng đồng hồ. Đêm ấy ngoài nhảy múa ra còn nghe ba ca sĩ chuyên nghiệp là Triệu Yến Hiệp, Tân Phượng Hà và Mã Ngọc Đào đơn ca. Thủ tướng tôi rất thích ca nhạc, ông để mặc đám tuỳ tùng chúng tôi với các bạn nhảy, còn mình tựa người trên ghế sofa, mắt lim dim, tay khẽ đánh nhịp, say sưa hương thụ từng giọt, từng giọt âm thanh bay bổng, du dương. Một vũ nữ mạnh dạn đến mời Thủ tướng, ông lịch lãm mỉm cười gật đầu và điệu nhảy cuốn hút họ như một làn gió xuân dịu êm. Bỗng tôi thấy mặt ông biến sắc, đang hiền hoà đôn hậu tự nhiên nghiêm nghị, lạnh tanh, ông dìu bạn nhảy ra gần cửa và khẽ nói: tôi có chút việc phải về, thôi nhé. Là nhân viên phục vụ, ngay từ khi phát hiện thấy Thủ tướng không vui, tôi dõi theo ánh mắt của ông và bắt gặp luồng sáng giận dữ ấy quét lên thân hình một cán bộ, rồi vụt tắt nơi bàn tay quờ quạng dâm loạn của y, người vũ nữ bé bỏng tội nghiệp đành thủ phận cho kẻ kia hưởng thụ mà không dám chống cự, hắn áp sát, áp sát và rất sành điệu không lỗi nhịp ba bước, bốn bước đến nỗi khó mà phân biệt bốn chân hay là hai chân. Chu Ân Lai như bị xúc phạm, không còn hứng thú gì với nhảy với múa, tôi vội vàng lục tìm áo khoác cho ông, bỗng nghe ngoài cửa có tiếng quát của Chu Ân Lai:
- Anh không còn trẻ mỏ gì nữa để mà dụ dỗ người con gái đáng tuổi cháu này.
- Cháu cảm ơn bác, thưa Thủ tướng - cô vụt chạy khỏi vũ trường và bỏ luôn cái nghề vũ nữ bạc bẽo kia. Té ra “quan phụ mẫu” chịu không nổi, liền nhỏ to, hăm doạ rồi dìu cô bé ra cửa định mang lên xe, nhưng không ngờ Thủ tướng đứng chờ tôi ở đó, ông đã cứu nguy cho cô ta và nhờ đó cho nhiều phụ nữ khác nữa...
Những “pha” như vậy thời mở cửa hiện nay không hiếm, nhưng hồi ấy là vô cùng quan trọng và bị quy kết “không nghiêm túc”, nhờ một vài lần nổi giận của Thủ tướng mà không khí các vũ trường công khai được đánh giá là lành mạnh, còn vũ hội gia đình thì khó lòng quản lý. Thuật ngữ vũ hội gia đình mới rộ lên gần đây, khi kinh tế thị trường phát triển, trên thực tế nó đã có từ lâu, từ những năm 50. Tất nhiên không phải ai cũng tổ chức được loại vũ hội này, riêng ở Bắc Kinh lúc đó hình như chỉ có Cao Cương là một. Cao Cương vốn là “ông vua” cách mạng vùng ba tỉnh Đông Bắc, nay điều về thủ đô đảm nhận chức Phó chủ tịch Chính phủ Trung ương kiêm chủ nhiệm uỷ ban kế hoạch nhà nước, có thể nói Cao đã thuộc loại chạm trần của quyền lực, ông có năng lực, gan dạ, nhiều cống hiến cho cách mạng trước đây và cho cuộc kháng Mỹ viện Triều được Mao Trạch Đông biểu dương. Đó là sở trường của Cao, còn nhược điểm, sở đoản ở ông là mê gái và phớt lờ dư luận, theo cách nói của Lâm Bưu, chẳng qua là “tiểu tiết vô hại” mà thôi. Thời Đông Bắc, Cao Cương thuộc loại nhân vật “không gật đầu thì đến ông trời cũng không dám đổ mưa”, nắm quyền sinh quyền sát, cho ai thăng quan người ấy nhờ, bắt ai giáng chức kẻ đó chịu. Lý do thật đơn giản, vương triều nào cũng vậy, lúc mới gây dựng đều phải qua giai đoạn “anh hùng trị quốc”, toàn quyền quân đội, chính quyền đảng phái tập trung vào “chư hầu” mỗi phương, họ mang sứ mệnh lịch sử có tính nhân trị trước khi lập nên nền pháp trị. Quyền lực nằm trong tay “chư hầu”, có thể bằng lý tưởng, đạo đức, kỷ cương v.v... mà tự mình hạn chế hay không. Tài ba cống hiến của Cao Cương không ai phủ nhận, và khi kháng Mỹ viện Triều, Đông Bắc và Cao Cương đều có vị trí và trách nhiệm đặc biệt. Từ một góc độ nào đó mà phân tích trục tam cực Bành Đức Hoài (Triều Tiên) - Cao Cương (Đông Bắc) và Chu Ân Lai (Bắc Kinh) những năm 50 là rất khăng khít và quan trọng, họ từng tâm đầu ý hợp cho cả cục diện Trung Quốc mà người lèo lái là Mao Trạch Đông. Nay Cao Cương về Bắc Kinh công tác, Cao - Chu vẫn gắn bó như xưa, Cao mở vũ hội, nhẽ nào Chu lại từ chối. Nhưng bản chất mê gái của Cao Cương thì khó mà thay đổi, lúc còn trị vì ở Đông Bắc mang “phí chiêu đãi” đến trận tiền “cứu chúa”, giải thoát cho ông khỏi vòng vây của bao nàng tóc vàng da trắng hám tiền mà chẳng sợ quan. Nhiều đồng chí già từng làm nhiệm vụ “cứu chữa” cho Cao Cương đã viết hồi ký kể chuyện này khá tỉ mỉ, xin miễn nhắc lại ở đây. Nhưng có điều Cao Cương lầm tưởng Bắc Kinh cũng như Đông Bắc, ngay lần đầu tiên khai trương vũ hội gia đình mà Cao mời Chu tham dự thì ông nhanh chóng lộ nguyên hình, mắt ông hau háu như gã thợ săn lập tức xói vào những nơi cong nhất, bí hiểm nhất của vũ nữ, miệng ông liên hồi phun ra bao lời gợi dục kích tình, rất thô lỗ tự nhiên, chẳng cần một loại văn chương nào che đậy. Chu Ân Lai ít nhiều dự đoán Cao Cương sẽ làm gì, nếu chỉ ngần ấy thì tạm có thể khoan dung tha thứ cho loại khuyết điểm “hủ hoá” bằng mắt và miệng, ông không thể bắt mọi người phải văn nhã, lịch lãm như mình, mỗi người trước khi đi với cách mạng đã từ nhiều ngả, nhiều nơi, giáo dục và rèn luyện hoàn toàn khác nhau, ví như Bành Đức Hoài thường gọi Cao Cương là “Cao rỗ đại ca”, Cao lấy làm thích thú và thân mật khi nghe như vậy, nhưng đối với Chu, điều đó cấm chỉ, nếu không Cao sẽ không phục Chu. Giá như Cao Cương dừng lại ở mức độ dăm ba câu bông đùa, vài đôi lần khiêu khích bằng ánh mắt cợt nhả thì chắc Thủ tướng tôi đã không nổi giận, đằng này ông tiếp tục “phóng tay” sờ mó, nắn bóp vũ nữ và cũng yêu cầu vũ nữ làm việc đó cho mình. Chàng hảo hán Thiểm Tây, “ông vua” một vùng Đông Bắc, “chư hầu” nhân trị xưa nay đã làm cho Thủ tướng tôi kinh ngạc, sau này nhiều lần ông vẫn than với chúng tôi rằng: “Cao sơn hoàng đế viễn”, lắm quan địa phương xằng bậy mà trung ương khó lòng kiểm tra kịp! Chu Ân Lai mặt mày ảm đạm cáo từ ra về, vài lần sau nữa Cao Cương lại mời, nghĩ vì đại sự không thể gây mâu thuẫn với một Phó chủ tịch chính phủ, Phó chủ tịch Hội đồng quân sự, Chủ nhiệm uỷ ban kế họạch nhà nước nên Chu đành phải đeo mặt nạ đến dự vũ hội gia đình ở Cao công quán. Mức độ “vui vẻ” của Cao ngày một gia tăng, và đêm hôm ấy Chu dìu bạn nhảy ra gần cửa, vẫn câu nói xưa “tôi có chút việc phải về, thôi nhé” cáo biệt với cái trò nhảy múa của Cao Cương, Thủ tướng tôi hoàn toàn nổi giận, và về sau ông kiên quyết đấu tranh với Cao, chứ không thể xem đó là “tiểu tiết vô hại” như kiểu Lâm Bưu thường nguỵ biện. Truyện "28 Ngày Đêm Quyết Định Vận Mệnh Trung Quốc " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Năm 1955, Chu Ân Lai bay qua Cairo để đến Alger dự hội nghị Á Phi. Trước khi máy bay hạ cánh tại phi trường Cairo tiếp nhiên liệu, Chu Ân Lai nhận được điện báo về cuộc đảo chính quân sự ở Alger, ông liền xin Mao Trạch Đông và Trung ương cho phép thay đổi kế hoạch, ở lại Cairo viếng thăm ngoại giao, quan sát tình hình diễn biến đảo chính, xem thử hội nghị Á Phi có tiếp tục họp ở Alger nữa hay không. Trung Cộng đã đồng ý đề nghị của Chu. Ngoại trưởng Trần Nghị đi tiền trạm nên gặp đúng cuộc đảo chính xảy ra ở Alger, nhiều đoàn cũng đến sớm như thế và rất lo lắng liệu hội nghị sẽ tiến triển ra sao. Trần Nghị vốn người ngay thẳng, bộc trực nên có biệt hiệu “thùng pháo”, hễ đã nổ là liền một mạch cho đến viên cuối cùng, ông thấy các đoàn thắc mắc băn khoăn và điểm pháo luôn:
- Hội nghị Á Phi lần này nhất định vẫn khai mạc theo kế hoạch đã định. -Trần Nghị nói như đinh đóng cột, không còn “chỗ” để hiệu đính nếu vạn nhất có sai sót.
Quả nhiên do tình thế thay đổi, lòng người xáo động, ý kiến không nhất trí, hội nghị Á Phi lần ấy không thể nào họp ở Alger vừa qua đảo chính, các đoàn lần lượt ra về, Chu Ân Lai cũng rời Cairo bay về Bắc Kinh. Câu nói của Ngoại trưởng Trung Quốc đã hoàn toàn sai, khiến cho Chu Ân Lai vô cùng tức giận Trần Nghị, ông phải kêu lên: “Xằng bậy, thật là xằng bậy”.
Trần Nghị biết mình có sai lầm nên chủ động đến gặp Chu Ân Lai, ông hỏi cảnh vệ:
- Thủ tướng đang làm gì?
- Dạ báo cáo đang đợi đồng chí Ngoại trưởng và có vẻ rất bực tức ạ!
Trần Nghị là người dám làm dám chịu, tuy lính tráng cáo trạng lên như vậy nhưng ông vẫn bình tĩnh tiến thẳng vào Tây Hoa sảnh - văn phòng của Chu Ân Lai - và với tư thế con nhà binh, ông hô:
- Báo cáo Thủ tướng, tôi có mặt! - Hình thức võ quan này, Trần Nghị chỉ áp dụng khi gặp Mao Trạch Đông; với Chu Ân Lai ông tỏ ra thân mật và văn nhã hơn, nhưng hôm nay Trần phá lệ vì sợ Chu Ân Lai đập bàn, quát nạt.
- Đồng chí Trần Nghị, đồng chí thật vô tổ chức, vô kỷ luật. - Đôi mày sậm đen của Chu Ân Lai nhíu lại, ông bước về phía Trần Nghị như muốn có một động tác gì đó, bỗng ông dừng chân, nhìn Trần, rồi quay về bàn làm viêc. Chúng tôi tưởng Thủ tướng sẽ đập bàn phẫn nộ như vừa mới phê bình một vị đại tướng, nhưng ông chỉ gõ nhẹ ba tiếng và với lời nghiêm khắc nhất trong từ điển mắng chửi của mình, Chu Ân Lai dằn từng chữ: Truyện "28 Ngày Đêm Quyết Định Vận Mệnh Trung Quốc " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
- Không cho phép làm như vậy!
- Tôi sai, xin kiểm thảo với Thủ tướng.
- Không phải với tôi, mà với Mao Trạch Đông, với Trung ương!
- Vâng, Trần Nghị tôi rõ và xin chấp hành!
Đó là lần đầu tiên Chu Ân Lai nổi nóng với Trần Nghị Và cũng là lần cuối cùng vị nguyên soái mang áo ngoại giao không gây âu lo cho Thủ tướng, họ như cặp bài trùng, bổ sung cho nhau trên mỗi cuộc cờ trong và ngoài nước.
Lại vẫn những ngày tháng người lính vừa nắm chính quyền, chuyện ấu trĩ tất nhiên đã xảy ra và thường làm cho Chu Ân Lai bực tức nổi giận, nhưng ông phải ra tay chèo chống vì biết rằng “trăm dâu đổ đầu tằm” và mình là người quản gia, không còn ai vào đó nữa... Ba giờ chiều hôm ấy, Chu Ân Lai tiễn hoàng thân Sihanouk về nước, cùng ra sân bay với ông là La Thuỵ Khanh, Lưu Á Lầu và nhiều tướng lĩnh cao cấp khác, và cũng đúng ba giờ thì trận bóng đá giữa hai đội tuyển Trung Quốc và Indonesia sẽ diễn ra trên sân vận động Tiên Nông Đàn. Sau những cái bắt tay, ôm hôn, từ biệt hoàng thân Sihanouk bước lên cầu thang vẫy chào đi vào khoang máy bay, cửa vẫn chưa đóng, ngay lúc ấy nhiệm vụ ngoại giao xem như đã hoàn thành, các vị tướng lĩnh ra hiệu cho nhau lần lượt “chuồn” dần ra cổng để lên xe tiến về Tiên Nông Đàn. Chu Ân Lai đứng yên dõi nhìn chiếc máy bay cất cánh và quay lại ra lệnh cho tôi: đóng chặt tất cả các cửa ra vào sân bay, ai hỏi vì sao thì trả lời Thủ tướng chỉ thị! Đám cổ động viên bóng đá lững thững quay lại. Ngay trên phi trường, các vị được Chu Ân Lai cho một bài học về phép tắc ngoại giao đưa đón khách và cộng thêm điều lệ bộ binh, tướng chưa rút mà quân đã bỏ chạy cả sao? Tất cả những bài học này các vị đều đã thuộc, nhưng hôm nay cố tình “chây lười”, Chu biết vậy và nói nhanh trong vòng 15 phút, rồi tuyên bố: phạt các anh nửa hiệp một, hãy mau về Tiên Nông Đàn, những bất ngờ đang đợi khán giả...
Làm tôi sợ đứng tim chính là lần Chu Ân Lai mở tiệc chiêu đãi Thủ tướng Nehru tại Hoài Nhơn Đường, khách chủ vừa đứng lên cụng ly, rượu chưa chạm môi thì điện vụt tắt, cả Hoài Nhơn Đường tối đen như mực. Kẻ xấu đã tung tin đó là điềm gở báo hiệu quan hệ Trung - Ấn sắp đi vào thòi kỳ u ám. Nhưng cũng may sau giây lát đèn sáng trở lại. Chu Ân Lai xem như không có chuyện gì xảy ra, thù tiếp khách quý một cách ân cần. Tiệc tàn, tiễn Nehru lên xe. Chu Ân Lai quay về văn phòng Tây Hoa sảnh phê duyệt văn thư cho ngàv mai, tôi tưởng mọi việc thế là xong, nào ngờ đúng ba giờ sáng Thủ tướng ra lệnh triệu tập họp khẩn cấp, bao gồm Bộ Ngoại giao, Văn phòng Trung ương Đảng, Chính phủ Bắc Kinh, Cục điện lực v.v... hệ thống điện thoại đồng khởi làm việc và câu cuối cùng không sót vang lên đầu giây đằng kia - thủ tướng căn dặn tuyệt đối đúng giờ. Tất cả đều phải vùng; dậy rời khỏi chăn êm đệm ấm và nhớ đời cái tội làm mất điện ở Hoài Nhơn Đường đêm đó!
Về sau, mỗi lần khách nước ngoài đến thăm, gặp dịp hội đàm, chiêu đãi, người ta thường nhắc lại điển tích “hội nghị lúc gà gáy” và lo lắng chu toàn mọi bề hậu cần.
Phần tôi, trước gọi là “phó quan” của Chu Ân Lai, sau cách mạng đổi thành “thư ký hành chánh”, một lần Thủ tướng đi công tác nước ngoài, tôi xin phép ở nhà sửa chữa lại tư thất cho ông, kẻo ẩm thấp và hư hỏng quá nhiều. Tất nhiên, công việc sửa chữa nhà cửa tôi đều thỉnh thị ý kiến chị cả Đặng và các đồng chí khác như Đồng Tiểu Bằng chẳng hạn; nhưng khi từ nước ngoài trở về, Chu Ân Lai vào phòng và lập tức quay ra, ông nói: Đây không phải là nhà của tôi - rồi một mạch bảo lái xe đưa đến văn phòng Tây Hoa Sảnh, Thủ tướng ăn ở tại đó. Tôi hoảng quá và không dám để chị cả Đặng và Đồng Tiểu Bằng liên luỵ nên nhận hết trách nhiệm về mình, nhờ Trần Nghị can thiệp, nhưng Thủ tướng nhất mực yêu cầu trở lại nguyên trạng! Thôi đành vậy, tôi cho người mang trả tất cả gia cụ về kho nhà nước và xin ông giữ phần gỗ sàn, xi măng vôi vữa sả tường và những nước sơn mới quét. Thủ tướng ân cần bảo tôi: Chú Hà, tôi không làm khó dễ cho chú, nhưng chúng ta phải nêu gương. Chú thử nghĩ, tư thất của Thủ tướng tiên phong tân trang, thì sau đó là Bộ trưởng, thứ trưởng, chủ nhiệm, phó chủ nhiệm v.v... sẽ lần lượt nối đuôi theo, nhà nước còn nghèo, biết lấy tiền đâu cho đủ? Tôi im lặng nhận “lỗi”, Thủ tướng trở về và ít ra sàn nhà bằng gỗ đã bớt ẩm thấp rất nhiều, góp một phần nhỏ bé giữ gìn sức khoẻ cho ông.
29.07.2014
Phần VI - Chương 6
SÁU VĂN PHÒNG
Dịch giả: Thái Nguyễn Bạch Liên
Nguồn: NXB Cà Mau
Nội dung thu gọn
Nhiều nhân vật nổi tiếng trên thế giới đã nghiên cứu và bình chọn Chu Ân Lai là người bận rộn và nhiều việc nhất của hành tinh chúng ta. Nhận định ấy không hề khoa trương chút nào, bởì vì những gì mà mấy chục năm qua thủ tướng để lại quả là một chứng minh hùng hồn. Tinh thần cống hiến và tài trí thông tuệ hơn người của Chu Ân Lai nhiều sách báo trong và ngoài nước đều đề cập, ở đây xin không nhắc lại, tôi chỉ muốn dành chương này để kể về “sáu văn phòng” của Thủ tướng. Thuật ngữ “văn phòng” anh chị em thư ký chúng tôi sử dụng bấy lâu hoàn toàn khác hẳn với một không gian nào đó ở Tây Hoa sảnh, Đại lễ đường Nhân dân, Điếu Ngư Đài hoặc Tân Lục Sở v.v.. mà do quan sát quy luật sinh hoạt và làm việc của Thủ tướng nên chúng tôi đã đặt tên như vậy, cũng là loại “tiếng lóng” để “che mắt” mọi người bớt “quấy rầy” ông. Truyện "28 Ngày Đêm Quyết Định Vận Mệnh Trung Quốc " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
“Văn phòng thứ nhất”, xưa dùng từ thô thiển, ngày nay văn minh hơn gọi là phòng vệ sinh, phòng rửa tay, phòng tắm v.v.. Lịch sinh hoạt hàng ngày của Thủ tướng, mở mắt tỉnh dậy là đi nhà vệ sinh và cũng bắt đầu làm việc ngay tại đó, nên chúng tôi mới dám đặt tên “thứ nhất”, hay nói gọn hơn “văn phòng 1”.
Năm 1940, tôi được điều về Trùng Khánh phục vụ Chu Ân Lai, “văn phòng 1” của ông còn rất thô sơ, chúng tôi chọn một góc vườn cách nhà khoảng hơn 10 mét, làm cái lều, đào lỗ, đặt hai hòn gạch. Mỗi sáng trở dậy, Thủ tướng tôi cầm tập sách báo đêm qua để sẵn đầu giường và đi ra “văn phòng 1” vừa “làm việc”, vừa xem tin tức, một ngày bận rộn của ông đều bắt đầu như vậy. Do nhiều nguyên nhân về thể trạng, thời gian đi vệ sinh của Thủ tướng tương đối dài không giống những người “tốc chiến tốc thắng” 3 phút là xong, mà nhanh thì nửa giờ, hoặc chậm phải đến cả tiếng, cho nên không làm việc kể cũng uổng, một đời hẳn không biết bao nhiêu là ngày tháng. Thời lượng công tác ở “văn phòng 1” của Thủ tưóng hoàn toàn do tình trạng sinh lý của hôm ấy quyết định, thường thường hai việc đều hoàn thành một lúc. Thoạt đầu Thủ tướng đọc các điện khẩn đêm qua truyền về, rồi xem báo hàng ngày vừa ra sáng nay. Cũng có lúc, chắc bạn sẽ ngạc nhiên hoặc mỉm cười không tin, vâng, cũng có lúc tại “Văn phòng 1” Thủ tướng vừa xem văn thư, vừa nghe chúng tôi báo cáo tình hình, vừa ra chỉ thị và vừa “làm cái việc ấy” nữa.
Trường hợp văn thư sách báo đã xong mà “công việc” vẫn chưa hoàn thành triệt để, Thủ tướng gọi chúng tôi bổ sung kế hoạch. Nhiều thầy thuốc lo ngại, hay là vì Thủ tưóng có thói quen đọc sách báo khi đi vệ sinh nên bị ức chế mà kéo dài thời gian như vậy và sử dụng các biện pháp y học, nhưng đều vô hiệu, cuối cùng đành chấp nhận để Thủ tướng làm việc ở “văn phòng 1” vì đối với ông thời gian là châu báu.
Ngày đầu tiên nhận việc phục vụ Chu Ân Lai, tôi đã trình diện ông tại “văn phòng 1”.
- Đồng chí tên là Hà Thụ Anh?
- Dạ vâng, thưa Chu phó chủ tịch.
- Ở đơn vị nào điều về?
- Lữ đoàn 385.
- A, đồng chí là lính của Phương diện quân số 4.
Tôi lấy làm xấu hổ vì mình là lính của Phương diện quân số 4 do Trương Quốc Đào chỉ huy, đi đến đâu cũng mang tiếng không tốt đẹp gì. Hình như biết tôi lúng túng, Chu Ân Lai cười vang:
- Trương Quốc Đào không tốt, nhưng sĩ tướng của Phương diện quân số 4 đâu phải là xấu, Trung ương đều rất tín nhiệm các đồng chí, ông ấy đã không biết đánh trận mà lại còn thọc tay tận xuống cấp tiểu đoàn, cho nên cơ sự mới ra nông nỗi này. - Nói đến đây Chu Ân Lai lắc đầu và tiếp tục bảo tôi: - Hoan nghênh đồng chí Hà về công tác cùng chúng tôi.
Từ hôm ấy, Chu Ân Lai không hề nhắc tới mấy chữ “Phương diện quân số 4” nữa, tôi liên tục được thăng chức “phó quan” lên thư ký cơ yếu, rồi vệ sĩ trưởng v.v... mà điểm bắt đầu là “văn phòng 1” của Thủ tướng.
Thời kiến Quốc, về thành phố, tiện nghi của “văn phòng 1” được hoàn thiện dần, tư thế ngồi xổm thay vì ngồi bệt nên đỡ tê chân, và “hiệu suất” làm việc nâng lên rõ rệt, lúc này tuổi tác của Thủ tướng cũng đã cao, công việc của một đất nước đến cả tỷ dân cũng nhiều vô kể, chúng tôi ai cũng chợt nghĩ, cứ mà kéo dài mãi cơ sở vật chất loại “văn phòng 1” như ở Trùng Khánh thì thật là gay go. Tất cả đám thư ký chúng tôi đều tôn trọng tập quán làm việc tại “văn phòng 1” của Thủ tướng, bởi vì người Trung Hoa chúng tôi có câu “Nhất niên chi kế tại dư xuân, nhất thiên chi kế tại dự thần” - mọi việc của một ngày đều bắt đầu từ buổi sáng, cũng như mọi kế sách của cả năm hầu như sẽ đến tự mùa xuân, và “tranh nhau” đưa phần việc mà mình phụ trách “xếp hàng” tại “văn phòng 1” để được Thủ tướng phê duyệt trước. Thủ tướng thường đi ngủ vào lúc 3 giờ sáng và thức dậy khoảng 7 giờ, trong khoảng 3, 4 tiếng đồng hồ ấy biết bao chuyện đã xảy ra ở Trung Quốc và trên thế giới mà Chu Ân Lai không thể không biết, do đó chúng tôi phải kịp thời báo cáo ông ngay ở thời khắc bắt đầu của một ngày công tác, địa điểm chỉ có tại “văn phòng 1” là thuận lợi nhất. Thủ tướng vừa bước chân vào “văn phòng” là anh em chúng tôi theo sát sau lưng nhẹ nhàng đặt tất cả điện khẩn, công văn khẩn, báo cáo khẩn lên một cái đôn thấp bố trí bên cạnh chỗ “làm việc” để Thủ tướng với tay lấy xem dễ dàng. Nhiều năm quan sát, tôi thấy đây là thời điểm mà Thủ tướng làm việc hưng phấn nhất, hiệu suất cao nhất và quả là ông có 3 cái đầu cùng đồng thời động não, mắt đọc điện báo văn thư rồi cẩn thận phê ghi ý kiến rõ ràng và dễ hiểu cho người thực hiện, tai nghe anh em chúng tôi báo cáo những vấn đề thuộc lĩnh vực khác vừa thu thập qua điện thoại không có văn bản và miệng phát ra những chỉ thị mà hồi đêm Thủ tướng đã “nhất dạ sinh bách kế”, sáng ra phải truyền đạt ngay cho thư ký. Trong kho lưu trữ của nhà nước, hằng hà sa số văn bản còn giữ lại đều có bút tích của Chu Ân Lai phê ghi lúc bình minh ngay ở “văn phòng 1” này.
Có một lần Liêu Thừa Chí vội vàng tìm gặp Thủ tướng, nhưng trực ban đã nói với ông:
- Chương trình làm việc hôm nay của Thủ tướng sắp xếp kín cả rồi, không còn chỗ trống để chen vào báo cáo của đồng chí.
- Việc này khẩn cấp lắm, không gặp Thủ tướng là không xong - Liêu Thừa Chí hốt hoảng hỏi: - Thế Thủ tướng ở đâu?
- Dạ đang đi cầu ạ!
- A, “văn phòng 1” - Liêu Thừa Chí mừng rỡ chạy thẳng vào nhà vệ sinh làm việc với Thủ tướng và từ hôm đó “văn phòng 1” bị lộ, các đồng chí Trung ương nhanh chóng phổ biến kinh nghiệm cho nhau rồi lần lượt xộc đến đây giải quyết công việc khẩn cấp. Thủ tướng bảo chúng tôi chuẩn bị thêm vài cái ghế để các Bộ trưởng, thứ trưởng cùng ngồi bàn bạc cho tiện, tất nhiên các đồng chí nữ thì phải truyền đạt bắc cầu, gián tiếp qua anh em nam chúng tôi. Thật khó mà tưởng tượng nổi, công việc của một chính phủ, của một quốc gia lại được thực hiện ở trong loại “văn phòng” như vừa kể, vấn đề rất nghiêm túc và được giữ kín mấy chục năm nay, người bên ngoài cũng chỉ hiểu “văn phòng 1” là một nơi nào đó mà thôi, quan trọng nhất vẫn là những sản phẩm đưa ra từ nơi ấy và Thủ tướng không hề câu nệ, người ở đâu, bàn làm việc và văn phòng ở đó. Xong việc ở “văn phòng 1” đi ra, nếu không có vấn đề gì quan trọng phải điện thoại xin ý kiến của Mao Trạch Đông, Thủ tướng dành 5 phút tập bài thể dục do ông tự biên soạn và sau đó bước vào “văn phòng thứ hai”.
Chúng tôi gọi bàn ăn chứ không phải nhà ăn là “văn phòng thứ hai” của Thủ tướng, vì ông ngồi ăn chỗ nào thì chỗ ấy lập tức trở thành bàn làm việc, ngay cả nơi yến tiệc. Nhưng tục ngữ có câu “trời đánh còn tránh bữa ăn”, việc khẩn cấp đều đã giải quyết ở “văn phòng 1” rồi, nên anh chị em chúng tôi cam kết không được quấy rầy Thủ tướng lúc này, để ông ăn ngon miệng, tiêu hoá tốt, đảm bảo sức khoẻ. Mặt khác chị cả Đặng cũng căn dặn: “Các đồng chí những 20 thư ký, nếu cứ luân phiên quần thảo thì có ngày Thủ tướng sẽ tắt thở ngay trong bữa ăn đó”, cho nên khi sắp xếp lịch làm việc cho Thủ tướng, chúng tôi đều để trống lúc ăn cơm, còn lại là chằng chịt, chi chít công việc. Ngày 20 tháng 1 năm 1981, chị cả Đặng mang tới Văn phòng Trung ương đảng 26 cuốn lịch công tác của Chu Ân Lai trong hơn 26 năm qua, Hồ Diệu Bang là Tổng bí thư lúc bấy giờ đã tiếp nhận di sản quý báu đó của Thủ tướng, phải nói chính xác là 26 cuốn lẻ 8 tờ ghi đầy đủ từng phút từng ngày những việc Chu đã làm kể từ đầu năm 1950 cho đến hôm mồng 8 tháng 1 năm 1976 - lúc ông qua đời, trong đó chúng ta có thể tìm thấy khá nhiều công việc giải quyết tại bàn ăn - “văn phòng 2”.
Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai đều có một thói quen ăn uõng không theo một quy luật nhất định và miệng nhai nhưng mắt không rời trang chữ, tuy vậy giữa hai người có điểm khác nhau. Khi sang Liên Xô hội đàm với Stalin, Mao Trạch Đông mang theo một đám quân sư, bộ hạ đều làm công tác nghiên cứu triết học, nên lúc bàn vào vấn đề sản xuất, xây dựng kiến thiết, công trình viện trợ v.v... các đồng chí này trình bày không mấy rõ ràng, Stalin bèn nói với Mao Trạch Đông: “Về kinh tế, đồng chí cho gọi Chu Ân Lai sang, như vậy hội đàm sẽ có kết quả hơn”. Được lệnh, Chu Ân Lai và đoàn chuyên gia kinh tế liền ứng viện, Mao Trạch Đông cười và nói với Stalin rằng: “Hôm nay thì chúng tôi có đầy đủ binh mã, vừa thượng tầng kiến trúc vừa hạ tầng cơ sở kinh tế”, quả nhiên đàm phán Trung - Xô đi đến ba hiệp định, đạt yêu cầu của Mao triết gia “đẹp một tí và cũng ngon một tí”. Làm triết học nhiều lúc có thể thoát ly sự ràng buộc của sự vụ cụ thể, nhưng đối với kinh tế thì không như thế được, cho nên lúc ăn cơm Chu Ân Lai xem sách báo, văn kiện và phải hạ bút phê ghi rất chi tiết, cẩn thận, còn Mao Trạch Đông thì gật gù suy ngẫm sẽ tán đồng hoặc sẽ phản đối. Truyện "28 Ngày Đêm Quyết Định Vận Mệnh Trung Quốc " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Ăn sáng xong, Thủ tướng nhanh chóng đi vào văn phòng thứ ba, ông vội vàng đến mức nước súc miệng nhổ vào ống nhổ ở văn phòng này, chứ không phải bên nhà ăn. Tôi không mở ngoặc kép cho mấy chữ văn phòng thứ ba vì đó là nơi làm việc thông thường mà ai cũng biết, đơn sơ, bài trí nhẹ nhàng với bức tượng thạch cao bán thân hình hài chủ tịch, các tuyển tập, trước tác của Mác, Ănghen, Lênin, Stalin và Mao Trạch Đông, ngoài ra là loại sách công cụ Từ nguyên, Từ hải dùng để tra cứu. Chu Ân Lai thường triệu tập các vị phó thủ tướng, Bộ trưởng, chủ nhiệm uỷ ban đến đây trao đổi ý kiến hay hội nghị. Bàn làm việc của Thủ tướng tôi ngày nào cũng chất cao công văn giấy tờ. Ông có “tam bảo văn phòng”, thứ nhất là ống vải bảo hộ tay áo, Chu Ân Lai cần mẫn như một người thợ sắp chữ hoặc như một công chức luôn phải cạo giấy, trước khi ngồi vào bàn cẩn thận mang hai ống này vào hai tay vừa giữ cho tay áo sạch sẽ, vừa bảo vệ nơi khuỷu tay lâu sờn, thứ hai - kính lão và thứ ba - lọ dầu gió. Hồi chưa sản xuất máy điều hoà không khí, phòng làm việc của Thủ tướng phải dùng quạt điện và lò sưởi than, tuy có hơn nhà hầm ở Diên An nhưng không được đông ấm hè mát một cách tự nhiên như kiểu ở vào hốc núi trên cao nguyên hoàng thổ. Công việc đầu tiên của Thủ tướng là phê duvệt văn kiện và sau đó tiếp đến các hoạt động ở bên ngoài như hội nghị, thuyết trình, đón khách, đi kiểm tra, thị sát, tới khoảng 10 giờ tối thì không khí ở Tây Hoa Sảnh mới thực sự rộn rịp, khẩn trương, xe đưa Thủ tướng trở về và nghe tiếng húng hắng là chúng tôi nhận ra ngay Chu Ân Lai. Ngày xưa khi còn hoạt động bí mật, ông thường ám hiệu bằng cách húng hắng ho, lâu dần thành thói quen không sửa được, và nay có thể thay cho việc ấn chuông. Toàn bộ đám thư ký trình lên các báo cáo vừa thu thập trong ngày và Thủ tướng lại vào bàn, đeo mục kỉnh, mang ống vải bảo hộ tay áo, bắt đầu làm việc ca 3. Sức hoạt động của Chu Ân Lai thật là phi thường, không chỉ về mặt số lượng mà chủ yếu ở nơi chất lượng, chúng tôi thường chứng kiến các điệp khúc như sau: Truyện "28 Ngày Đêm Quyết Định Vận Mệnh Trung Quốc " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
- Báo cáo này nhận từ lúc nào?
- Thưa Thủ tướng buổi trưa ạ.
- Sao bây giờ mới trình?
- Dạ lúc ấy Thủ tướng đang bận.
- Không cho phép làm như thế, tôi đã nhắc các đồng chí nhiều lần rồi, có việc quan trọng là phải báo cáo ngay cho Chủ tịch, vậy mà các đồng chí để trễ cả nửa này. - Thủ tướng vừa răn dạy, vừa xem báo cáo và nhanh chóng phê ghi rồi giao cho thư ký thực hiện tức thì trong đêm ấy, đoạn ông hạ giọng ân cần bảo ban: - Các đồng chí đừng sợ tôi bận, những vấn đề khẩn cấp, dù tôi đang ngủ hay đang họp hành gì đó đều phải kịp thời báo cáo. Nhưng có lẽ điều làm chúng tôi sợ nhất là khi nhận những báo cáo bất thành văn tự của Bộ trưởng, thứ trưởng mà cứ thế trình lên Thủ tướng, thì trận “lôi đình” không biết sẽ đi đến đâu - Văn vẻ như thế này, các đồng chí đã không sửa lại còn đùn đẩy lên tôi - Nhiều thư ký biện bạch: - Dạ thưa dó là do Bộ trưởng viết ạ. Thủ tướng phán ngay: - Thế trong cái văn phòng này, ai chịu trách nhiệm với tôi? Bộ trưởng hay đồng chí? Xem những bảo cáo như vầy quả là lãng phí thời gian.
Thủ tướng tôi cẩn thận đến mức văn tự, chữ nghĩa nào chưa rõ đều tra khảo Từ hải, Từ nguyên, thậm chí lật cả Từ điển Khang Hy, những câu, những đoạn viện dẫn phải trích theo nguyên tác có đầu có đuôi... Tội nghiệp, có hôm Thủ tướng kéo thước tính logarit để dò và kiểm tra từng con số, chúng tôi phải kêu lên: - Thủ tướng không tin các bộ tính toán hay sao? Ông giải thích: - Tôi ký thì dễ, ngoáy bút là xong, nhưng đây là quốc kế dân sinh, sai một ly đi một dặm, sẽ lãng phí mồ hôi, nước mắt và máu của nhân dân, có thể nói “ngàn cân treo đầu ngòi bút này”... Thủ tướng cẩn thận một cách cực đoan, nhiều lúc ông đã than rằng, “tôi như ông thầy dạy văn, ngày ngày phải chấm luận, sửa bài”, đó là cách nói hình tượng của Thủ tướng, còn đối với chúng tôi, Chu Ân Lai như một nhà điêu khắc, như một thợ thêu, cần mẫn gọt dũa, cần mẫn chọn chỉ chọn màu tạc nên, dệt lên những tác phẩm bất hủ...
- Ân Lai anh, đứng dậy vận động tí đã! - Lời nhắc nhở nhẹ nhàng ấy của chị cả Đặng vẫn thường đêm văng vẳng ngoài hành lang. Phòng làm việc của Chu Ân Lai có 3 chìa khoá, một giao cho trực ban cảnh vệ, một giao cho trực ban thư ký và một do ông giữ. Đặng Dĩnh Siêu không cầm cái nào và không hề bước chân vào căn phòng này. Hơn thế nữa, nguyên tắc không can dự đến công việc của Thủ tướng đã trở thành “hiệp nghị hôn nhân” từ lâu giữa hai người, vì vậy mà chị cả Đặng chỉ có thể đứng ngoài hành lang khẽ nhắc vào.
- Anh sẽ vận động, Tiểu Siêu về nghỉ đi! - Chu Ân Lai rời khỏi ghế ngồi, vươn vai và đi lại trong phòng, một cách tập thể dục giữa giờ, sau đó tiếp tục làm việc, mãi tới lúc “cho tôi cái khăn nóng” thậm chí “cho mình điếu thuốc” thì ông mới về phòng ngủ - “văn phòng thứ tư”.
Trên giường ngủ, Chu Ân Lai vẫn làm việc, vẫn “tam bảo văn phòng”: cây bút chì xanh đỏ, mục kỉnh lão và lọ dầu gió. Thủ tướng để văn kiện bên cạnh người, nằm đọc, lúc cần phê ghi thì bắt chân chữ ngũ, kê tờ giấy lên đầu gối mà viết. Anh em chúng tôi thấy vậy bèn làm cho ông tấm bìa cứng, nhưng cũng cứ mỏi chân, về sau chị cả Đặng gọi thợ mộc thiết kế và đóng cho Thủ tướng cái bàn đặc biệt nằm nghiêng có thể phê ghi được, điều kiện làm việc ở “văn phòng 4” từ đó được cải thiện hơn. Chiếc bàn độc nhất vô nhị ấy hiện còn giữ gìn và trưng bày ở Bảo tàng Cách mạng Trung Quốc. Những năm 60, Thủ tướng mắc chứng đau tim, tại “văn phòng 4” này còn phải chuẩn bị thêm những lọ thuốc trợ thủ giảm cơn đau. Vào thời kỳ kinh tế khó khăn, các đồng chí lãnh đạo trung ương kiên trì không ăn thịt và trứng, còn lương thực thì theo định lượng. Thủ tướng lại phải làm việc mỗi ngày liên tục 17 tiếng đồng hồ, vào đến “văn phòng 4” ông mệt nhoài sóng sượt, nhưng vẫn không bỏ thói quen làm việc, ai khuyên can, Thủ tướng tôi cũng chỉ mỉm cười, gật đầu và rồi lại đọc, lại ghi.
Anh chị em thư ký chúng tôi bàn cách đối phó và nhất trí cử Trịnh Thục Vân - nữ y tá vừa đưa thuốc cho Thủ tướng, vừa “đứng vạ”, khi nào ông đi ngủ thì mới ra khỏi phòng.
Trịnh Thục Vân 15 tuổi tòng quân, 18 tuổi vào Trung Nam Hải và phục vụ Thủ tướng mãi cho đến ngày ông tạ thế. Nằm trên giường bệnh, Chu Ân Lai đã an ủi Thục Vân: “Bác chứng kiến cả một quãng đời từ a hoàn tóc đen trở thành a hoàn tóc trắng của cháu ở chốn Trung Nam Hải này và ngẫm ra, thời gian không tha thứ cho bất kỳ ai, phải không Thục Vân?”. Những năm 50, lúc hội đàm Trung - Mỹ ở Varsava, có ngày Chu Ân Lai làm việc liên tục 22 tiếng đồng hồ, ông ngồi lỳ ở văn phòng 3 mà không chịu về “văn phòng 4”, chị cả Đặng đi đi lại lại ngoài hành lang nhắc nhở, rồi ấn chuông nhiều lần, tất cả đều vô hiệu, bèn cử Thục Vân đưa nước trà vào cho Thủ tướng và cứ đứng vậy. Chu Ân Lai ngẩng đầu lên và hỏi Thục Vân:
- Cháu chưa về ư?
- Thủ tướng chưa đi ngủ thì nên vận động một chút. Thủ tướng chưa vận động là cháu chưa hoàn thành nhiệm vụ, Thủ tướng làm chưa xong việc chưa chịu đi ngủ, cháu cũng vậy, phải xong việc mới về được ạ!
Từ đó “Tiểu Trịnh” trở thành át chủ bài “khuyên chúa” tập thể dục giải lao, “khuyên chúa” đi nghỉ đúng giờ, nhưng túng thế lắm chúng tôi mới ngả bài “đứng vạ” của Trịnh Thục Vân. Năm 1966, lúc ngài Lý Tôn Nhân từ nước ngoài trở về, vì một số công việc xảy ra những ngày đầu Cách mạng văn hoá, Chu Ân Lai phải làm việc liên tục 60 tiếng đồng hồ, máu dồn lên mắt, đau đến mức không còn nhìn thấy gì nữa, trở về “văn phòng 4” ông vẫn không tài nào ngủ được, dựa vào thành giường vờ nhắm mắt, cũng thế, ông gọi thư ký đến bàn bạc công việc, đọc cho ông nghe các bài phát biểu tại tiệc chiêu đãi Lý Tôn Nhân, y tá vào chích thuốc yêu cầu ngừng đọc, nhưng Thủ tướng không chịu, bảo rằng: “Đồng chí nào tiêm cứ tiêm, đồng chí nào đọc cứ đọc và tôi nghe cứ phải nghe”. Sinh mạng của Chu Ân Lai cứ như vậy mà hao tổn dần, và khi “văn cách” cuốn cờ, thì mọi năng lượng vật chất ở ông cũng cạn kiệt.
“Văn phòng thứ năm” của Thủ tướng rộng mênh mông, trên rừng dưới biển, thành phố, nông thôn, nhà máy, công trường, cơ quan, trường học, đường phố, thương trường, chợ búa v.v... tất cả những nơi ông đặt chân đến trên lãnh thổ Trung Hoa bao la, cũng như đất khách quê người, bầu bạn bốn phương. Thói quen của Chu Ân Lai là yêu cầu mỗi thư ký cùng ông làm việc tại “văn phòng 5” đều viết tờ báo cáo, viết xong ông duyệt và trình về cho Mao Trạch Đông. Nội dung tờ báo cáo phải “có xương có thịt”, nghĩa là đúng thực tế, mang phong thái điều tra và toát lên cách nhìn của người viết; về hình thức cần dùng mực đậm, chữ to và chân phương, tất cả đều nhằm mục đích làm sao cho Chủ tịch dễ đọc và chấp nhận. Đó là nhiệm vụ toát mồ hôi đối với đám thư ký chúng tôi, có người đã viết đến lần thứ mười hai mới hoàn thành một vài câu “có xương có thịt” mà Mao Trạch Đông phải gật gù tán thưởng. Tại “văn phòng 5”, chúng tôi phải giữ kỷ luật của Thủ tướng, ấy là mắt nhìn thật tinh, tai nghe thật thính, tay ghi thật nhanh còn miệng thì im thin thít, tranh thủ mọi lúc mọi nơi hoàn thành tờ báo cáo, ưng nói gì thì phát biểu gọn gàng trên một trang giấy mà thôi...
Cuối cùng, kể đến “văn phòng thứ sáu” của Thủ tướng, nó hoàn toàn khác với 5 loại “văn phòng” vừa kể, đó là một tổ chức thuộc biên chế Quốc vụ viện có tên gọi Văn phòng Thủ tướng, thể như “Văn phòng Đặng”, “Văn phòng Trần”, “Văn phòng Dương” v.v... Văn phòng Thủ tướng thường được hiểu với nghĩa rộng bao gồm tất cả chúng tôi - những người làm việc bên cạnh Chu Ân Lai và trụ sở ở Tây Hoa Sảnh nên còn gọi Văn phòng Tây Hoa sảnh; cơ cấu tổ chức từ chánh văn phòng, phó văn phòng cho đến tổ trưởng, tổ phó 5 tổ tổng hợp, ngoại giao, quân sự, tài chánh kinh tế và hành chính. Thời cực thịnh của Văn phòng Tây Hoa sảnh là năm 1955 với 20 người, đến từ ngũ hồ tứ hải, do nhiều nguồn giới thiệu, nhưng về với Chu Ân Lai thì trở thành một tập thể nhất thống. Năm 1958, Mao Trạch Đông phê phán phái “chống mạo hiểm”, Văn phòng Tây Hoa sảnh dần dần bị cắt giảm biên chế, còn đâu khoảng hơn 10 người. Cuối năm 1964 sang đầu năm 1965, một hôm Mao Trạch Đông hỏi Chu Ân Lai: “Đồng chí dùng gì mà nhiều thư ký vậy? Để họ dắt mũi mình sao?”. Trở về Tây Hoa Sảnh, Thủ tướng tuyên bố giải tán văn phòng của ông, Đồng Tiểu Bằng, nguyên chánh văn phòng Tây Hoa sảnh điều về văn phòng Trung ương Đảng, Hứa Minh là phó chuyển công tác làm phó thư ký đoàn Quốc vụ viện, Cố Minh được đề bạt lên chức phó chủ nhiệm uỷ ban kế hoạch nhà nước. Văn phòng Tây Hoa sảnh nay gọi là tổ trực ban giúp việc cho Thủ tướng, nhưng công việc vẫn nhiều như xưa, bởi vì Mao Trạch Đông lãnh đạo vĩ mô, những vấn đề cụ thể đều đặt lên vai Chu Ân Lai gánh vác, tự thân Thủ tướng tôi phải hỏi han, quay điện thoại liên hệ các nơi. Đến thời kỳ “văn cách”, Lâm Bưu và “Tứ nhân bang” đã gây khó khăn cho Thủ tướng, cuối cùng thì tổ trực ban cũng phải giải thể luôn, thư ký và cảnh vệ bên cạnh Chu Ân Lai đều bị Giang Thanh đưa đi nông thôn, chỉ còn lại mình tôi và Cao Chấn Phổ mà thôi. Khi bệnh tình của Thủ tướng quá ư trầm trọng, người ta mới cho Kiều Kim Vượng trở lại chăm sóc ông...
Những ngày cuối đời của Chu Ân Lai thật là buồn thảm, tôi sẽ kể tiếp ở chương sau cùng của cuốn sách này, một thời nhộn nhịp khẩn trương với các văn phòng 1, 2, 3, 4 và 5 đâu còn nữa, trong tôi giờ đây chỉ đọng lại mười chữ mà Thủ tướng luôn dành cho anh chị em thư ký chúng tôi: tín nhiệm, tôn trọng, dân chủ, bồi dưỡng và quan hoài.
29.07.2014
Phần VI - Chương 7
ĐỜI THƯỜNG
Dịch giả: Thái Nguyễn Bạch Liên
Nguồn: NXB Cà Mau
Nội dung thu gọn
Thời kỳ Chu Ân Lai đi thăm 14 nước Âu, Á, Phi, một phóng viên nước ngoài phỏng vấn ông: “Thưa Thủ tướng, năm nay Thủ tướng đã 65 tuổi, nhưng trông rất trẻ, không rõ thủ tướng có bí quyết hay mật phương gì?” Đây cũng là đề tài mà nhiều người quan tâm. Nixon khẳng định “Quyền lực làm chúng ta trẻ lại”; trong một bài ca nào đó có câu “Người cách mạng luôn luôn trẻ trung, còn xanh tươi hơn cả cây tùng, cây bách”; những người sống và làm việc bên cạnh Thủ tướng thì cho rằng: “Lòng nhân ái khiến cho Thủ tướng mãi mãi không già”. Còn bản thân Chu Ân Lai? Hồi ấy ông trả lời phỏng vấn: “Tôi là người phương Đông, có lẽ vì thế mà thoạt trông có vẻ trẻ chăng?”. Chu Ân Lai đã sống theo tập quán phương Đông như thế nào, hiện là một chủ đề thu hút nhiều người quan tâm nghiên cứu, thậm chí có thầy thuôc đang đi tìm bí quyết trường thọ của Thủ tướng. Sẽ có bạn đọc bảo rằng, ông nói sai rồi, Thủ tướng qua đời năm 78 tuổi, sao gọi là trường thọ được? Ngày nay người thọ 78 rất phổ biến kia mà.
Bạn hãy cùng tôi tạm quy ước “Tỉnh mới là sống”, và do đó căn cứ vào nhật ký làm việc của Chu Ân Lai thì ông có tuổi thọ đến 120 cơ. Nếu chúng ta cũng lao tâm lao lực, cúc cung tận tuỵ như Chu Ân Lai, như Gia Cát Lượng thì chẳng mấy ai sống lâu như họ, một thầy thuốc nhận định như vậy và nói vớí tôi: “Thủ tướng của chúng tôi chết vì mệt, chọn ra 10 vạn người làm việc như Thủ tướng thì dám chắc sau một năm sẽ có 1 vạn người ngả bệnh suy sụp, sau năm năm con số lên tới 3 vạn...”. Tất nhiên không thể thực hiện được loại thí nghiệm như vậy, nhưng tôi tin những gì mà ngươi thầy thuốc, ấy đã nói. Là một trong số hai mươi thư ký của Chu Ân Lai, hôm nay nhắc lại vẻ trẻ trung, sức làm việc và sự trường thọ của Thủ tướng càng làm tôi sống lại với bao kỷ niệm đời thường của ông, xung quanh 6 chữ thực, y, cư, hạnh, khang, lạc mà ai ai cũng phải theo, nhưng ở Chu Ân Lai có phần đặc biệt hơn.
Chu Ân Lai là một trong những người thấm nhuần văn minh Đông phương, ông thường nói “nhân khao y trang, mã khao yên” và căn dặn chúng tôi: con người phải chăm chú quần áo thể như yên cương nơi con ngựa vậy. Từ ngày về Bắc Kinh làm thủ tướng, Chu Ân Lai giao nhiệm vụ cho tôi trước; gọi là “phó quan”, nay dùng thuật ngữ cách mạng đổi thành “thư ký hành chánh” - lo lắng giúp ông về khoản trang phục, ông dặn: “Mình tham gia nhiều hoạt động, quần áo phong mạo phải chỉnh tề vì người nước ngoài cũng như đồng bào trong nước đều để ý xem xét, nhưng dù sao chú cũng giữ cho một nguyên tắc, ấy là trang phục của mình chú thiết kế như thế nào đó mà thể hiện được bộ mặt người dân Trung Quốc”. Chúng tôi không đưa Thủ tướng ra cửa hiệu “Hồng Đô” may đo mà mời thợ chuyên trách vào Trung Nam Hải phục vụ riêng cho ông. Sau nhiều lần thảo luận, thầy trò quyết định chọn mẫu áo Tôn Trung Sơn với nguyên liệu hoàn toàn hàng nội hoá, màu sắc nhã và trang nghiêm, đó là kiểu cách lễ phục mà Chu Ân Lai liên tục sử dụng trong suốt 27 năm làm thủ tướng, bất kỳ lúc nào, bất kỳ ở đâu cũng nghiêm túc ăn vận, khiến cho anh chị em tuỳ tùng chúng tôi cũng theo ông mà tươm tất không dám xuề xoà. Trong khi đó, Mao Trạch Đông thích mặc quần áo rộng rãi, thoải mái, không thật chăm chút như Chu Ân Lai và hầu hết đều do vệ sĩ giúp ông nâng khăn sửa túi, không mấy khi Mao Trạch Đông động chân động tay, ông cũng chẳng quan tâm đám người phục vụ đang bận rộn mặc quần áo cho mình, người ta nói mắt ông lúc ấy hình như đang dõi trông những nơi xa xăm nào đó tận bên Nga, bên Mỹ.
Chăm nom phong mạo cho Chu Ân Lai có một vấn đê nan giải, đó là cạo râu. Chu Ân Lai từng để râu quai nón khá đẹp, rất nam nhi đã làm cho Trương Học Lương - người dấy binh bắt Tưởng Giới Thạch trong vụ sự biến Tây An - phải thảng thốt kêu lên: “Chào mỹ nhiêm công!” (người có bộ râu đẹp). Râu của Chu Ân Lai vừa rậm, vừa cứng lại mọc rất nhanh. Thời Vạn lí trường chinh và hồi mới đến Thiểm Bắc, không có điều kiện cạo sửa, nhìn những tấm ảnh kỷ niệm lúc bấy giờ, ông tự mình trào lộng:
Ngoảnh lại miệng đâu tìm không thấy,
Bỗng dưng tiếng nói giữa ngàn râu!
Nguyên văn hai câu thơ này là: “Chuyển lai chuỷ giác vô mịch xứ, hốt văn mao lý hữu thanh âm”, nghe nói do Tô Tiểu Muội sáng tác để chọc tức Tô Đông Pha. Sau khi về thành phố, Chu Ân Lai phải “xuống râu “ và mỗi ngày cạo một lần, ban đầu còn nhờ thợ cắt tóc bên Bắc Kinh phạn điếm làm giúp, nhưng sau đó Thủ tướng tự mình giải quyết, song trong công việc cạo râu của Thủ tướng tôi xảy ra một mâu thuẫn khá buồn cười, ấy là cạo râu để “thể hiện bộ mặt của người Trung Quốc”, nhưng lưỡi dao cạo lại phải mua của người nước ngoài, vì lúc bấy giờ nước chúng tôi chưa sản xuất được loại hàng này. Điều đó làm cho Chu Ân Lai băn khoăn mãi, nguyên tắc dùng nội hoá của ông bị xâm phạm, mâu thuẫn ấy được giải quyết sau khi có lưỡi dao cạo “made in China”, tất nhiên sản phẩm không chỉ để phục vụ một mình Chu Ân Lai mà còn biết bao nhiêu đấng mày râu khác nữa. Truyện "28 Ngày Đêm Quyết Định Vận Mệnh Trung Quốc " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com) Truyện "28 Ngày Đêm Quyết Định Vận Mệnh Trung Quốc " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Trong hành lý của Chu Ân Lai đi công cán nước ngoài có một va-li da được nhân viên cảnh vệ bảo quản cẩn mật, và ngay như câu chuyện về chiếc va-li ấy cũng không phải ai ai đều biết, đến nay mới có thể “mở ra” cùng xem, song đương nhiên sẽ có nhiều ý kiến bình luận khác nhau. Toàn bộ đồ dùng sinh hoạt hàng ngày như chăn, mền, ra rải giường, đệm, gối, khăn, màn v.v... của Chu Ân Lai đều đựng trong chiếc va-li “bí mật” đó. Ông có thói quen không ưa dùng tiện nghi của bất cứ một khách sạn nào. Mỗi sáng nhân viên tuỳ tùng của Chu nhanh chóng thu vén mọi thứ cho vào va-li, khoá chặt, rồi mới báo nhà buồng đến làm vệ sinh hàng ngày. Nội y của Thủ tướng đi đến đâu thì nhờ nhân viên đại sứ quán Trung Quốc ở nước đó giặt là giúp, nhiều đại sứ phu nhân đã phải khóc khi làm việc này và mắng mỏ chúng tôi sao nỡ để Thủ tướng ăn mặc như thế. Nhớ hồi đến Ai Cập, Từ Khắc Lập là Trần Gia Khang đại sứ phu nhân đã mua toàn bộ nội y mới thay thế số cũ của Thủ tướng, vệ sĩ trưởng Thành Nguyên Công can ngăn, bà nổi khùng: “Các đồng chí phục vụ Thủ tướng chẳng biết gì cả”, Thành Nguyên Công đành im lặng và để đại sứ phu nhân gặp Thủ tướng, quả nhiên bà “va đầu vào tường”.
- Vợ chồng chúng tôi lấy tiền túi mua sắm để Thủ tướng dùng, chứ không phải công quỹ đâu ạ!
- Tiền túi của anh chị cũng là ngoại tệ mà Chính phủ đã chi, nếu cần sắm quần áo thì tôi đã mua ở Bắc Kinh, hà tất phải tốn ngoại tệ như thế này, vả lại những quần áo kia còn dùng được, tuy có mạng vá đôi chỗ.
Chu Ân Lai quay lại hỏi anh em chúng tôi: “Mình làm như vậy có gì là quá đáng lắm không?” và như tự hỏi mình, rồi trầm ngâm tự bạch: “Mình cho là không quá đáng vì hiện tại Trung Quốc đang rất nghèo khó, có hai cách nghĩ, vô lẽ Trung Quốc sáu, bảy trăm triệu dân không lo nổi cho Thủ tướng của mình quần áo hay sao, huống hồ còn ảnh hưởng đến vấn đề đối ngoại nữa, điều ấy hoàn toàn có lý. Nhưng mình lại nghĩ, làm một Thủ tướng của sáu, bảy trăm triệu dân, khi nhân dân đề xướng tiết kiệm, nhẽ nào riêng mình lãng phí xa hoa”. Nhẩm lại trong cuộc đời làm Thủ tướng của mình, Chu Ân Lai chỉ may sắm quần áo 5 lần mà thôi. Thoạt đầu, khi mới vào thành phố, Thủ tướng thực hiện một lần “xây dựng cơ bản đại quy mô” bao gồm những bộ quần áo Tôn Trung Sơn để “thể hiện bộ mặt Trung Quốc”. Tháng 6 năm 1954 lần đầu tiên Thủ tướng thăm Ấn Độ, cùng Tổng thống Nehru đề xứ 5 nguyên tắc chung sống hoà bình. Báo chí còn ghi lại, hồi ấy Nehru do dự, nhưng Gandhi phu nhân bị phong độ lịch lãm, tài cán thao lược của Chu Ân Lai “mê hoặc” đã dùng toàn bộ sức lực và ảnh hưởng của mình vận động vua cha chấp thuận. Từ Ấn Độ trở về, Thủ tướng cảm nhiệt chảy máu mũi, cho nên tiếp đó Thủ tướng thăm các nước Đông Nam Á, chúng tôi phải sắm cho ông hai bộ đồ lụa hợp với khí hậu nóng bức và luôn thể là những bộ quần áo để Thủ tướng dùng khi đi lao động với nông dân, đó là lần thứ hai. Lần thứ ba, khi thăm Campuchia, vì quốc vương vừa tạ thế, đang trong những ngày quốc tang, Thủ tướng và cả đoàn đều mang thêm bộ com-lê trắng, lúc đón chúng tôi ở Phnôm Pênh hoàng thân Sihanouk vô cùng cảm kích về màu trắng tôn quý ấy. Lần thứ tư, vào năm 1963, Chu Ân Lai đi thăm 14 nước Âu, Á, Phi, chúng tôi chuẩn bị quần áo cho Thủ tướng rất chu đáo mà mãi 10 năm sau đó không phải sắm sửa gì thêm. Cuối cùng, lúc Kissinger đến Trung Quốc, chúng tôi may mới cho Thủ tướng bộ Tôn Trung Sơn màu pháp lam, ông thường mặc bộ lễ phục quen thuộc này cho tới tháng 3 năm 1975 và theo ý nguyện, khi ra đi vào cõi vĩnh hằng trên thân mình Chu Ân Lai quàn bởi bộ quần áo may lần thứ năm, cũng là lần chót!...
Chu Ân Lai ưa ăn thức gì, bình thường ăn uống ra sao và kiêng cữ loại nào, có lẽ cũng là nội dung nhiều người quan tâm. Có người quả quyết, Chu Ân Lai bản quán Thiệu Hưng Triết Giang, sinh ra và lớn lên ở Hoài An Giang Tô, tất nhiên là ưa phong vị các món ăn Giang - Triết, đầu bếp của Chu Ân Lai là Quế Hoài Vân - người Giang Tô, càng chứng tỏ điều nói trên là đúng. Không hẳn vậy, bình sinh Chu Ân Lai đã sống ở nhiều nơi, Đông Bắc, Thiên Tân, Giang Tây, An Huy, Hồ Nam, Thiểm Bắc, Trùng Khánh, Nam Kinh, Bắc Kinh v.v... hoặc nước ngoài như Nhật, Pháp, Đức, Nga... chắc chắn từng nếm đủ loại thức ăn của thập phương, Thủ tướng lại là người rất chú ý “nhập gia tuỳ tục”, những thức ăn thức uống ban đầu chưa quen, chưa ưa, ăn uống mãi thành quen, thành ưa, ví như thịt chó chẳng hạn, thoạt đầu Thủ tướng ghét lắm, thế mà về sau cũng phải chấp nhận. Trong quân cách mạng rất nhiều đồng chí Hồng quân là người Giang Tây. Người Giang Tây và người Hồ Nam thân nhau như anh em ruột, và đều ưa món thịt chó, không những ăn nó mới thơm mà còn kể chuyện về nó cũng thơm đến mức nhỏ dãi. Mỗi lần như vậy, Thủ tướng đều tránh xa và miệng lẩm bẩm “không trách mà người ta ghét Lỗ Trí Thâm, ông ta giỏi đến thế nhưng phải cái tội ưa món cẩu nhục!”. Sau đợt đưa Thủ tướng về Trùng Khánh sinh sống tại “Chu công quán”, quản gia tên gọi Long Phi Hổ, danh tính thế nào thì phong cách thế ấy, thật như rồng như cọp, và rất thích ăn thịt chó, Long lý luận: món ăn này làm ấm người. Một hôm trời lạnh cơm nước xong. Long Phi Hổ thưa chuyện với Chu Ân Lai:
- Chu Phó chủ tịch, chắc đồng chí đã ấm hơn nhiều?
- Tất nhiên là ăn xong, no bụng thì phải ấm chứ!
- Dạ thưa nhờ món cẩu nhục đấy ạ!
- Sao? Tôi mắc lừa anh rồi! Anh xâm phạm nhân quyền! - Chu Ân Lai vừa mắng mỏ vừa khạc nhổ, nhưng không có tác dụng gì, dần dần ông quen món ăn này. Năm 1959, Chu Ân Lai tháp tùng Kim Nhật Thành đi tham quan Quảng Châu và trong bữa tiệc, ông giới thiệu với khách:
- Hôm nay, các đồng chí Quảng Đông muốn mời Tướng quân dùng thịt rán, đặc sản Quảng Châu, chẳng biết Tướng quân có sợ hay không?
Kim Nhật Thành vui vẻ đáp:
- Thủ tướng không sợ thì tôi cũng không sợ, âu cũng là một lần tiếp thu sự vật mới.
Long Phi Hổ, người lừa Chu Ân Lai ăn thịt chó sau này trở thành Phó Tư lệnh quân khu Phúc Châu, một lần nhớ Thủ tướng quá liền cho người mang tặng làn quả hạnh. Thủ tướng hỏi đâu ra làn quả hạnh, anh em thư ký thưa của khách tặng, Thủ tướng bảo chúng tôi mang 50 đồng trả cho khách, tiền gấp đôi. Long chột dạ, hay là Thủ tướng vẫn tức mình vì cái món cẩu nhục, ông đến thăm và mới biết Thủ tướng vẫn rất vui vẻ kỷ niệm xưa, về món thịt “ăn đã thơm mà nhắc tới cũng rất thơm”, nhưng Thủ tướng cấm cái tệ quà cáp, may mà chúng tôi giấu tên người tặng làn quả hạnh, nếu không chắc chắn Long Phi Hổ hẳn bị trận lôi đình! Ra về, viên Phó Tư lệnh quân khu Phúc Châu cám ơn anh em thư ký rối rít.
Chị cả Đặng là người tín ngưỡng Trung y, bà cho rằng Trung y có nguồn gốc căn bản hơn Tây y và mời thầy về khám cho Chu Ân Lai. Sau khi thực hiện tỷ mỷ “vọng, văn, vấn, thiết” (nhìn, nghe, hỏi, nắm) - bốn cách bắt mạch của Trung y, thầy kết luận một tràng những câu chữ mà chúng tôi chẳng hiểu gì, chung quy lại Chu Thủ tướng là “hoả đại”, không nên ăn những con vật có cánh dài, ví dụ như gà, gà có nhiệt độ thân thể cao hơn người những 2 đến 3 độ, người “hoả đại” sợ nóng, ăn thịt gà, hoả thượng, thường chảy máu mũi. Từ đó chị cả Đặng dặn chúng tôi, Chu Thủ tướng kỵ thịt gà, canh gà, thực đơn hàng ngày phải tránh các món này. Chúng tôi nghiêm chỉnh thực hiện, tuy nhiên cũng chỉ trước mặt chị mà thôi. Tóm lại, người đi khắp nơi như Chu Ân Lai ăn uống gì cũng được, không kiêng khem phức tạp, nhưng đối với ông thực sự có ba điều cấm kỵ, đó là công tư nhập nhằng, phô trương lãng phí và quá ư đặc biệt. Chúng tôi thường bị Thủ tướng phê bình vì vi phạm 3 điều cấm kỵ đó khi chuẩn bị các bữa ăn, bữa tiệc cho ông...
Mao Trạch Đông rất bận rộn, nhưng được cái tự do, lúc không muốn bận rộn thời rất thong thả và có thể nghỉ ngơi, giải trí. Còn Chu Ân Lai bận rộn mà không tự do, muốn thong thả cũng không được, công việc cứ như đeo đuổi, trói buộc ông. Mấy chục năm làm việc bên cạnh Chu Ân Lai tôi chỉ thấy năm 1951 ông đi Đại Liên dưỡng bệnh, nghỉ ngơi vài chục ngày là lần thong thả nhất trong đời. Vậy Thủ tướng tôi sống như thế nào, ngoài công việc như đã trình bày ở các chương trước, Chu Ân Lai sử dụng 3 hình thức sau đây để nghỉ ngơi thư giãn, đó là: gặp gỡ bạn bè, hoạt động văn nghệ và rèn luyện thân thể. Theo Chu, gặp gỡ bạn bè là cách nghỉ ngơi tốt nhất, cho nên ngày chủ nhật ông thường xếp chương trình ăn cơm, uống rượu, ẩm trà, đàm luận cùng giới văn học nghệ thuật hoặc các nhân sĩ thuộc đảng phái dân chủ khác.
Hùng Cẩn Đinh là bạn thân của Chu Ân Lai, hồi hoạt động bí mật ở Trùng Khánh, ông đảm nhận “chủ hiệu” Tân Hoa nhật báo được mọi người gọi là “ông chủ họ Hùng”, quen mãi cho đến ngày giải phóng về làm việc ở Bắc Kinh, vợ của ông ta là Chu Thuỵ Thu cũng mang danh “bà chủ”. Chu Ân Lai, Đổng Tất Vũ, ông chủ họ Hùng kề vai sát cánh mười mấy năm trời trong vùng thống trị của Quốc dân đảng, sau này thời Trung Hoa mới công việc bận rộn, mỗi người một cương vị, nhưng Chu Ân Lai vẫn chủ động gặp gỡ Hùng Cẩn Đinh để tâm sự hồi ức thuở xưa cũng như những gì của hiện tại. Nào ngờ năm 1967, vợ chồng Hùng bị quy kết là “ông bà chủ giai cấp tư sản”, trở thành người bên kia giới tuyến. Hôm ấy, Thủ tướng xong công việc, đã định đi nghỉ thì bất chợt bảo tôi lấy cho ông 2 chai Mao Đài đi mừng sinh nhật ông chủ họ Hùng. Tôi đưa Thủ tướng đến nhà Hùng Cẩn Đinh, bốn bề vắng lặng, khắp nơi dán đầy báo chữ lớn của Hồng vệ binh, gõ cửa mãi hai vợ chồng mới mở và họ đứng yên như những pho tượng, rồi bỗng kêu lên:
- Trời ơi, khuya khoắt thế này mà Thủ tướng còn đến thăm chúng tôi.
- Bạn bè thì ngại ngùng gì, hôm nay vừa đến thăm anh chị, vừa mừng sinh nhật ông chủ họ Hùng.
- Sinh nhật! - Hùng Cẩn Đinh ngơ ngác và oà khóc: - Biết lấy gì mà mừng sinh nhật đây hở Chu công?
Hai người ôm nhau, tình thế phân chia họ - những đồng chí thuở xưa trở thành hai chiến tuyến. Đêm đó Chu, Hùng nhắm Mao Đài với lạc rang và Chu dặn Hùng:
- Ông chủ, nhớ giữ gìn, nhìn xa một tý nhé, không lâu nữa đâu...
Trong “khói lửa” của Cách mạng văn hoá, Thủ tướng chỉ còn cách lấy danh vọng rất mong manh của mình để che chở, cứu vớt ít nhiều bạn bè chiến hữu từng một thời vào sinh ra tử mà thôi. Trên đường về, Thủ tướng trầm tư, vẳng bên tai tôi là lời ông thường căn dặn: thật vui vẻ và hạnh phúc khi làm cho người khác vui vẻ và hạnh phúc. Thủ tướng tôi luôn làm như vậy và bao quát hơn, ông tuân thủ lời dạy của cố nhân: không trách lỗi người khác, không vạch tật người khác, không báo oán người khác.
Trương Bá Linh là hiệu trưởng trường Nam Khai, nơi Chu Ân Lai đã theo học, Trương thường tán dương với bạn bè rằng “Chu Ân Lai là người học trò giỏi nhất của Nam Khai”, nhưng khi nghe tin Chu gia nhập Đảng Cộng sản, đứng vào hàng ngũ “phỉ đỏ”, Trương liền gạch 3 chữ Chu Ân Lai trong danh sách học sinh Nam Khai. Sau giải phóng, Cộng sản nắm chính quyền, Trương gửi thư cho Thủ tướng báo tin ông đang “đóng cửa nhớ chuyện xưa”, nhận thư, Chu Ân Lai vui mừng khôn tả, nhớ ân cũ, quên hận xưa, phái phi cơ bay đến Trùng Khánh đưa thầy hiệu trưởng họ Trương về bản quán Thiên Tân hưởng tuổi già và lúc Trương Bá Linh qua đời, người học trò giỏi nhất Nam Khai vẫn kịp về phúng điếu, thắp nén nhang cho Trương tiên sinh... Quả là lương thiện khiến ta bình tâm, nhân ái khiến ta hoà khí.
Nhớ hồi Quách Mạt Nhược viết tác phẩm “Hồng ba khúc”, trong đó có đoạn miêu tả trận hoả hoạn Trường Sa, là âm mưu của Quốc dân đảng muốn hãm hại Chu Ân Lai, lúc bấy giờ Trương Trị Trung đích thị chủ tịch tỉnh ở đấy. Tác phẩm ra đời, Trương Trị Trung đọc vội và đang đêm điện thoại “cầu cứu” Chu Ân Lai:
- Chu Thủ tướng. Trương tôi có ngàn vạn tội, tiếng xấu nghìn thu, cũng không bao giờ rắp tâm ám hại Chu huynh, nếu quả như vậy thì giờ đây còn mặt mũi nào nhìn Chu huynh nữa, thế mà “Hồng ba khúc” của Quách lại... Truyện "28 Ngày Đêm Quyết Định Vận Mệnh Trung Quốc " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
- Văn Bạch ạ! - Chu Ân Lai gọi Trương một cách thân mật - Quách tiên sinh quyết không nói xấu Văn Bạch đâu, đó chỉ là hư cấu tiểu thuyết. Nhưng tôi sẽ nói với Quách hiệu đính lần sau sao cho độc giả không hiểu lầm giữa Tưởng Giới Thạch và Trương huynh.
Còn có thể kể muôn vàn câu chuyện về nghĩa tình giữa Chu Ân Lai với mọi người, nhà cách mạng, chiến sĩ cộng sản, nhân sĩ yêu nước, giới văn hoá v.v... cũng như những người dân bình thường, xin bạn đọc cho tạm dừng tại đây và chuyển sang một câu chuyện vui để nói đôi điều về năng lực thẩm mỹ của Thủ tướng.
Năm 1954, khi đi tham dự hội nghị Genève, chúng tôi mang theo hai bộ phim, cuốn thứ nhât “Lễ Quốc khánh năm 1952”, cuốn thứ hai “Lương Sơn Bá - Chúc Anh Đài”. Chúng tôi chiếu trước bộ phim tài liệu, sau đó một phóng viên Thuỵ Sĩ đã viết bài đăng báo với nhận xét, “khi những chiến sĩ Trung Quốc vũ trang nai nịt và các cô gái tay cầm hoa vững bước tiến vào màn ảnh Genève thì mọi người phương Tây cũng như phương Đông đều cảm thán tán dương, không còn nhìn Trung Quốc với con mắt trước năm 1949 nữa”. Tuy nhiên, vẫn còn nhà báo Mỹ nặng giọng địch thù mà nói rằng, “bộ phim khiến cho chúng tôi lo lắng, hẳn Trung Quốc đang xây dựng chủ nghĩa quân sự?”. Nghe hội báo tình hình xong, Chu Ân Lai quyết định tiếp tục cho chiếu “Lương Sơn Bá - Chúc Anh Đài”. Chu Ân Lai mời Charles Chaplin xem trước bộ phim này, khán giả là những nhà nghệ thuật nên hiểu ngay và thích thú, khen ngợi các nhà làm phim trẻ của Trung Quốc, nhưng nay chiếu cho các quan chức, nhà báo, liệu hiệu quả sẽ ra sao? Hùng Hướng Huy - phụ trách báo chí của đoàn lo lắng “đàn gảy tai trâu”, dự kiến dịch lời thoại trong phim đóng thành tập 16 trang với tựa đề “Bi kịch Lương - Chúc” phát trước cho khán giả. Chu Ân Lai nghe Hùng Hướng Huy báo cáo xong, liền nói:
- Nếu tôi là nhà báo, tôi sẽ không xem bản dịch của đồng chí, đây là công thức của nước mình, đâu hợp với phương Tây.
- Nhưng không có thuyết minh như vậy, thì chẳng khác nào “đàn gảy tai trâu”.
- Đúng vậy, cho nên phải nghĩ cách “gảy” sao cho “trâu” cũng “lọt tai”.
- Thưa Thủ tướng, dạ làm cách nào?
- Trong giấy mời chúng ta đề: mời quý ông, quý bà thưởng thức bộ phim màu “Romeo và Juliet của Trung Quốc”.
- Romeo và Juliet? Được không ạ?
- Hoàn toàn được, chúng ta cược nhau một chai Mao Đài nhé? - Chu Ân Lai động viên Hùng Hướng Huy.
Buổi chiếu mãn chỗ, quả như Chu Ân Lai dự đoán, ai cũng tò mò muốn xem một thiên tình sử của Trung Quốc sẽ như thế nào. Ngay từ những phút đầu tiên, khán giả im phăng phắc như các pho tượng, tâm linh như bị cuốn hút vào kịch tình, xem ra con người không phân biệt màu da, thời đại, địa phương, giai cấp, tín ngưỡng v.v... đều có chung một nỗi lòng với tình yêu đôi lứa, Lương Sơn Bá và Chúc Anh Đài, Romeo và Juliet đều là những câu chuyện xoáy quanh chủ đề đó nên ai xem cũng bị hấp dẫn và đồng cảm. Phim đến đoạn “nứt mộ”, “hoá bướm”, tôi nghe khán phòng sụt sùi tiếng khóc. Đèn bật sáng và khán giả vẫn còn đắm đuối, mãi sau mới rộ lên tiếng vỗ tay sấm dậy. “Ôi đẹp quá, còn cảm động hơn cả Shakespeare!”
Hôm ấy, Chu Ân Lai thắng cược, nhưng ông vẫn hiến tặng một chai Mao Đài, chúng tôi uống mừng thành công của điện ảnh nước nhà, cảm phục con người nghệ thuật trong Thủ tướng tôi.
29.07.2014
Phần VI - Chương 8
GIỮA VỢ CHỒNG
Dịch giả: Thái Nguyễn Bạch Liên
Nguồn: NXB Cà Mau
Nội dung thu gọn
Có thể nói, đó là một tấm gương về hôn nhân khi nhắc đến quan hệ vợ chồng giữa Chu Ân Lai và Đặng Dĩnh Siêu, tuy mang tính phản phong, nhưng vẫn kế thừa truyền thống đạo đức ưu tú của dân tộc; tuy chống lại sự hủ bại của giai cấp tư sản, nhưng lại phát huy nguồn sinh lực mới của nền văn minh thời đại luôn đứng trên quan điểm giải phóng con người. Đối với luyến ái và hôn nhân, Chu Ân Lai cũng như mọi người, nghĩa là nhận thức và thái độ không ngừng biến đổi theo sự trưởng thành về tuổi tác và sự phong phú về đường đời. Năm 15 tuổi, Chu Ân Lai vào trường trung học Nam Khai, năm 19 tuổi tốt nghiệp. Tiếp thu nền giáo dục tiến bộ trong một nhà trường đặc biệt, Chu Ân Lai chịu những ảnh hưởng quan trọng đến sự hình thành tư tưởng và nhân cách của mình. Nam Khai lúc bấy giờ là một trường tư, do Nghiêm Tu sáng lập, ông từng giữ chức hàn lâm và thị lang học bộ dưới triều nhà Thanh, tư tưởng mở mang nên chế độ giáo dục của trường ít nhiều mô phỏng theo Âu Mỹ. Hiệu trưởng trường Nam Khai là Trương Bá Linh, thủ khoa của Bắc Dương Thuỷ Sư học đường, sau đó sang Nhật Bản và Âu Mỹ nghiên cứu khảo sát, rất cẩn thận và chu đáo trong hành nghề giáo dục.
Thành tích học tập của Chu Ân Lai ở Nam Khai rất ưu tú và như Trương Bá Linh nhận xét, là người học trò giỏi nhất của Nam Khai.
Nghiêm Tu theo dõi phẩm hạnh và tài cán của Chu Ân Lai trong suốt quá trình theo học ở Nam Khai và quyết định gả con gái của mình cho Chu, ông nhờ người mai mối. Đây là sự kiện hôn nhân trọng đại đầu tiên trong đời của Chu. Với danh vọng và địa vị xã hội của Nghiêm Tu, lấy được con gái họ Nghiêm làm vợ, quả đã khiến cho người đời ngưỡng mộ, lắm kẻ thèm muốn mà đâu có được. Nhưng thật là khó hiểu khi nghe tin Chu Ân Lai lễ phép chối từ.
Trương Hồng Hạo, bạn học cùng lớp với Chu kể lại, có một lần Trương, Chu vừa tản bộ vừa tâm sự với nhau: “Mình là anh trò nghèo, khi mới vào học mọi phí tổn đều nhờ cậy ông bác đài thọ, bây giờ tuy được miễn học phí do thành tích học tập xuất sắc nhưng tự thân phải giải quyết nhiều khoản tiền cho cuộc sống hàng ngày. Trong tình cảnh như vậy, nếu kết thân cùng con gái Nghiêm gia thì nhất định tiền đồ sẽ bị người ta chi phối, cho nên mình suy nghĩ và xin phép từ hôn”.
Là một thanh niên mang trong mình bầu máu nóng cứu dân cứu nước, thì cách nghĩ như Chu là bình thường và không có gì khó hiểu. Chu Ân Lai sang Nhật Bản tu nghiệp và nhanh chóng trở về Thiên Tân, hoà vào dòng thác của phong trào “Ngũ Tứ”, tham gia tổ chức thành lập đoàn thể cách mạng mang tên “Giác ngộ xã”, họ cùng nhau tuvên bố: không luyến ái, không kết hôn, hiến thân mình cho cuộc đấu tranh cải tạo xã hội Trung Quốc, không muốn người khác phải liên luỵ và khổ sở vì gắn cuộc đời mình với nhà cách mạng chuyên nghiệp.
“Chu Ân Lai là một trong số hai mươi thanh niên tuyên bố theo chủ nghĩa độc thân” - Đặng Dĩnh Siêu đã hồi ức. Nhưng sau đó, do sự trưởng thành về tuổi tác và kinh nghiệm đường đời, lại sang Pháp du học nên dần dần Chu Ân Lai từ bỏ con dường chủ nghĩa độc thân mà một thời ấu trĩ đã chọn và sa vào lưới tình, quen thân người bạn gái xinh đẹp. Nhưng bạn thân, bạn tốt đâu dễ trở thành vợ, nhất là người vợ mà “cả một đời dám hy sinh cho nhà cách mạng”, “dám làm bạn đường với sóng gió, hiểm nguy và gian nan trong tranh đấu”. Chu Ân Lai từng kể như vậy với người cháu gái có tên Chu Bình Đức, rồi nói: “Và thế là chú chọn thím bảy của các con (chỉ Đặng Dĩnh Diêu), hai bên thư từ cho nhau, cuối cùng nên vợ nên chồng”.
Chu Ân Lai và Đặng Dĩnh Siêu thân ái, hoà mục, quan hệ quấn quyện, trước tiên là do sự chọn lựa lẫn nhau giữa họ. Về cơ bản mà nói, Chu Ân Lai thuộc về quốc gia, dân tộc, nhân dân, rất ít là của cá nhân nào, thậm chí cũng không phải của Đặng Dĩnh Siêu nữa. Tôi được may mắn sống và làm việc bên cạnh Chu Ân Lai từ năm 1940 cho đến những ngày tháng cuối cùng ở Bệnh viện 305 khi ông qua đời, nhận thấy cuộc sống vợ chồng giữa họ thật hiếm hoi, và có lẽ thời kỳ cách mạng, Hồng quân, chiến tranh chắc cũng vậy, họ đã hiến dâng trọn cá nhân mình cho sự nghiệp của Đảng và dân tộc.
Trước khi kết hôn, hai người xa nhau 5 năm gần nửa vòng trái đất Âu, Á. Sau khi là vợ chồng, theo hồi ức của Đặng Dĩnh Siêu: “…Chu công bận rộn, mỗi sáng từ bến cảng Thiên Tự, Quảng Châu đáp tàu đi trường quân sự Hoàng Phố, mãi tối mới về nhà và lập tức tham gia hội ý trong ngày với khu uỷ Quảng Đông, báo cáo giảng bài cho cán bộ. Còn tôi, tôi có việc của mình, khu uỷ viên phụ trách công tác nữ, hai người đều bận rộn, rất ít gặp nhau và cùng chung sống. Cưới được một tuần thì Liêu Trọng Khải - lãnh tụ phái tả của Quốc dân đảng bị ám sát và do đó Chu công lại càng bận hơn nữa. Những ngày “trăng mật” đối với nhà cách mạng chuyên nghiệp là như thế đó, cũng đủ báo hiệu một quá trình sắp tới phải phấn dấu, phải hy sinh trong cuộc sống vợ chồng...”. Đúng như lời Đặng Dĩnh Siêu đã nói, từ thống nhất Quảng Đông đến phong trào Bắc phạt, từ lãnh đạo công nhân Thượng Hải vũ trang khởi nghĩa đến phá vòng vây vượt qua bể máu của vụ thảm sát “12 tháng 4”, “15 tháng 7”, từ Nam Xương đến khu trắng, từ đấu tranh ở căn cứ địa đến cuộc Vạn lý trường chinh, sự biến Tây An, rồi 8 năm kháng Nhật v.v... vợ chồng Chu Ân Lai - Đặng Dĩnh Siêu luôn luôn phải mỗi người mỗi ngả, gặp nhau chỉ là chốc lát, còn lại toàn xa nhau. Đã hai lần đến như Mao Trạch Đông cũng phải kêu lên: “Tội nghiệp Ân Lai!” và động viên Dĩnh Siêu: “Cô làm không xong cái chức Bộ trưởng hậu cần, lâu như thế mà chưa ra tiền tuyến an ủi chiến sĩ - chỉ Chu Ân Lai - lấy một lần!”
Chúng tôi cũng từng đi qua cuộc sống vợ chồng xa nhau như vậy, nhưng là trong chiến tranh, trong cách mạng, còn nay hoà bình, kiến quốc, về thành phố mà Chu Ân Lai vẫn thế, mỗi ngày bận rộn từ “văn phòng” 1, qua 2, 3, 4 rồi thường xuyên qua đến 5, Thủ tướng và chị cả Đặng hiếm có những giây phút ngồi lại với nhau, hoạ hoằn lắm là trong bữa ăn, nhưng cũng “không yên”, nhiều lần ông phải thả đũa cầm bút, nuốt được hai ba miếng thì nói những bảy, tám câu, chị cả im lặng không quấy rầy công việc của chồng, từ tốn chờ Chu Ân Lai cầm đũa trở lại.
- Tiểu Siêu, ăn đi chứ, chờ anh, thức ăn nguội mất.
- Ân Lai anh, anh cũng ăn nhanh lên kẻo lại có việc khác lại đưa tới.
Họ mỉm cười và bốn mắt liếc nhìn nhau, phải chăng đó là những khoảnh khắc sung sướng nhất của đôi vợ chồng đặc biệt này, có lẽ phải dùng ngôn ngữ của Trương Bá Lương mới miêu tả hết sự hy sinh thầm lặng ấy mà chị cả và Thủ tướng đã hiến dâng, đó là “nhất phiến xích thành khả đôi thiên!”. Đúng vậy, tấm lòng chân thành, đỏ thắm của họ quả xứng với đất trời.
Chu Ân Lai gặp được người bạn đời như Đặng Dĩnh Siêu là cả một nguồn hạnh phúc, giá không may mà kẻ khác thì cơ sự chưa biết sẽ như thế nào. Những người sống lâu năm trong Trung Nam Hải miệng im thin thít nhưng lòng những nghĩ, Chu Ân Lai hạnh phúc bao nhiêu vì có Đặng Dĩnh Siêu bên cạnh, chăm lo, an ủi thì Mao Trạch Đông lại bất hạnh bấy nhiêu bởi một Giang Thanh yêu quái sát mình, lợi dụng, thường xuyên gây gổ và cùng ngẫm thấy đạo làm vợ đã khó mà vợ Chu Thủ tướng còn khó hơn nhiều, “hẳn ông Trời sắp sẵn cô gái Tiểu Siêu cho chàng trai Ân Lai này chăng” - ông tự cảm thấy hoài như vậy và giúp chúng tôi lý giải mọi điều.
Giang Thanh cũng từng đứng bên cạnh Mao Trạch Đông nơi đầu sóng ngọn gió, chốn hòn đạn mũi tên, thoả nguyền mộng ước “trai anh hùng gái thuyền quyên”, nhưng hôn nhân của bà và Mao cuối cùng là một tấn bi kịch, mới hay làm vợ lãnh tụ đâu chỉ cần dũng khí trước phong ba bão táp mà quan trọng hơn nhiều là phẩm hạnh lúc bình yên, phẳng lặng. So với Giang Thanh, Đặng Dĩnh Siêu khác hẳn, bà là người thiên về hiến dâng, “cho nhiều hơn nhận”, bà chịu nổi “sự cô tịch và khuất phục của phụ nữ”, hiểu chồng, giúp chồng và cảm thấy vinh dự vì chồng, lẳng lặng đứng sau. Còn Giang Thanh, có khiếu về giành giật, bà phấn đấu mãnh liệt, nhiều lúc siêu phàm nhưng không quên đòi hỏi đền đáp, phải được đền đáp hơn người, bà không chịu im lặng, thường tranh cãi với chồng và thậm chí dùng chồng làm bàn đạp tiến thân.
Khi bàn tới nhân sự Đại biểu nhân dân khoá 4, Mao Trạch Đông thân hành hạ bút phê chuẩn Đặng Dĩnh Siêu là Phó uỷ viên trưởng (Phó chủ tịch Quốc hội - ND), Chu Ân Lai giấu chỉ thị này và Đặng Dĩnh Siêu hoàn toàn thuận ý chồng. Ngược lại, tại Đại hội 8 của Trung Cộng, Giang Thanh không được làm đại biểu, bà chạy nhôn nháo tìm Uông Đông Hưng hỏi cho ra lẽ và cãi nhau với Mao Trạch Đông, trách cứ ông đã phủ định tư cách đại biểu của mình. Một bên không mưu cầu quyền thế, không nấp bóng chồng, tránh cho chồng mọi phiền toái, còn một bên dã tâm, say sưa địa vị, luôn mồm “hôm nay thay mặt cho Mao Chủ tịch, tôi đên đây thăm các đồng chí...” và người được thay mặt đã phải gào lên: “Cô ta là cô ta, tôi là tôi, cô ta không thể thay mặt tôi, cô ta chỉ thay mặt chính mình mà thôi”.
Đặng Dĩnh Siêu không bao giờ nắm giữ chìa khoá văn phòng của chồng, còn Giang Thanh xông thẳng vào “cung vua” là chuyện thường. Mấy chục năm làm việc, trước mắt tôi luôn diễn ra một hình ảnh lặp đi lặp lại nhiều lần, ngày này qua ngày khác - người đàn bà lặng lẽ trong đêm khuya, nhẹ bước trên hành lang và chỉ nói vọng vào: “Ân Lai, hãy đứng dậy vận động tí đã...”, nói một lần thôi rồi trở về phòng riêng của mình. Cũng như vậy, Đặng Dĩnh Siêu từ tốn nhắc chồng “Ân Lai anh, đến giờ ăn cơm rồi!”, nếu Chu vẫn ngồi lỳ thì câu nói “dữ dằn” nhất của bà cũng chỉ “Thưa Thủ tướng, đã đến giờ ăn cơm”, chúng tôi thầm hiểu thoạt đầu bà làm nghĩa vụ của người vợ đối với chồng, quá lắm mới dùng đến “ngón võ” nhân dân và lãnh đạo. Điều đặc biệt nữa giữa Chu Ân Lai và Đặng Dĩnh Siêu là không can thiệp vào công việc của nhau, thậm chí tôn trọng phần riêng có ở từng người. Ngày thứ hai sau hôn lễ họ đã “cam kết” với nhau, dù khó khăn đến mấy, hai vợ chồng cũng không làm việc cùng một cơ quan. Năm 1982, có người gặp Đặng Dĩnh Siêu muốn tìm hiểu một vài sự tích Chu Ân Lai, bà trả lời: không rõ, và đưa cho người đó bài viết của mình “Một đảng viên Cộng sản nghiêm túc giữ gìn kỷ luật bảo mật”, rồi nói: “Đây là những gì mà tôi biết về Chu Ân Lai, càng người thân, càng phải bí mật việc công, ngay như việc tôi và Chu Ân Lai gia nhập Đảng Cộng sản cũng được tổ chức thông báo, chứ vợ chồng không tiết lộ cho nhau hay”. Truyện "28 Ngày Đêm Quyết Định Vận Mệnh Trung Quốc " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Lần nổ thí nghiệm đầu đạn nguyên tử thứ nhất của Trung Quốc, chuông điện thoại văn phòng Chu Ân Lai vang lên liên hồi, khách khứa ra vào tấp nập, nhưng ngoài thư ký quân sự ra, mọi người trong Tây Hoa sảnh đều không biết gì cả, mãi sau khi nghe Thủ tướng chính thức tuyên bố tại Đại lễ đường Nhân dân chúng tôi mới được cùng cả nước hò reo vui mừng. Lần sau đó, Thủ tướng mấy đêm liền không chợp mắt, sáng hôm cuối cùng, chị cả hỏi Kiều Kim Vượng: “Thủ tướng vẫn còn thức?”, Kiều gật đầu thưa vâng, Đặng Dĩnh Siêu băn khoăn:
- Xảy ra chuyện gì vậy?
- Hình như hướng gió không thuận - Kiều cũng nghe lỏm khi thư ký quân sự báo cáo qua điện thoại và nói lại cho chị cả không sai một chữ. Thế là lần đầu tiên Đặng Dĩnh Siêu phạm huý, bà an ủi Chu Ân Lai: “Chờ hướng gió phải không Ân Lai?”, quả nhiên ông nổi trận lôi đình và truy cho ra ai đã nói hai chữ “hướng gió”. Chị cả bênh cho Kiều Kim Vượng, nhưng cuối cùng cũng không qua được mắt Chu Ân Lai, ông biết Tiểu Siêu mà, vì một lần đi công tác nước ngoài Chu quên để chìa khoá phòng làm việc ở nhà, ông phải bỏ vào phong bì gửi về cho Dĩnh Siêu. Khi Chu trở về, bà trả lại ông nguyên vẹn phong bì chưa hề bóc xi.
- Ô hay, Tiểu Siêu không xem thư sao?
- Chu công gửi thế nào, thì Tiểu Siêu bảo quản thế ấy.
Hoá ra, ngoài chìa khoá phòng ra, trong phong bì còn có thư, thế mà Đặng Dĩnh Siêu cứ ngỡ... Lần ấy Kiều Kim Vượng bị phê bình vì tội “nghe trộm” điện thoại.
Cách xưng hô giữa vợ chồng Chu Ân Lai và Đặng Dĩnh Siêu cũng khá lý thú và chăm chút, họ yêu nhau khi chàng 21 mà nàng mới chỉ 15, cho nên chữ “tiểu” theo hai người suốt đời. Chu Ân Lai một mực gọi Đặng Dĩnh Siêu là “Tiểu Siêu” cho đến lúc nhắm mắt xuôi tay, mặc dầu bà ngày một lớn dần, “đại” lúc nào không hay và mọi người quen thân với mấy chữ “chị cả Đặng”, Chu Ân Lai cũng dùng như vậy khi Đặng Dĩnh Siêu ở ngôi thứ ba: “Hôm nay chị cả mời cơm, ở lại với bọn mình đi!”. Còn Tiểu Siêu? “nàng” vẫn cứ một “Ân Lai”, hai “Ân Lai” như cái thuở ban dầu lưu luyến ấy, mãi cho đến lúc đặt nụ hôn cuối cùng lên vầng trán Chu Ân Lai khi đưa ông về nơi cát bụi. Thi thoảng bà gọi ông là “Chu công”, “Hồ công” (ông già râu rậm) nhưng ngữ điệu chính chỉ là “Ân Lai” nơi phòng the và “Thủ tướng” chốn quan trường... Hồi chiến tranh kháng Mỹ viện Triều vừa kết thúc, một đêm Chu Ân Lai làm việc tại Tân Lục Sở, vừa ngước mắt lên vọng ra ngoài cửa sổ, bỗng thấy trời sáng trăng và nghe tiếng rào rào thật êm tai, ông đứng dậy thì mới hay “tuyết rơi, ôi tuyết đầu mùa sao mà đẹp vậy!” Hoa tuyết bay trắng trời, nhẹ nhàng phủ xuống mặt đất, dịu êm đến mức khiến ta không dám đạp lên, phá nát cái nền bông trắng muốt ấy.
Tuy đã liên tục làm việc gần 20 tiếng đồng hồ, giờ phải ngủ, nhưng khung cảnh tuyết bay giữa đêm trường như thế này đối với Chu Ân Lai là một kỷ niệm khó quên mà hàng năm gợi lại biết bao ký ức về quá vãng, ông trầm ngâm giây lát, rồi bảo tôi: “Chú Hà điện giúp cho chị cả, nhắn tới đây tôi có việc cần bàn”. Chắc chắn là có gì hệ trọng nên Thủ tướng mới gọi chị cả, tôi vội vàng chấp hành nhiệm vụ, chị cũng nghĩ như vậy và nhanh chóng đến Tân Lục Sở gặp chồng.
- Ân Lai anh, có chuyện gì cần lắm phải không?
Chu Ân Lai khoác lên mình chiếc áo dạ kiểu hải quân vừa đi vừa nói: “Chúng ta ra ngoài kia và anh sẽ bàn với Tiểu Siêu”. Đặng Dĩnh Siêu vô cùng mừng rỡ, vì bà là người “ghiền” cảnh tuyết rơi, và đêm nay nơi Tân Lục sở này, sáu ngôi lầu mà ai đó ngày xưa đã khéo đặt chúng giữa những vòm cây, tạo nên mỗi mùa mỗi cảnh, nhất lá khi tuyết rơi, ta như lạc vào chuyện cổ tích. Hai người nhẹ nhàng đặt chân lên đệm tuyết, bông tuyết rơi xuống phủ trắng trên đầu, trên áo họ, cái lạnh của mùa đông xen vào những khoảnh khắc bất chợt ấm áp bởi tuyết bắt đầu rơi khiến người ta say sưa chìm đắm, Chu Ân Lai và Đặng Dĩnh Siêu đã song hành, sát cánh và cùng bước từ lúc nào không hay, họ như trở về với cái thời thanh xuân xa xưa ấy. Dĩnh Siêu thỏ thẻ:
- Chuyện gì vậy Ân Lai?
- Anh muốn cùng Tiểu Siêu hưởng cảnh tuyết đầu mùa.
- Thế mà Tiểu Siêu cứ tưởng có việc quan trọng lắm... - Bà sung sướng nép mình vào Chu, thổn thức chẳng khác nào như cô bé được toại nguyện với những gì mà mình mong ước, giọng bà bị đứt quãng vào phần cuối của câu nói. Thật là những giây phút hiếm hoi và hạnh phúc trong đời người đàn bà đã dành trọn phần mình cho sự nghiệp của chồng, còn ngàn lần hơn trong nhung lụa, còn ngàn lần hơn cả uy quyền. Chu Ân Lai âu yếm:
- Tiểu Siêu thích tuyết, và vì vậy mà “quan trọng” lắm chứ - đoạn ông chậm rãi xa xăm. - Những ngày chúng ta leo núi tuyết, lạnh cóng giữa bao dặm trường chinh, anh hôn mê trong cơn đau vì ung mủ ở bàng quang, Tiểu Siêu đã một mạch từ đại hội lên tổng bộ chăm sóc anh, Tiểu Siêu vẫn còn ho ra máu, Tiểu Siêu nằm trong đám cỏ khô dành cho anh yên tĩnh đặt mình trên tấm ván thô, nhờ những cục băng mà Tiểu Siêu đã chườm, chất độc thải ra và Ân Lai này mới sống... sống đến hôm nay để cùng đi bên cạnh ân nhân của mình. Truyện "28 Ngày Đêm Quyết Định Vận Mệnh Trung Quốc " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
- Ôi, Ân Lai! Những ngày buồn nghĩ lại thấy vui vui - Đặng Dĩnh Siêu càng thổn thức, càng toại nguyện.
Đúng như “nàng” kết luận, hoan lạc chắc gì đã hạnh phúc, và khổ nạn đâu chỉ mỗi cam go. Hẳn trong chúng ta chưa có ai lại chạy về vũ trường để ôm hôn mảnh đất từng làm ta quay cuồng, từng khiến ta trào dâng những giây phút say đắm, mà hầu như tìm đến nơi chốn đã một thời đày đoạ, tra tấn, nhớ lúc gian nan xưa rồi nấc lên tiếng khóc sung sướng, rằng ta còn sống đến hôm nay. Đêm tuyết đầu mùa, cảnh vật yên tĩnh, “chàng” và “nàng” lạc vào cõi cổ tích của hiện tại, tranh thủ khoảng lặng trong bề bộn công việc để tận hưởng cái đẹp của đất trời, hồi ức quá vãng đau thương và cũng để tận hưởng cái thiện của tình nhân. Nhiều năm sau đó Chu Ân Lai và Đặng Dĩnh Siêu vẫn không quên những đêm tuyết rơi đầu mùa như vậy, “quan trọng” lắm đối với cuộc đời của họ.
Bù lại với bao bộn bề trăm thứ, không có thòi gian chăm sóc Đặng Dĩnh Siêu, “nuông chiều”, “cưng nựng” “nàng”, Chu Ân Lai thường dành cho Tiểu Siêu của mình những giây phút bất ngờ quý giá và bản thân ông cũng cảm thấy hạnh phúc vì sự hiến dâng tuy rất cỏn con ấy... Những năm 50, người đi công tác nước ngoài còn rất ít, mỗi lần lên đường đều gặp Chu Ân Lai, lúc đó là Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng, để xin chỉ thị về phương châm, chính sách, và thái độ hoạt động trên trường quốc tế. 10 giờ đêm nay Đặng Dĩnh Siêu lên tàu liên vận đi Mạc Tư Khoa mà giờ này chưa thấy Chu Ân Lai căn dặn gì cả; nóng ruột quá, bà phạm huý xộc vào văn phòng ông:
- Thưa Thủ tướng, đoàn chúng tôi sắp xuất phát, xin Thủ tướng cho chỉ thị. - Chu Ân Lai không nói không rằng, vẫn cúi đọc văn thư và giơ tay khoát vẫy, báo hiệu là ông còn bận lắm. Đặng Dĩnh Siêu lẳng lặng ra về và 9 giờ thắng xe đến ga xe lửa Bắc Kinh. 9 giờ 45, chu Ân Lai có mặt ở sân ga, Đặng Dĩnh Siêu nôn nóng chờ đợi, nhưng lần này thì bà không nhắc nhở gì, sau giây lát họ cùng lên tàu, Chu Ân Lai giúp vợ sắp đặt hành lý rồi thong thả ngồi xuống nhìn đồng hồ, chuông reo hồi chót, Dĩnh Siêu hốt hoảng:
- Ân Lai, anh xuống mau kẻo không kịp, 10 giờ rồi!
- Hãy còn sớm chán.
- Đồng hồ của anh sai rồi!
Lời chưa dứt thì tàu chuyển bánh, làm sao bây giờ, chuyến xe liên vận quốc tế đâu có thể đậu dừng tuỳ tiện được. Đang khi giận mà thương như thế, “nàng” bỗng nghe “chàng” nói: “Tiểu Siêu yên tâm, nhân thể đi Thiên Tân công tác, văn phòng đã bố trí toa xe quá giang, hai tiếng đồng hồ nữa chúng ta tạm xa nhau ít ngày... và lúc này cả hai ta đều rảnh rỗi, anh mới thực có thì giờ để căn dặn Tiểu Siêu đôi điều, nào ta bắt đầu”.
- Thế mà không nói trước, làm “người ta” cứ tưởng...
Một tiến sĩ xã hội học người Mỹ khi đến thăm Trung Quốc đã hỏi Trịnh Thục Vân - nhân viên bảo vệ sức khoẻ cho Thủ tướng:
- Thưa bà, ông Chu Ân Lai nói ra điều gì hầu như các bà đều nghe điều ấy, vì sao ạ, phải chăng ông ta quá đẹp trai và lôi cuốn phụ nữ?
Trịnh Thục Vân trả lời:
- Hoàn toàn không phải như vậy, ngài tiến sĩ phỏng đoán sai rồi, Thủ tướng của chúng tôi có một trái tim đẹp, có những lời nói chân thành, có những hành vi gương mẫu, những gì Thủ tướng yêu cầu chúng tôi thực hiện bản thân ông đều làm được, chính vì vậy mà Chu Thủ tướng nói ra điều gì, chúng tôi nghe điều ấy.
Chu Ân Lai anh tuấn, uy vũ, nhã nhặn, tài trí, lịch lãm, phong độ, đối với người phương Tây cũng như người phương Đông ông quả là một đấng trượng phu, nam tử, một hình tượng dễ khuynh đảo phái nữ. Nhiều phóng viên nhà báo tiếp cận, quan sát Chu Ân Lai với cách bình luận và suy nghĩ của mình đã thêu dệt nên bao chuyện huyễn hoặc từng truyền miệng một thời, rằng Gandhi phu nhân phải xiêu lòng trước ma lực của Chu, gọi ông là “Đông phương đệ nhất mỹ nam tử”, rằng Lâm Xảo Trĩ - nữ tiến sĩ lừng danh của Trung Quốc hoàn toàn đã “ngã” vì sức quyến rũ nơi ông.
Những lời bình phẩm như vậy theo chúng tôi còn nông cạn, phiến diện, tuy nhiên đều xuất phát từ lòng sủng ái của người đời đối với Chu. Sức hấp dẫn của Chu Ân Lai tất nhiên không phải là đẹp trai, hay quyến rũ vật chất mà chủ yếu từ sự cao thượng, cao nhã, cao khiết và cao tuyệt của tâm linh, trong Hán ngữ là “tứ cao”, ý tứ rất hàm súc khó diễn đạt một cách nôm na. Đúng là Lâm Xảo Trĩ (1901-1983-ND) đã có câu nói trứ danh: “Xưa kia tôi tín ngưỡng Thượng đế, ngày nay Thượng đế của tôi chính là Chu Ân Lai!”, bà kể lại câu chuyện sau đây về Thủ tướng. “Năm 1949, ngay sau khi vừa mới giải phóng, xây dựng nhà nước nhân dân, Chu Ân Lai mở tiệc mời các nhà khoa học tham dự, nhằm giải quyết tâm lý sợ hãi Cộng sản tạo nên do bị Quốc dân đảng tuyên truyền đầu độc bấy lâu nay, mọi người tìm hiểu lẫn nhau và xoá bỏ hận thù. Lúc đầu tôi định không đi, nhưng một người thân khuyên mãi nên cuôi cùng đành chấp thuận và cảnh tượng không bao giờ phai nhạt được trong tôi đã hình thành ở bữa tiệc này. Chu Ân Lai đưa tay chào đón một vị giáo sư nổi tiếng, cho phép tôi được giấu tên, nhưng vị giáo sư đã từ chối không bắt tay cùng Thủ tướng, trong giây lát ấy Chu Ân Lai đã xử sự một cách cao thượng, khiến cả phòng tiệc ai ai cũng phải ngã mũ bái phục, ông không lạnh lùng, không phẫn nộ, không khinh bạc mà tỏ ra độ lượng, ung dung tự tại, thể như người mẹ đối với đứa con lầm lạc, thể như người thầy đối với cô cậu học trò nghịch ngợm, tóm lại, Chu Ân Lai có một phong độ lãnh tụ và anh chị em trí thức chúng tôi đã “ngã” trước ông ngay từ ngày ấy. Ông quả là một nhà hiền triết Đông phương”.
Năm 1962, nhân ngày 8 tháng 3, Chu Ân Lai và Đặng Dĩnh Siêu mời một số đại biểu nữ về nhà ăn cơm thân mật, chị em rất phấn khởi và chuẩn bị sẵn sàng máy ảnh, tranh thủ dịp này để ghi lại những tấm hình kỷ niệm với Thủ tướng, có thể nói là Thủ tướng đã bị chị em “tranh giành” đến “mệt nhoài”, nhưng ông vẫn vui vẻ không hề từ chối. Hầu Ba là nữ nhiếp ảnh gia của Trung Nam Hải, là “người trong nhà” mà hăng hái không thua ai và buộc chị cả Đặng phải lên tiếng:
- Hầu Ba! Chưa đủ hình hay sao mà bấm nhiều vậy? - Chu Ân Lai rất nhanh nhạy, tế nhị, giữ cho nhiệt tình của khách nữ không bị suy giảm bởi câu nói “rất đàn bà” kia của Đặng Dĩnh Siêu, ông “hoà giải”.
- Nào, ai chụp ảnh xong, xin mời vào bàn, hôm nay chị cả mở tiệc mời các cô nhân ngày Tết của phụ nữ.
Không khí vẫn hồ hởi như cũ, Chu Ân Lai lườm Hầu Ba và cô thầm nói: Thủ tướng thật tài tình, ở lĩnh vực nào cũng xuất sắc, người không bao giờ thất lễ với phái nữ. Nhiều năm sau này Đặng Dĩnh Siêu đau ốm luôn, Chu Ân Lai tuy bận rộn công việc của nhà nước, nhưng vẫn dành thời gian chăm nom vợ, làm trọn đạo tào khang, an ủi người bạn đời, đồng tâm, đồng chí. Phần chị cả của chúng tôi, chị luôn căn dặn: “Chu Ân Lai là người của toàn dân, chị không thể tự tư một mình, các em hãy đừng làm phiền Thủ tướng của chúng ta”. Truyện "28 Ngày Đêm Quyết Định Vận Mệnh Trung Quốc " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Ngày 15 tháng 1 năm 1976, Đặng Dĩnh Siêu dùng sức lực toàn thân để giữ chặt lọ tro Chu Ân Lai - phần vật chất cuối cùng còn lại của chồng, lần đầu tiên bà gọi ông là đồng chí. “Đồng chí Ân Lai, xin hãy an nghỉ!”
Ngày ấy dân nước chúng tôi truy điệu Chu Ân Lai ở đài liệt sĩ, ở mỗi đường phố, làng quê, căn hộ và trong những con tim.
29.07.2014
Phần VI - Chương 9
MAO CHỦ TỊCH VÀ CHU ÂN LAI
Dịch giả: Thái Nguyễn Bạch Liên
Nguồn: NXB Cà Mau
Nội dung thu gọn
Một cuốn sách, thậm chí cả một bộ sách cũng viết không hết, nói không cùng về đề tài Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai, bởi vì lịch sử đã liên kết hai danh tính này lại với nhau, trở thành nội dung bình phẩm, ngợi ca, phê phán, đánh giá của nhiều thế hệ đời sau. Tôi chỉ dám từ những việc mắt thấy tai nghe, thông qua cảm thụ hoàn toàn cá nhân ghi ra đây đôi điều nhận thức và cách nhìn về chủ đề vô cùng lớn lao nêu trên.
Văn hoá Trung Quốc có một loại di sản, phải nói là rất đồ sộ, ấy là “trung quân”. Nhiều câu chuyện về “trung quân” từng kinh thiên động địa, từng khiến cho quỷ khóc ma hờn đã xảy ra khi biến động giữa minh chủ khai quốc và hôn quân vong quốc. Di sản “trung quân” ấy luôn luôn ảnh hưởng đến nền chính trị, nền văn hoá của Trung Quốc và đạo đức, tình cảm của nhân dân Trung Hoa.
Chu Ân Lai của chúng tôi cũng không ngoại lệ.
“Trung quân” thường được xem là mỹ đức để ca tụng, nhân dân nước tôi hôm nay vẫn có thể cảm thụ ảnh hưởng của nó từ trong sách vở thư tịch, tác phẩm sân khấu và đặc biệt từ biết bao câu chuyện được truyền tụng bất tử, người ta vẫn lấy “trung” và “bất trung” làm tiêu chuẩn quan trọng để đánh giá nhân phẩm của một con người, một nhân vật.
Chu Ân Lai đối với Mao Trạch Đông quả thực là trung thành bất nhị, sự trung thành có một không hai và có thể dùng ba chữ “Chu Ân Lai” làm tính từ cho một loại trung thành mà chúng tôi sẽ trình bày ở chương này. Nhưng vì vào những năm cuối đời, Mao Trạch Đông đã phạm sai lầm nghiêm trọng, vì giới trí thức Trung Quốc từ phong trào “Ngũ tứ” luôn một mực hô hào yêu cầu “Đức tiên sinh” và “Trại tiên sinh”, cho nên có người lên tiếng phản đối sự trung thành của Chu Ân Lai đối với Mao Trạch Đông.
Ở đây xin được mở ngoặc để giải thích tên tuổi của hai vị “tiên sinh” mà lớp lớp trí thức Trung Quốc bao đời nay mong mỏi, ấy là Democracy và Science, Dân chủ và Khoa học, dùng Hán ngữ phiên âm tên của hai “vị” hồi Ngũ tứ quen gọi là “Đức” và “Trại”. Phê phán hoặc lên án, tất cả chắng hề gì, bởi vì di sản văn hoá cứ thế vẫn tồn tại, vẫn tiếp tục chi phối một cách quan trọng nền chính trị, tỷ như Khổng Tử và Đạo Nho do ông sáng lập, cho dù bạn muốn làm gì hay nói gì, mấy ngàn năm nay vẫn cứ đồng hành với dân tộc Trung Hoa, hoà tan trong đạo đức của nhân dân, ngưng kết thành bao chiến công hiển hách v.v... Tóm lại, tuỳ tình thế khác nhau mà di sản văn hoá có một hình thức xuất hiện tương ứng, còn nội dung bản chất vẫn hoàn toàn bất tử, không hề thay đổi. Truyện "28 Ngày Đêm Quyết Định Vận Mệnh Trung Quốc " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Những ngày tháng đàm phán ở Trùng Khánh, tôi phục vụ Chu Ân Lai bay đi bay lại giữa bầu trời Diên An - Trùng Khánh tổng cộng tới 23 lần. Lúc bấy giờ ông là Phó chủ tịch, luôn luôn trong trạng thái nỗ lực và khẩn trương, không nghĩ đến ăn, không nghĩ đến ngủ, tất cả chỉ nhằm một mục tiêu: Mao Trạch Đông thân hành đến Trùng Khánh trực tiếp đàm phán. Chu Ân Lai từng trầm tư và bảo tôi nhiều lần: “Phải đưa Chủ tịch đến Trùng Khánh!”. Tôi như trong mơ màng bỗng dưng tỉnh dậy và la lên một tiếng: “Sao”. Chu Phó chủ tịch mỉm cười: “Hà phó quan ngạc nhiên lắm phải không? Thế là rất tốt, điều đó chứng tỏ Quốc dân đảng cũng nhất định bất ngờ, họ chưa chuẩn bị gì cả, họ vẫn nghĩ Chủ tịch không dám đi Trùng Khánh, còn tôi, còn chúng ta mọi việc đã sẵn sàng, và cục diện rồi Hà phó quan sẽ rõ, sẽ nhìn thấy họ thua như thế nào”.
Thực tế diễn tiến về sau đều chứng tỏ Chu Ân Lai nói trúng và nói đúng. Mật tin truyền đạt cho các đồng chí của chúng tôi ở Trùng Khánh, mọi người không dám tin điều đó, tôi báo cáo lại với Chu:
- Thưa Phó chủ tịch, các đồng chí đều ngạc nhiên và không đồng ý để Mao Chủ tịch đến Trùng Khánh ạ.
- Ở các khu giải phóng, ý kiến cũng như vậy.
- Hay là chúng ta khuyên can Mao Chủ tịch?
- Không! - Chu Ân Lai cương nghị, - 20 năm nay, chưa một ngày nào Tưởng Giới Thạch từ bỏ ý định tiêu diệt chúng ta, 20 năm đã không diệt nổi thì lần này cũng vậy, không làm gì được chúng ta, không làm gì được Mao Chủ tịch!
Chu nói một cách rất tự tin và lôi cuốn thuyết phục tôi. Ông nói tiếp: “Mao Chủ tịch thân hành tới Trùng Khánh, tin này sẽ làm náo động Diên An, Trùng Khánh, các khu giải phóng, cả hậu phương, cả Trung Quốc và thế giới nữa. Gan giết người của Tưởng Giới Thạch làm gì dám sánh nổi gan không sợ hy sinh của Mao Chủ tịch, người vì cả dân tộc, người vì toàn thể nhân dân. Tưởng Giới Thạch dám to gan bẻ nạng chống trời? Sức mấy!” Chu Ân Lai càng nói, càng xúc động, trước mắt tôi, giờ đây ông như một võ tướng với uy vũ “râu hùm hàm én”.
Thời khắc Mao Chủ tịch đặt chân tới Trùng Khánh, mảnh đất này như sôi sục, như trào dâng, những vị đứng đầu các đảng phái dân chủ tiến bộ, phóng viên trong và ngoài nước, quan phương sĩ tướng của Quốc dân đảng, đồng bào đồng chí Trùng Khánh đều hoan nghênh Người và trong tôi bỗng vang lên lời nói đầy vẻ anh hùng: Tưởng Giới Thạch, ngươi định ám hại Mao Trạch Đông ư? Thì hôm nay Mao Trạch Đông đã tới, ngươi hãy hành động đi... Nay nghĩ lại, dũng khí và lòng tin bản thân chưa phải là an toàn, Chu Ân Lai biết rõ điều đó và lúc bấy giờ ông phải suy nghĩ chu đáo kín kẽ, hành động cương quyết thận trọng, nỗ lực tối đa vì Mao Chủ tịch - hình tượng của Trung Cộng chúng tôi! Về phương diện bảo vệ an toàn, tất nhiên những nhân viên bảo vệ có vai trò đặc biệt quan trọng, nhưng ngoài họ ra còn phải bố trí đám vệ sĩ. Theo cổ thư, vệ sĩ lo mọi điều cho chủ soái, ăn ngủ đi lại, sau mới đến vòng ngoài những hộ vệ mang dao gọi là “ngự tiền tứ phẩm”. Chu Ân Lai nghiên cứu sách vở cổ kim, rồi tự nói với mình: “Phải có loại vệ sĩ, cảnh vệ như rồng, như hổ”.
- Hà phó quan, ý kiến của anh như thế nào? - Nghe Chu Ân Lai lẩm bẩm một mình, đoán ra ý đồ của ông, tôi mạnh dạn báo cáo:
- Mao Chủ tịch là rồng thật, cho nên bên mình người cũng phải là cảnh vệ rồng ạ.
- Đúng, phải là rồng và có đủ 3 con!
Chu Ân Lai quyết định chọn 3 đồng chí là Trần Long, Long Phi Hổ, Nhan Thái Long - 3 con rồng luôn luôn quấn quýt bên cạnh Chủ tịch, đi cùng xe, ngồi cùng bàn, ăn cùng món, không rời khỏi Mao nửa bước, nửa giây. Tại phi trường Trùng Khánh, lúc chờ máy bay đưa Mao Trạch Đông từ Diên An đáp xuống, Chu Ân Lai dặn tôi: Truyện "28 Ngày Đêm Quyết Định Vận Mệnh Trung Quốc " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
- Chủ tịch tới, Hà phó quan đừng lo gì cho tôi nữa, chúng ta cùng hiệp sức bảo vệ Người.
Chu Ân Lai hộ tống Mao Trạch Đông rời khỏi phi trường, trước sau tả hữu đều có xe của hiến binh Quốc dân đảng bảo vệ. Ngay hôm ấy, Tưởng Giới Thạch mở tiệc khoản đãi và Mao Trạch Đông nghỉ tại công quán Tưởng gia trên núi Ca Lạc, Chu Ân Lai yên tâm, vì có điên đi nữa Tưởng cũng không dám ám hại “khách” trong nhà của mình. Ngày thứ hai, Mao chuyển về thôn Hồng Nham, ngồi bên cạnh ông là Trần Long và Long Phi Hổ, trước và sau vẫn xe của Quốc dân đảng, chúng tôi lo lắng vì lúc nào cũng có quân đội Tưởng kè kè sát nách Chủ tịch, Chu Ân Lai giải thích:
- Các đồng chí nghĩ như vậy là không đúng, nơi đây thuộc phần đất của người ta, họ làm chủ, giao trách nhiệm cho chủ bảo vệ khách, mới thực thượng sách.
Như đã giới thiệu ở nhiều chương trước, thôn Hồng Nham nằm ở ngoại ô Trùng Khánh, là nơi thanh tịnh dễ bảo vệ, nhưng Chu Ân Lai vẫn “giao kèo” với tôi và Tưởng Trạch Dân: “Từ thôn Hồng Nham ra đến đường cái quan dài đúng một cây số, trên đoạn đường này tôi giao nhiệm vụ hai đồng chí bảo vệ đưa đón, nếu để xảy ra việc gì, trách nhiệm hoàn toàn thuộc về các đồng chí, Hà phó quan và Tưởng phó quan rõ chưa?”
- Rõ, thưa Chu Phó chủ tịch!
Tôi và đồng đội vô cùng lo lắng. Hồi “văn cách”, người ta nói “mỗi câu của Mao Chủ tịch phát ra địch nổi những vạn lời, ngàn ý”, có lẽ hơi thổi phồng, phóng đại, còn ở Trùng Khánh “một cây số như là muôn dặm” quả không sai tý nào, đoạn đường ấy sao mà dài, sao mà nặng nề vậy. Chu Ân Lai chỉ lên bản đồ và căn cặn: “Xuất phát chỗ này và kết thúc chỗ kia, hai đồng chí nhớ cho kỹ. Xe của Chủ tịch ra khỏi cổng thôn Hồng Nham, hai đồng chí giao cho hiến binh Quốc dân đảng, thế là hoàn thành nhiệm vụ lượt đi và chuẩn bị đón lượt về”. Cứ như vậy trên từng cây số mà Mao Trạch Đông đi về đều có cảnh vệ do Chu Ân Lai bố trí. Về khoản ăn uống do “đầu bếp” Diên An phụ trách nấu nướng, Chu Ân Lai chủ trương “không kể ngon dở, chỉ cần an toàn, phòng tránh độc hại là được”. Lúc đi dự yến tiệc, Chu đưa ra nguyên tắc mọi người dùng món nào Chủ tịch dùng món ấy là luôn luôn “tiền chủ hậu khách”. Riêng về uống rượu thì Chu “liều mình cứu chúa” và anh em cảnh vệ, vệ sĩ thương ông đến phát khóc, Chu Ân Lai sợ “trong rượu có tay chân của kẻ địch” nên nhất mực không để cho Mao Trạch Đông chạm môi. Ngày ấy tôi đã khóc vì thương Chu Phó chủ tịch xả thân gánh rượu thay Mao, và 30 năm sau tôi lại khóc khi Giang Thanh phát động “phê Chu công”. Nhớ lúc Mao Trạch Đông đi Trùng Khánh, Giang Thanh đã từng chứng kiến mọi việc làm của Chu Ân Lai, thị nói: “Ân Lai quan tâm Chủ tịch còn hơn người nhà chúng tôi”, thế mà giờ đây thị ngang nhiên hành hạ Ân Lai và Chủ tịch không một lời can gián.
Mao Trạch Đông là người của công việc lớn, ông ngày đêm nghĩ cách làm thế nào dựa vào những nhận thức của mình đối với thế giới và quy luật để thúc đẩy cách mạng một cách sâu hơn, rộng hơn; bằng ý chí và niềm tin của mình để khai phá, mạo hiểm và sáng tạo nên thế giới mới, đẹp đẽ hơn. Mao không chú ý đến những hy sinh và giúp đỡ của người khác vì mình, cho mình, ông nhận thức rằng, tất cả những cái đó đều là hành động cách mạng, không có quan hệ hay tình nghĩa cá nhân. Sau năm 1949, tôi quan sát Mao Trạch Đông chỉ đến Tây Hoa sảnh đúng một lần, có lẽ ông ngại những việc làm “đàn bà” như vậy. Ông bắt Chu Ân Lai làm thủ tướng chung thân, cho dù Chu có mắc bệnh ung thư, cho dù Chu nằm liệt giường không thể thiết triều, ông không đến thăm Chu, nhưng không để ai thay chức Thủ tướng, phải chăng đó là sự tín nhiệm, cảm kích, tôn kính hay giãi bày lòng mình đối với kẻ tôi trung? Còn Chu Ân Lai, đúng là một đời đã tận tâm vì Mao Trạch Đông. Có thê nói hồi ở Trùng Khánh, Chu là người cảnh vệ số 1 của Mao! Ông lo lắng mọi việc ăn, ở, đi lại cho Mao, hằng đêm ông tuần tra bên ngoài hành lang phòng nghỉ của Mao, sợ Mao mất ngủ, ông tháo giầy chỉ mang mỗi vớ, không gây nên tiếng động, thật như một a hoàn ngoan ngoãn..
Ngày 8 tháng 10 năm đó, đúng 3 hôm trước khi Mao Trạch Đông trở về Diên An thì Lý Thiếu Thạch - thư ký tiếng Anh của Chu Ân Lai không may bị trúng đạn tử vong, bỏ lại người vợ goá Liêu Mộng Tỉnh (con gái Liêu Trọng Khải). Hôm ấy, Liễu Á Tử đến văn phòng tìm gặp Chu Ân Lai, Chu bận tháp tùng Mao Trạch Đông dự tiệc rượu do Trương Thị Trung thết đãi, tiễn đưa Mao trở về khu đỏ, nên dặn Lý ở nhà tiếp Liễu thay mình. Chuyện trò xong, Lý tiễn Liễu, quay xe về văn phòng không may va quệt làm bị thương một binh sĩ Quốc dân đảng, người lái hoảng quá vẫn cho xe gia tốc và “đoàng” 3 tiếng, Lý Thiếu Thạch trúng đạn, đưa đến bệnh viện thì anh tắt thở.
Tiệc tàn và Chu Ân Lai đưa Mao Trạch Đông đi xem kịch với Trương Thị Trung, màn vừa mở thì Long Phi Hổ đến nói thầm với Chu: “Thưa Phó Chủ tịch, sinh chuyện rồi, đồng chí Lý Thiếu Thạch bị ám hại!”. Chu lập tức cho mời Tư lệnh hiến binh Quốc dân đảng là Trương Trấn tới, yêu cầu ông ta bằng mọi cách bảo vệ Mao Trạch Đông được an toàn tuyệt đối, rồi đến bệnh viện vĩnh biệt Lý Thiếu Thạch, giải quyết đền bù thuốc men cho binh sĩ bị xe tông và kháng nghị nhà đương cục về hành vi ám hại người của chúng tôi.
Hiệp định Song Thập không đi đến kết quả, Mao Trạch Đông an toàn trở về Diên An, Chu Ân Lai thờ phào nhẹ nhõm, ông cho mở tiệc cám ơn Trương Trấn và binh sĩ Quốc dân đảng đã có công bảo vệ Mao Trạch Đông trong thời gian ở Trùng Khánh. Tôi chú ý quan sát và thật cảm động trước sự quan tâm lo lắng của Chu Ân Lai đối với Mao Trạch Đông, tỉ mỉ và cẩn trọng vô cùng. Chu Ân Lai là người phản đối tổ chức mừng sinh nhật, năm 1960 lúc ông 62 tuổi, tôi và Tôn Duy Thế bí mật sắm lễ, kết quả bị Thủ tướng “trừng phạt”. Nhưng ngày 26 tháng 12 năm 1974 - lần sinh nhật của Mao Trạch Đông, tuy đã bị ung thư, Chu Ân Lai vẫn nâng ly chúc thọ Mao với một thái độ trung thành bất nhị, ông kính Mao chén rượu cuối cùng của đời mình.
Thời kỳ Trùng Khánh đã có phóng viên phỏng vấn Chu Ân Lai: “Thưa Chu tiên sinh, trước đây tiên sinh từng làm việc dưới sự lãnh đạo của Trần Độc Tú, Cù Thu Bạch, Vương Minh v.v... còn bây giờ là ông Mao, tiên sinh giải thích như thế nào về sự thay đổi này?”.
Chu trả lời, đại ý như sau: “Ai đại biểu nhân dân, ai đại biểu cho lợi ích căn bản của cách mạng, tôi chọn người đó”.
Riêng cá nhân tôi, tôi cho rằng, muôn hiểu được quan hệ của Chu Ân Lai đối với Mao Trạch Đông, chúng ta hãy xem cái huy hiệu mà Chu luôn luôn đeo trên ngực, một phần ba diện tích là hình ảnh Mao, còn hai phần kia chói ngời năm chữ “vì nước phục vụ”.
Trịnh Thục Vân kể lại: Hồi mới “văn cách”, một hôm tôi đi làm và nhìn thấy Thủ tướng ngồi tư lự trước một loạt huy hiệu hình Mao Chủ tịch chất ngất trên bàn, Thủ tướng hỏi tôi thích cái nào, tôi phân vân không biết trả lời ra sao thì Thủ tướng nhặt lấy cái có 5 chữ “vì nhân dân phục vụ” chiếm hai phần ba diện tích, Thủ tướng đeo nó cho tới ngày qua đời.
Một nhà báo không hoàn toàn đồng ý với lời kể của Trịnh Thục Vân, ông cho biết, năm 1967 khi đi công tác Quảng Châu, Thủ tướng tới dự một cuộc mít tinh, viên nữ Hồng vệ binh ngăn Thủ tướng ngay tại cổng và nói: “Thưa Thủ tướng, cho phép tôi thay huy hiệu của đồng chí”, Chu Ân Lai không hề sợ hãi nhanh trí đáp lại: “Đồng chí tiểu tướng, nếu đồng chí thích huy hiệu tôi đang đeo, tôi xin tặng lại”, cô gái nọ cũng thật dũng cảm bước lên làm công việc thay huy hiệu trên ngực áo Thủ tướng. Đêm ấy về phòng ngủ, Chu Ân Lai lại đeo loại 5 chữ “vì nhân dân phục vụ” mà ông đã chọn, cái ban đầu nói trên bị tước ở Quảng Châu chứ đâu còn đến ngày tạ thế?
Quả đúng như vậy, Trịnh Thục Vân cũng công nhận, loại 5 chữ “vì nhân dân phục vụ”, Thủ tướng có mấy cái cơ, hẳn ông đã nghĩ tới việc bị tước như ở Quảng Châu, nên phải dự phòng.
Chu Ân Lai trung thành và quý mến Mao Trạch Đông có đặc sắc riêng, để làm rõ những đặc sắc này, ngươi viết xin được so sánh với Lâm Bưu và Đặng Tiểu Bình.
Trong suốt thời kỳ đấu tranh vũ trang, phải nói rằng, trên cơ bản Lâm Bưu đứng về phía Mao Trạch Đông, có chiến công hiển hách so với các nguyên soái khác và được xếp hàng thứ 3 sau Chu Đức - Tổng Tư lệnh, người cùng Mao hội sự tại Tĩnh Cương Sơn sáng lập nên quân đội cách mạng, sau Bành Đức Hoài - Phó Tổng Tư lệnh, mà thời kỳ Vạn lí trường chinh và ở Thiểm Bắc có lúc đã là Tổng Tư lệnh. Ngày nay thường thành kiến mà nói Lâm Bưu thuộc loại “hô muôn năm trước mặt, nhưng đâm dao găm sau lưng”. Cách nói như vậy không thật khách quan, toàn diện và làm méo mó sự thật lịch sử. Nếu Lâm Bưu là kẻ tiểu nhân như thế, với sự anh minh, cơ trí cỡ Mao Trạch Đông thì hẳn ông đã không xếp Lâm Bưu vào vị trí thứ 3 trong hàng ngũ nguyên soái và cuối cùng giao cho Lâm làm người kế vị, ghi vào điều lệ Đảng. Tôi có dịp gặp gỡ số anh chị em phục vụ Mao Chủ tịch, họ nói: Lâm Bưu từng trung thành với Mao, không phải “hô muôn năm trước mắt mà đâm dao găm sau lưng”, ngược lại “dám trực diện đối đầu và hô khẩu hiệu ủng hộ”. Trong những cán bộ cao cấp, chỉ có 2 người dám cãi Mao Trạch Đông, đó là Bành Đức Hoài mà ở hội nghị Lư Sơn từng “kéo mũ Mao, cạo trọc đầu, ngang nhiên chửi thề với ông ta” và cả nước đều đã biết, người thứ hai - Lâm Bưu, song không phải ai cũng rõ cả.
Ở Tỉnh Cương Sơn, trên đường trường chinh, khi kháng Nhật và hồi đấu tranh giải phóng, Mao, Lâm tranh luận nhau khá gay gắt.
Mao nói:
- Thằng nhóc, anh thì hiểu cái quái gì?
Còn Lâm:
- Đồng chí hiểu thì tôi hiểu, đồng chí chỉ nghe nói, tôi mới là người nhìn thấy ở chiến trường, ở tiền tuyến!
Thời giải phóng Đông Bắc, Lâm Bưu đánh trận thật xuất sắc và nhiều lúc bất đồng với Mao, hai người tranh luận, cuối cùng phải dùng kết quả thực tế làm trọng tài. Lâm Bưu cãi nhau cùng Mao, thái độ hoàn toàn khác Bành Đức Hoài, ông rất trầm tĩnh với câu nói cổ điển: “Không phải như thế, thưa Chủ tịch!” và luôn luôn ỷ mình là người thực tế mắt thấy tai nghe... Nhưng từ khi tay cầm cuốn sách đó, đứng bên cạnh Mao Trạch Đông, cùng đám Hồng vệ binh, đám tiểu tướng, đám tạo phản hô vang “muôn năm, muôn muôn năm” thì Lâm Bưu bắt đầu chuyển biến không trung thành và lúc ấy mới thực “trước mặt, sau lưng...” như người đời vẫn nói.
Đêm hoa đăng ngày quốc tế lao động năm 1971, chúng tôi và Thủ tướng phải ra quảng trường Thiên An Môn sớm hơn giờ khai mạc. Đây cũng là cái “tật” của Chu Ân Lai, ông thường “diễn tập” cách đi, cách ngồi, cách đứng v.v... của Mao, chỉ ra những thiếu sót của việc chuẩn bị, yêu cầu sửa chữa ngay, và sau đó quả ứng nghiệm, nếu không làm như Chu thì đã gây ra không biết bao là sự cố. Như thường lệ, chủ soái và phó soái ngồi cạnh nhau, nhưng sao giờ này Lâm Bưu vẫn chưa đến? Điện hỏi văn phòng của Lâm, người ta bảo ông mệt, đêm nay không dự được. Truyện "28 Ngày Đêm Quyết Định Vận Mệnh Trung Quốc " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Hồi “văn cách”, lên thành lầu Thiên An Môn được xem như lên sân khấu chính trị, ai đứng đâu, ai ngồi đâu là rất rõ ràng, phản ánh sự tương quan của quá trình đấu đá vừa qua, ai còn, ai mất v.v... do đó Chu Ân Lai phải thân hành điện thoại với Lâm Bưu:
- Xin mời Lâm Phó chủ tịch tới dự đêm hoa đăng, nếu mệt, Phó chủ tịch có thể về trước, còn bây giờ khai mạc. Chủ tịch đã đến rồi, thiếu Phó chủ tịch thì kỳ lắm và sẽ ảnh hưởng đến nhân dân cả nước.
Lâm Bưu cuối cùng chấp thuận, nhưng ra điều kiện không cùng Mao bước lên thành lầu.
- Thưa Chủ tịch, Lâm Phó chủ tịch hơi mệt, đêm nay xin đến chậm một tý.
Chu Ân Lai báo cáo, Mao Trạch Đông xem như không có chuyện gì xảy ra, và chỉ nói một câu: “Lâm Bưu lúc nào cũng áp dụng biện pháp chủ nghĩa duy tâm đối với căn bệnh của mình”. Ông nhớ lại ở hội nghị Lư Sơn năm 1970, Lâm Bưu đã cáo bệnh như đêm nay và do đó “ngửi” thấy mùi dã tâm chính trị của Lâm. Đêm ấy Mao Trạch Đông không mặc quân phục nhằm hô hào “toàn quốc học tập Quân giải phóng”, ông chững chạc trong bộ Tôn Trung Sơn màu xám tro, nói chuyện liên hồi với hoàng thân Sihanouk và phu nhân. Lâm Bưu bẽn lẽn ngồi vào vị trí của mình rồi lại bẽn lẽn rút lui lúc nào không hay. Lễ hoàn tất, trở về văn phòng, Chu Ân Lai cho kiểm tra toàn bộ các tấm ảnh mà phóng viên đã chụp, may sao chỉ có mỗi một kiểu của Đỗ Sơn ghi được hình ảnh chủ soái và phó soái, Thủ tướng quyết định dùng nó đăng lên Nhân Dân nhật báo số ra ngày mồng 2 tháng 5 để “ổn định đoàn kết”, nhưng trên thực tế nó đã dự báo sự kiện phản bội của Lâm Bưu “ngày 13 tháng 9” mà hồi ấy Chu Ân Lai phải mất trọn 3 ngày 3 đêm mới đập tan tập đoàn Lâm Bưu, bảo đảm an toàn cho Mao Trạch Đông...
Còn Đặng Tiểu Bình, cuộc đời ba lần vào ra Trung Nam Hải của ông đã chứng tỏ tất cả. Có thể nói ông và Chu Ân Lai là những người theo chủ nghĩa Mác - Lê “vụ thực”, họ đều công nhận Mao Trạch Đông là lãnh tụ của nhân dân Trung Quốc, là nhà lý luận cách mạng, họ chưa hề phản đối hệ thống tư tưởng của Mao, chỉ bất đồng trên quyết sách, biện pháp cụ thể sai lầm do Mao gây nên, ví như Mao “lấy đấu tranh giai cấp làm cương lĩnh” biến mâu thuẫn nội bộ thành mâu thuẫn địch ta và áp dụng thủ đoạn “đả đảo”, “thanh trừ” kết quả là cả một tấn bi kịch lịch sử. Mỗi khi có bất đồng, có phân kỳ với Mao, mức độ càng nghiêm trọng thì thái độ và cách xử trí của Chu và Đặng càng khác nhau. Chu Ân Lai làm việc bên cạnh Mao phải đến 40 năm, sở trường sở đoản của Mao ông tường tận hơn Đặng Tiểu Bình. Nhưng Đặng không mê tín Mao như kiểu Chu Ân Lai, cho nên ông nhận thức tính chất và nguy cơ những sai lầm của Mao phạm phải lại sâu sắc hơn. Tính cách Chu Ân Lai như ly rượu Thiệu Hưng dễ được tiếp nhận, bản thân ông nhẫn nại, hàm súc, còn Đặng Tiểu Bình như quả ớt Tứ Xuyên, cay, nóng và làm cho người ta phải xuýt xoa. Chu Ân Lai một mực tuân thủ kỷ luật, chấp hành vô điều kiện quyết nghị của Đảng, Đặng Tiểu Bình khi đã nhìn rõ mục tiêu thì dám hy sinh và phá vỡ những công thức, khuôn phép từng được thần thánh hoá. Tất cả những sự khác biệt đó đã quyết định vận mệnh của từng người. Tháng 8 năm 1980, khi trả lời nhà báo Italia, Đặng Tiểu Bình đã nói: “Chu Ân Lai như người anh của tôi, ông được đồng bào đồng chí tôn kính, ông không bị đánh đổ trong Cách mạng văn hoá, đó là một hồng phúc. Thuở ấy ông lâm vào hoàn cảnh vô cùng khó khăn, nói và làm khác với bản thân mình, nhưng nhân dân hoàn toàn thông cảm, vì không nói và làm như vậy thì ông đã không đứng vững, không phát huy tác dụng của mình để giảm thiểu tổn thất và bảo vệ một lớp người cho sau này”.
Cuộc đời của Chu, của Đặng, người thế này, người thế kia, âu cũng là “thụ mệnh dự thiên”, trời ở đây chính là sự lựa chọn của lịch sử, sự lựa chọn của nhân dân. Một khi nhân dân không thể sổng bằng khẩu hiệu, một khi động lực thúc đẩy lịch sử không còn là những lý luận suông thì sự chọn lựa Đặng Tiểu Bình là điều tất nhiên, nhưng trước đó, trước Đặng, Mao Trạch Đông đã khai thiên phá thạch, làm “sạch sẽ” 9 triệu 600 ngàn cây số vuông quốc thổ để hôm nay thực hiện công cuộc hiện đại hoá.
Sau ngày Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai đều qua đời, trong xã hội dấy lên một luồng gió đề cao Chu, hạ thấp Mao. Một đồng chí cách mạng lão thành khẳng khái mà rằng, nếu phủ định Mao Trạch Đông thì Chu Ân Lai còn “cao” được không?
Đặng Dĩnh Siêu cũng nói: “Các đồng chí không nên làm như vậy, có lúc nào Chu Ân Lai phản đối Mao Chủ tịch đâu, các đồng chí đã hiểu Chu Ân Lai rất rõ, đường lối đúng Ân Lai đúng, đường lối sai Ân Lai sai”.
Năm 1971, lúc xảy ra sự kiện Lâm Bưu, tại Đại lễ đường Nhân dân, sau khi nghe Chu Ân Lai chính thức thông báo toàn bộ mưu đồ của tên phản nghịch, mọi người hân hoan bao quanh ông và ai đó đã nói: “Thưa Thủ tướng, đồng chí đã mang lại hạnh phúc cho nhân dân”. Thủ tướng sửa ngay. “Không nên nói như vậy, đó chẳng qua là công việc cụ thể do Mao Chủ tịch lãnh đạo mà tôi phải tận tâm thực hiện”. Khi cùng Nixon đàm phán ở Bắc Kinh, hai bên không đi đến kết quả, chủ yếu là vấn đề Đài Loan, Chu Ân Lai bèn mời Tổng thống Mỹ đi thăm Thượng Hải và tiếp tục đàm phán. Với tài trí thông minh và kinh nghiệm dày dạn của mình, Thủ tướng đã đưa Nixon đi đến “Công báo Thượng Hải”, phá vỡ sự phong toả của chủ nghĩa đế quốc trong hơn 20 năm qua đối với Trung Quốc. Một bình luận gia người Mỹ đã nói: “Nếu không có ông ta, thì Trung Quốc đã chắc gì thuận lợi như vậy khi đặt quan hệ hữu hảo với quan phương và công chúng Hoa Kỳ”. Công báo dự thảo xong, Chu điện thoại về Bắc Kinh xin ý kiến Mao, Chủ tịch đang ngủ, ông không dám quấy rầy vì người chưa hồi phục sức khoẻ sau một cơn bệnh nặng, Thủ tướng đi vòng quanh bàn làm việc, suy nghĩ, chờ đợi và cuối cùng do tính chất khẩn cấp nên Chu Ân Lai mạnh dạn chịu trách nhiệm đánh thức Mao Trạch Đông trở dậy, ra quyết định tối hậu... Đó là đức tính tôn kính Mao Trạch Đông mà Chu Ân Lai luôn luôn giữ gìn từ hội nghị Tuân Nghĩa lịch sử cho tới khi qua đời.
Phần cuối của chương này xin được nói đôi điều về quan hệ của Thủ tướng với Giang Thanh và lập đoàn cực tả trong Đảng. Phương châm tổng quát của ông là: anh nói việc anh, tôi làm việc tôi, không tranh cãi hoặc im lặng, sau này ra sao thì cứ như thế ấy. Cách của ông hầu như khác Đặng và do kết quả hoàn toàn không giống nhau, nhưng nhân dân đã thông cảm ông vì mỗi người một hoàn cảnh. Thời Diên An, Giang Thanh ưa tìm đến Chu Ân Lai, nhất là những lúc cãi nhau với Mao Trạch Đông, bà thường “tố khổ” với Chu và nhờ ông dàn xếp mâu thuẫn gia đình mình. Cũng như nhiều người hồi ấy, mỗi khi học tập có điều gì tâm đắc thu hoạch, mỗi lần bước vào một công tác, dự định nào đó hoặc giả gặp khó khăn trở ngại, Giang Thanh đều báo cáo và thỉnh thị Chu Ân Lai cho ý kiến, bởi vì ông được toàn đảng công nhận là một con người ôn hoà, lương thiện, chính trực, nhẫn nại, thông minh. Đó là thời kỳ mà nội bộ đảng rất nghiêm túc, rất đoàn kết, chưa mắc bệnh a dua nịnh bợ, đả kích báo thù và Giang Thanh chưa có biểu hiện gì là ranh mãnh, độc địa. Giang Thanh tự tiện cho thay đổi thảm nhà và rèm cửa căn hộ của mình ở Quảng Châu, sự việc bị vợ của Trần Vân phát hiện báo cáo Trung ương và cuối cùng Giang tiếp thu phê bình không dám nói năng gì cả. Chu Ân Lai chưa phải đối phó với Giang Thanh, quá lắm là khuyên can bà hãy vì danh dự của Mao Chủ tịch.
Đầu những năm 50, giữa Giang Thanh và Vi Minh - thư ký của Thủ tướng - xảy ra mâu thuẫn. Khi ấy cuộc kháng Mỹ viện Triều đang rất căng thẳng, Thủ tướng lâm bệnh vừa mới đỡ, chúng tôi chiếu phim vui, mời ông giải trí thư giãn. Phòng chiếu tắt đèn, tiếng máy kêu xè xè và màn bạc bật sáng thì chuông điện thoại réo liên hồi, Vi Minh vội chạy ra cầm ống nói và nghe oang oang:
- Tôi là Giang Thanh xin mời Thủ tướng nghe điện thoại.
Vi Minh chột dạ, Thủ tướng vừa hơi đỡ, nghỉ một lát cũng không được, cô mạnh dạn trả lời:
- Thủ tướng mệt, đang xem phim giải trí, việc của chị có gấp không, nếu không gấp xin để cho Thủ tướng xem hết phim, rồi sẽ gọi với chị sau.
Giang Thanh là thư ký của Mao Trạch Đông, còn Vi Minh là thư ký của Chu Thủ tướng, cách trao đổi như vậy giữa các thư ký là bình thường, nhưng Giang Thanh lại vừa là đệ nhất phu nhân, cho nên dù Vi Minh có lịch sự khách sáo đến mấy bà ta cũng cảm thấy mếch lòng, giận dữ:
- Đó là ý của cô hay là ý của Thủ tướng?
Vi Minh không sá gì thân phận, với bồng bột của tuổi trẻ, cô đáp luôn:
- Vậy mời Thủ tướng nghe điện thoại là ý của chị hay là ý của Chủ tịch?
- Cô không cần biết! - Giang Thanh phát hoả và Vi Minh dập máy. Giang quay lại điện thoại và trách cứ Vi: - Tại sao cô dập máy?
- Vì chị bảo không cần biết - như sợ sinh chuyện nên Vi Minh phải làm lành, vào mời Thủ tướng ra tiếp điện thoại. Chúng tôi theo dõi đúng gần 1 tiếng đồng hồ, Thủ tướng tôi thật nhẫn nại, gặp Đặng Tiểu Bình thì chắc không quá 1 phút.
- Thưa Thủ tướng, chị ta rắc rối quá! - Tôi phàn nàn với Chu vì Giang Thanh mà bỏ dở bộ phim, ông vui vẻ trả lời:
- Giang Thanh vừa xem xong một kịch bản và trao đổi với tôi về những cảm tưởng của mình...
Sau vụ đôi co trên máy điện thoại với Vi Minh, Giang Thanh viết bản cáo trạng 2000 chữ chụp mũ cho Vi, Chu Ân Lai phải làm trọng tài phân xử, cả hai đều có khuyết điểm và cần tự phê bình, Giang cũng ngoan ngoãn chấp thuận, may mà sự việc xảy ra hồi đó chứ đợi đến lúc “văn cách” thì thân xác Vi Minh không biết sẽ tan ra bao nhiêu mảnh.
Thời “văn cách”, Chu Ân Lai xem Giang Thanh như một nhân vật để đối xử, lý do đơn giản là Mao đã sử dụng bà ta cũng như một nhân vật. Cuối năm 1966, Mao triệu tập hội nghị, ngồi bên trái ông là Giang Thanh, Khang Sinh, Trần Bá Đạt, Trương Xuân Kiều và đám binh mã “văn cách”, còn bên phải - Chu Ân Lai, Đào Chú, Diệp Kiếm Anh và những cán bộ lão thành. Mao Trạch Đông giơ tay trái chỉ đám “văn cách”: “Đối với cán bộ già bao gồm số lãnh đạo chủ chốt các tỉnh, thành phố, khu tự trị, không nung không đốt không được, phải tiếp tục đổ thêm dầu, quạt thêm gió”. Đoạn, ông phất tay phải về phía Chu Ân Lai, Đào Chú và nói: “Nhưng không được đốt thành tro, phải biết khống chế gió, dầu, và cứu người ra khỏi nơi nước sôi lửa bỏng đó”.
Đây là nghệ thuật lãnh đạo của Mao Trạch Đông, ý định của ông không chủ mưu đả đảo lớp cán bộ già mà chỉ nung đốt họ, biến họ từ những Bồ Tát đất bùn thành Bồ Tát sành sứ và qua được sông nước. Nhưng Giang Thanh và băng nhóm của bà quyết “đốt thành tro”, còn Thủ tướng thì trăm phương ngàn kế “cứu người ra khỏi nơi nước sôi lửa bỏng”, mâu thuẫn Chu - Giang là không tránh khỏi.
Trung tuần tháng 3 năm 1968, theo chỉ thị của Mao, Chu chủ trì hội nghị thảo luận giải quyết vấn đề Đông Bắc, Giang Thanh được mời tham dự.
Khoảng nửa giờ trước khi khai mạc, thư ký của Giang Thanh là Tôn Chiếm Long gọi điện thoại cho Thành Nguyên Công - Phó giám đốc sở cảnh vệ thuộc Cục bảo vệ Trung ựơng Đảng, báo rằng: Giang Thanh vừa ngủ dậy, chưa ăn uống gì cả, đề nghị ban tổ chức hội nghị chuẩn bị bữa ăn cho bà, ăn xong sẽ họp. Thành Nguyên Công báo cáo Uông Đông Hưng - Chánh văn phòng Trung ương Đảng kiêm Cục trưởng Cục bảo vệ. Uông đồng ý, người dự họp mời vào sảnh tiếp khách của Đại lễ đường Nhân dân, còn cơm nước cho Giang Thanh dọn sẵn ở sảnh Tiểu Sơn Đông. Giang Thanh đến chậm 15 phút, Uông Đông Hưng và Thành Nguyên Công đứng chờ ở cửa sảnh, bước lên báo cáo:
- Thưa đồng chí Giang Thanh, hội nghị ở sảnh tiếp khách, bữa ăn của đồng chí chuẩn bị tại sảnh Tiểu Sơn Đông, đồng chí dùng tí gì đã.
Giang Thanh lườm Uông và Thành, rồi vênh váo bước vào phòng họp, chuẩn bị mở máy “hôm nay tôi thay mặt Chủ tịch” và dương dương tự đắc là “kỳ thủ” (người cầm cờ). Bà quay sang hỏi Chu Ân Lai:
- Các người họp gì mà bố trí Thành Nguyên Công ngáng tôi ở cửa?
- Họp giải quyết vấn đề Đông Bắc theo chỉ thị của Chủ tịch! - Chu Ân Lai trả lời.
- Có thật không? Các người định giấu tôi nên cử cảnh vệ canh phòng, thưa Thủ tướng, Thủ tướng có ý gì vậy? - Giang Thanh châm biếm.
- Hoàn toàn không có ý gì cả, mọi người ỏ đây sẽ làm chứng! - Chu Ân Lai tức giận.
- Tôi không tin! - Giang Thanh gào lên.
- Tôi tuyên bố - Thủ tướng cương quyết - hội nghị của chúng ta hôm nay tạm hoãn, mời Đông Hưng, Thành Vũ, Lý Tác Bằng ở lại giải quyết với đồng chí Giang Thanh về sự hiểu lầm.
Giang Thanh loanh quanh, khi gọi đến Tôn Chiếm Long đối chất, công nhận là bà có bảo chuẩn bị bữa ăn, thì Giang Thanh hét tới tấp vào thư ký của mình: “Ngu, cút!”. Giang Thanh thua cuộc nhưng vẫn hăm doạ Thủ tướng: “Người của Thủ tướng đều là hạng sói lang, cẩu chó, như Tôn Duy Thế, như Thành Nguyên Công, Thủ tướng hãy coi chừng!”. Thật không ngờ, đệ nhất phu nhân lại nói năng như vậy, và nhỏ nhen hơn nữa, sau một tuần, Thành Nguyên Công “được” đưa vào “lớp học tập”. 8 tháng sau tiếp tục đi xa về trường cán bộ Giang Tây, làm cho Thủ tướng “cụt chân, cụt tay”.
Dẫu vẫn biết Giang Thanh đã không có công lao mà còn dã tâm thâm độc, nhưng Chu Ân Lai cũng chỉ điều hoà, nhẫn nại, không “gang thép” như Đặng Tiểu Bình vì mỗi lý do thị là vợ của Mao Trạch Đông! Trớ trêu thay, một sự “trung quân” thấm vào máu thịt của ông. Ôi “Đức tiên sinh”, ôi “Trại tiên sinh”, hai vị đi đâu rồi mà để Thủ tướng tôi khổ sở đến nhường này!
29.07.2014
Phần VI - Chương 10
NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG
Dịch giả: Thái Nguyễn Bạch Liên
Nguồn: NXB Cà Mau
Nội dung thu gọn
Điềm báo là một hiện tượng thường gặp trên thế giới, và ở Trung Quốc, sau sự kiện “13 tháng 9” với Lâm Bưu thì sức khỏe của Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai đều thay đổi bất lợi. Mao bắt đầu mắc chứng ngất xỉu, mê man kê từ hôm đi bơi ở hồ bơi trên núi Lư Sơn, còn Chu, y học phát hiện thấy mầm bệnh ung thư trong bàng quang của ông. Mao Trạch Đông có thói quen bơi lội để thư giãn tinh thần, sau khi bàn định kế hoạch về tổ chức và tư tưởng để đấu tranh chống lại phái Lâm Bưu xong, Mao yêu cầu hộ lý trưởng là Ngô Húc Quân và các vệ sĩ bên mình cùng đi hồ bơi trên núi Lư Sơn, rồi ra lệnh: “Tất cả chúng ta đều phải xuống nước!”. Ngô Húc Quân khẩn khoản đề nghị, người đầy mồ hôi như thế này hãy khoan vội tắm, về phần mình bà đang đau tim, nhịp tới 130 mỗi phút, nên xin Mao cho ở trên bờ. Mao hỏi: “Cô sợ chết hay sao? Tôi già rồi mà chẳng hề gì, huống hồ thanh niên như các anh, các chị!” Thái độ của ông khá gay gắt và do đó mọi người phải phụng mệnh. Kết quả, Ngô Húc Quân bơi với phao cứu sinh, rất an toàn, còn Mao Trạch Đông bơi xong thì bị cảm, chứng viêm khí quản tái phát. Hôm Nixon đến Bắc Kinh, Mao ngất lịm, mọi công việc đều giao cho Chu Ân Lai đảm đương.
Thời kỳ này phó soái Lâm Bưu không còn nữa, Chu Ân Lai theo chỉ thị của Mao, “vừa nắm cách mạng, vừa đẩy sản xuất”, thật xứng đáng là chỗ dựa tin cậy của Chủ tịch. Trước đây, còn phó soái, Lâm Bưu có thể giả vờ truyền “thánh chỉ”, yêu cầu Chu Ân Lai làm điều này, điều nọ, ngược lại bất cứ việc lớn, việc nhỏ khi phản ánh lên Chủ tịch, Chu đều phải thông qua trước với Lâm. Nay thì đỡ hơn, nhưng còn đó đám “văn cách Trung ương” mà Mao Trạch Đông vẫn giữ thái độ bảo hộ họ, có lúc phê bình, có lúc ủng hộ song về cơ bản là không phủ định. Chu Ân Lai ở vào hoàn cảnh rất khó xử, khi Nixon thăm Trung Quốc, vì một “Công báo liên hợp Trung - Mỹ” mà bang nhóm “văn cách Trung ương” đã liên tục phê bình Chu Ân Lai trong suốt 12 ngày, họ buộc tội cho ông không kịp thời thỉnh thị Mao Trạch Đông và chụp mũ “Lý Hồng Chương”, “bè lũ bán nước” lên đầu Thủ tướng. Dạo ấy ông buồn bã, ít lời, tự nuốt vào mình mọi nỗi bực dọc, oan ức, người ta bảo “sự tiêu hóa vô thanh như vậy dễ dẫn đến mầm bệnh ung thư”.
Những ngày đó, Khang Sinh đang bị bệnh ung thư bàng quang hành hạ, ông nằm liệt giường chờ chết. Khang Sinh là Phó Chủ tịch Trung ương Đảng, ngoài việc đôn đốc y tế chữa trị cho ông, Chu Ân Lai còn dành thì giờ đến thăm, động viên an ủi. Trước sự chân thành và nhiệt tình của Chu Ân Lai, Khang Sinh không thể không tỏ thái độ lịch sự, nhưng thực chất ông là người khác hẳn Chu. Với bộ mặt lạnh lùng, ánh mắt thâm đen, Khang Sinh tạo cho mọi người một cảm giác khó chịu, và quả như vậy, suốt đời, ông chẳng kết bạn với ai.
Tần Cối là gian thần thời Nam Tống, nhưng nghe nói y cũng có dăm ba người bạn, còn Khang Sinh cận đại thì không một ai dám gần, thân hình gầy gò da bọc xương của ông khiến người ta tưởng đó là một cái gậy, ông có nhiều đồng đảng, băng nhóm, tay chân bộ hạ, song bọn họ cũng không phải là bạn của ông, hoặc cậy nhờ thanh thế Khang Sinh - trùm mật vụ Trung Cộng, hoặc đầu cơ xu nịnh ông để mong tiến thân, hoặc do quyền lợi cá nhân tạm nhất trí mà thôi. Suốt một đời Khang Sinh đã gây ra không biết bao nhiêu là oan khiên, đã hãm hại không biết bao nhiêu là người tốt, chưa ai có thể vạch hết tội của y, đến như các “chiến hữu” là Lâm Bưu, Giang Thanh, Trần Bá Đạt, Trương Xuân Kiều mà thái độ của Khang vẫn thế. Tháng 8 năm 1975, lúc gần chết, Khang Sinh cho gọi Vương Hải Dung và Đường Văn Sinh - hai liên lạc viên của Mao Trạch Đông - và tiết lộ với họ rằng, Giang Thanh và Trương Xuân Kiều đều có lịch sử phản bội, người làm chứng vẫn còn sống, tên họ địa chỉ đầy đủ. Cái gậy Khanh Sinh cuối cùng đánh vào phe lũ của mình. Con người ấy cũng từng hãm hại Chu Ân Lai, và ngay lúc này, mỗi lần Chu Ân Lai rời khỏi bệnh phòng thăm y, là y chửi, chửi Chu không cùng một chí hướng chính trị với y, chửi Chu là hữu phái. Y, bác sĩ phục vụ báo lại cho tôi và khuyên Thủ tướng đừng đến thăm Khang Sinh làm gì, Thủ tướng tôi cười và căn dặn: “Các đồng chí không được bàn luận vấn đề này!”, nào ngờ ông đã bị “con quỷ” Khang Sinh tả ám, cũng ung thư bàng quang!
Đó là cách nói tức giận của chúng tôi đối với Khang Sinh, còn trên thực tế thì mẫu nước tiểu ngày 11 tháng 5 năm 1972 của Thủ tướng đã phát hiện thấy mầm bệnh ung thư, một tổ công tác trị liệu do Ngô Giai Bình làm tổ trưởng được thành lập và bản thân Chu Ân Lai nhận biết ngay bệnh tình của mình, ông chỉ nói: “Vấn đề là kéo dài được bao lâu nữa?”. Tôi nhớ hồi cuối năm 1965, Thủ tướng kể câu chuyện về Đào Chú, ông ta bị bệnh, nghi là ung thư, mọi người giấu biệt, chỉ có Hạ Long hay tin, liền báo cho Đào rằng: “Anh nghe tôi nói một câu này nhé, nếu kiểm tra mà cuối cùng không phải ung thư thì nên nghỉ ngơi dưỡng sức, vì sức khỏe là vốn liếng của cách mạng, nhưng nếu chẳng may bị ung thư thật, tôi khuyên anh không nên nằm, ngày tháng còn lại không được bao nhiêu, phải tranh thủ làm nhiều hơn nữa!”. Giờ đây đến lượt mình, Chu Ân Lai đang làm theo lời khuyên của Hạ Long - chữa bệnh để kéo dài thời gian công tác, để năng nổ, bận rộn hơn nữa trong những ngày tháng cuối cùng trên cõi đời! Truyện "28 Ngày Đêm Quyết Định Vận Mệnh Trung Quốc " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com) Truyện "28 Ngày Đêm Quyết Định Vận Mệnh Trung Quốc " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Có thể chia quá trình phấn đấu và trị liệu của Chu Ân Lai trước ngày tạ thế thành ba giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất từ sau sự kiện Lâm Bưu phản bội đào tẩu đến ngày 1 tháng 6 năm 1974. Thủ tướng không thể không từ giã văn phòng Táy Hoa sảnh đã gắn bó trong 25 năm qua, để vào bệnh viện 305 vừa làm việc vừa chữa trị, hôm ấy Thủ tướng lên bàn mổ lần thứ nhất. Giai đoạn thứ hai từ ngày 1 tháng 6 năm 1974 đến hạ tuần tháng 10 năm 1975, đây là 1 năm 5 tháng cuối cùng của Chu Ân Lai trong cương vị Thủ tướng, bàn làm việc của ông đặt ngay ở phòng bệnh Bệnh viện 305, ông dốc hết sức lực và tâm chí của mình cho đất nước, nhân dân và Đảng. Trong giai đoạn này. Chu Ân Lai phải qua 14 lần phẫu thuật, 6 lần đại phẫu và 8 lần tiểu phẫu, bình quân cứ 40 ngày mổ một lần; thực hiện 233 cuộc bàn bạc công việc, 161 cuộc với cán bộ lãnh đạo cấp trung ương, 55 cuộc với cán bộ lãnh đạo địa phương, 17 cuộc với nhân viên bên cạnh mình, tiếp 63 đoàn khách nước ngoài; triệu tập hoặc tham gia hơn 40 hội nghị mà phân nửa được tổ chức trong bệnh viện. Giai đoạn thứ ba, từ hạ tuần tháng 10 năm 1975 đến ngày 8 tháng 1 năm 1976, đây là 2 tháng mà Chu Ân Lai không thể rời khỏi giường bệnh và ông không cho phép mọi người gọi mình là Thủ tướng nữa, là hơn 60 ngày tự vật lộn với những cơn đau ung thư tai ác, nhìn lại lần cuối các gương mặt chiến hữu, người thân, đồng bào, đồng chí để ra đi không lưu một hạt tro tàn. Truyện "28 Ngày Đêm Quyết Định Vận Mệnh Trung Quốc " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Đêm 30 tháng 9 năm 1974, sau lần phẫu thuật thứ hai, với cương vị Thủ tướng Quốc vụ viện, bệnh nhân Chu Ân Lai vẫn đọc lời chào mừng trong yến tiệc nhân kỷ niệm 25 năm ngày Quốc khánh nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa. Sau mấy phút vang vọng những âm thanh thân quen và cảm động phát ra từ các loa khuyếch đại, cả lễ đường dậy lên tiếng vỗ tay như sấm rền, mãi không dứt và thấm vào bàn tay họ là bao giọt nước mắt thương cảm cho vị Thủ tướng của mình. Không khí yến tiệc quy tụ lòng dân, ý Đảng và sức quân về phía Chu Ân Lai, và do đó làm cho “tứ nhân bang” càng thêm chướng tai, gai mắt. Sau Quốc khánh, Mao Trạch Đông lại chủ trương chuẩn bị nhân sự cho đại hội đại biểu nhân dân khoá 4 và tự mình đề nghị Đặng Tiểu Bình đảm nhận Phó thủ tướng thứ nhất, vì thế đấu tranh với “tứ nhân bang”“ và ủng hộ Đặng Tiểu Bình là hai việc làm mà Chu Ân Lai tổn hao nhiều tâm huyết ngay trong thời kỳ luôn luôn phải phẫu thuật.
Khi phát động và lãnh đạo cuộc đại Cách mạng văn hoá, Mao Trạch Đông chủ yếu dựa vào đám binh mã “văn cách Trung ương”, nhưng ông rất hiểu bọn họ chỉ giỏi “đánh nhau, phóng lửa thiêu người”, vô tài vô đức, quá trình cũng chẳng là bao, không biết “thiết kế”, xây dựng, không đủ can đảm và trách nhiệm làm một việc gì cho có ích, “biết phá mà không biết xây”, nếu để họ kế thừa thì trời chu đất diệt, dân chúng than oán là có ngày bị chúng đào mồ. Để cân bằng với hai đại bá (chỉ Mỹ và Liên Xô) làm cho dân giàu nước mạnh, Mao Trạch Đông biết chọn ai bây giờ, Lưu Thiếu Kỳ gục chết từ lâu, Chu Ân Lai ung thư chẳng còn bao lâu nữa, chỉ có mỗi Tiểu Bình, mà Tiểu Bình thì chưa hẳn đã “lấy đấu tranh giai cấp làm cương lĩnh” như ông, thôi đành phải để cho Đặng một cơ hội xem sao? Ngày 17 tháng 10, năm Giang Thanh “xuất quân” phá vỡ cơ hội kia của Đặng Tiểu Bình, nhân vấn đề tàu Phong Khánh Luân, Giang chụp lên đầu Đặng cái mũ “sùng ngoại”“ nhưng Chu Ân Lai đã ra tay bảo vệ Đặng, với tư cách Thủ tướng, ông phủ định những ý kiến sai lệch về sự kiện Phong Khánh Luân.
Giang Thanh cử Vương Hồng Văn đi Trường Sa tâu trình với Mao Trạch Đông, rằng: “Chu Ân Lai bệnh nặng mà ngày đêm vẫn to nhỏ với Đặng Tiểu Bình, Diệp Kiếm Anh, Lý Tiên Niệm v.v...”. Ngày 20 tháng 10, Mao phán cho Vương nghe: “Thủ tướng vẫn là Thủ tướng, nhân sự cho Đại hội biểu nhân dân khoá 4 do Thủ tướng sắp xếp, riêng Đặng Tiểu Bình tôi đề nghị đảm nhiệm các chức vụ Phó thủ tướng thứ nhất, Phó chủ tịch Trung ương Đảng, Phó chủ tịch Quân uỷ kiêm Tổng tham mưu trưởng”.
Thực hiện chỉ thị của Chủ tịch, Chu Ân Lai đã để hẳn ra 10 ngày trao đổi với Đặng, Diệp, Lý, Vương và Giang, triệu tập 3 phiên họp Bộ Chính trị và biến Bệnh viện 305 thực thụ trở thành văn phòng Thủ tướng bàn bạc phương án nhân sự cho nhà nước Trung Quốc bị suy yếu sau gần 10 năm “văn cách”. Chỉ còn 20 ngày nữa là khai mạc Đại hội đại biểu nhân dân khoá 4, vì lợi ích của nhân dân, Chu Ân Lai không còn cách nào khác là phải bay đi Trường Sa báo cáo lần chót với Mao Trạch Đông. Diệp suý giao nhiệm vụ cho chúng tôi bằng bất cứ giá nào cũng phải bảo vệ cho kỳ được sức khoẻ của Thủ tướng. Trưa ngày 23 tháng 12 năm 1974, chúng tôi đưa Thủ tướng ra sân bay Tây Giao, điện hỏi Vương Hồng Văn thì người ta nói, ông ta chưa ngủ dậy, chúng tôi quyết định để Thủ tướng bay trước, không thể bắt một ông già bệnh nhân chờ một gã thanh niên khoẻ mạnh giữa phi trường tuyết lạnh. Bảy giờ tối hôm ấy, Mao Trạch Đông kêu gọi phái “đổ dầu thêm gió” mà đêm nay do Vương Hồng Văn đại diện “liên hiệp, đoàn kết” với phái “cứu người khỏi nước sôi lửa bỏng” của Chu Ân Lai, nhà mâu thuẫn học đã giải quyết mâu thuẫn một cách ngây thơ như vậy, cho nên mâu thuẫn vẫn hoàn mâu thuẫn. Chu Ân Lai ở lại Trường Sa 5 ngày, còn dự lễ sinh nhật của Mao, còn kính rượu chúc thọ Mao. Trở về Bắc Kinh, ngày 13 tháng 1 năm 1975, Chu Ân Lai lần cuối cùng đọc bản báo cáo của Chính phủ trước Quốc hội, để lại những lời di chúc chính trị, sau đó là một loạt “cuối cùng” đã đến với ông: lần cuối cùng tiếp đoàn khách nước ngoài (7 - 9 - 1975), lần cuối cùng dự hội nghị Bộ Chính trị (3 - 5 - 1975), lần cuối cùng tham gia truy điệu đồng chí, chiến hữu (9 - 6 - 1975 với trường hợp nguyên soái Hạ Long) v.v...
Ngày 20 tháng 9 năm 1975, thể trạng của Thủ tướng giảm sút đến mức thảm hại, chỉ còn da bọc xương, nhưng không thể không phẫu thuật vì các u nhọt ung thư đã mọc ở khắp nơi, nhưng Thủ tướng vẫn đau quằn quại, theo chỉ thị của Đặng Tiểu Bình “giảm bớt cơn đau, kéo dài được ngày nào hay ngày đó”, hạ tuần tháng 10, Thủ tướng lại lên bàn mổ, mổ lần cuối cùng, rồi nằm liệt giường.
Đến lúc này người ta mới cho Kiều Kim Vượng trở về phục vụ Chu Ân Lai, câu nói đầu tiên khi thầy trò gặp nhau là: “Lão Kiều, đại Cách mạng văn hoá đã làm tôi mệt đến chết!”, đó là lời đánh giá đầu tiên và cũng là cuối cùng của Chu Ân Lai đối với “văn cách” - một tác phẩm do Mao sáng tác và đạo diễn.
Nhóm chúng tôi còn đúng ba người: Cao Chấn Phổ, Kiều Kim Vượng và tôi, quấn quýt bên cạnh Thủ tướng, hôm ấy, cho gọi chúng tôi và với một giọng nói thê lương, ông căn dặn:
- Từ nay về sau các đồng chí đừng gọi tôi là “Thủ tướng” nữa, tôi nằm đây, liệt giường liệt chiếu không làm được việc gì cho nhân dân, cho Nhà nước, nghe các đồng chí một “Thủ tướng” hai “Thủ tướng” tôi đau lòng lắm... không làm được việc... không thể gọi là Thủ tướng!
Hai tháng cuối đời, Chu Ân Lai nhìn lên trần nhà và hồi ức, nhưng không hề nói ra nửa lời, “sống để bụng chết mang đi”, những tờ giấv mà Diệp suý căn dặn chúng tôi nhanh chóng tốc ký mỗi lần Thủ tướng trăn trối đều vẫn trắng trơn không một dấu mực. Thủ tướng chỉ yêu cầu những việc rất thông thường, vừa chích thuốc vừa nghe đĩa hát do Hàn Anh lĩnh xướng “... nước Hồng Hồ, sóng dồn sóng...” như muốn hình dung một màu ngọc bích nối liền giữa mặt nước Hồng Hồ với trời xanh cao lộng, ở đó Hạ Long tung hoành chiến trận, hiên ngang hiển hách, con người anh hùng ấy không chết trước kẻ thù năm xưa, mà trớ trêu thay lại bị Hồng vệ binh đấu cho đến tử vong, làm cho Chu Ân Lai mãi mãi ăn năn vì đã không bảo vệ được ông. Thủ tướng thèm ăn một quả đào, giữa mùa đông giá lạnh làm gì có đào tươi, chúng tôi mua đào đóng hộp, khuyên Thủ tướng nuốt từng miếng, từng miếng cho trọn được một quả, ăn xong Thủ tướng mói giải thích “quả đào thành tựu đấy các đồng chí ạ”. Trời! Chúng tôi thật là kém cỏi, chỉ có thể hiến dâng người những “thành tựu đã đóng hộp, không còn tươi nguyên”. Có lần Thủ tướng ước ao uống trà Lục An Qua, loại trà không tiếng tăm gì, nhưng chúng tôi vẫn tìm mua cho được và Thủ tướng mừng lắm, ẩm xong một chén, thấy nét mặt ông rạng rỡ, tôi vui vẻ hỏi:
- Thủ tướng thấy thế nào?
- Tuyệt lắm, chẳng khác nào như khi Diệp Đình còn sống! - Hoá ra Lục An Qua là gói trà mà năm xưa Diệp Đình biếu Chu và hai người đã đồng ẩm ở chiến khu đầy cam go, vất vả...
Ngày 1 tháng 1 năm 1976, tám ngày trước khi qua đời, Chu Ân Lai còn mỉm cười khi nghe đài phát thanh truyền đi hai bài từ của Mao Trạch Đông, rồi môi ông mấp máy theo lời bài ca... “Trung Quốc xuất liễu cá Mao Trạch Đông...” và bài ca cuối cùng mà Chu Ân Lai yêu cầu nghe là “Quốc tế ca”, nghe đến ba lần. Thật là một con người của truyền thuyết, của thi ca, y như trong sách vậy.
Từ ngày 5 trở đi Chu Ân Lai đi vào trạng thái mê man, 9 giờ 57 phút ngày 8 tháng 1 năm 1976 thì tắt thở.
Đặng Dĩnh Siêu trình bày với Trung ương 3 yêu cầu mà bình sinh Chu Ân Lai và bà đã thống nhất: không tổ chức cáo biệt di thể, không tổ chức truy điệu, không giữ gìn tro xương. Bàn cãi mãi, cuối cùng chỉ chấp nhận điều thứ ba, rải tro xương của Chu Ân Lai trên khắp bầu trời Trung Hoa, còn lễ truy điệu thì không thể không cử hành, đó là ngày 15 tháng 1 năm 1976 khó quên trong mỗi người dân nước tôi, tiễn đưa Chu Ân Lai về nơi vĩnh hằng.
Lúc tạ thế, ngực Chu Ân Lai vẫn còn đeo huy hiệu một phần ba là hình ảnh Mao Trạch Đông, hai phần ba kia ngời sáng 5 chữ “vì nước phục vụ”, dưới gối Chu Ân Lai vẫn là tập sách những bài thơ, bài từ và cũng chỉ do Mao Trạch Đông sáng tác. Quả là “trung quân”, quả là “trung thành bất nhị”. Giá mà khi Chu Ân Lai lâm chung, giá mà khi truy điệu Thủ tướng, lịch sử ghi được hình ảnh Mao Trạch Đông thì những dòng văn tuôn chảy của chúng tôi sẽ cảm động biết nhường nào. Nhưng, Đặng Dĩnh Siêu chờ, Đặng Tiểu Bình chờ... cuối cùng điện thoại cho hay, Mao Trạch Đông không thể đứng nổi, lễ truy điệu “Sư gia” đành bắt đầu, “huyện quan” của cố nhân vài tháng sau nữa, ngày 9 tháng 9 năm 1976 cũng cùng đi xuống âm phủ, không rõ mối quan hệ giữa “họ” giờ đây như thế nào? Người trần thế chúng ta khó mà trả lời, duy có điều “họ” đều “bước xuống thần đài” và “rời khỏi thánh đàn” để cũng bình dị như mỗi chúng ta vậy!
29.07.2014
Phần VII - SƯ ĐÔNG BINH - Chương 1
NGƯỜI NẰM ĐÓ
Dịch giả: Thái Nguyễn Bạch Liên Truyện "28 Ngày Đêm Quyết Định Vận Mệnh Trung Quốc " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Nguồn: NXB Cà Mau
Nội dung thu gọn
Vừa chợp mắt chìm vào giấc mơ mệt mỏi thì chuông điện thoại lại réo vang, khẩn cấp. Lỗ Dân bật dậy, vội vàng chạy đến bệnh phòng, vừa là phòng ngủ, vừa là phòng sách của bệnh nhân. Nhìn đôi mắt và nét mặt của người bệnh, anh rùng mình và cảm thấy như chính anh bị trọng tội. Đã bao lần ông chết đi sống lại, thần trí quay về với thế gian một cách kỳ lạ, thế mà giờ đây mắt ông ngơ ngác, hàm chút oán trách, nghi ngờ, phẫn nộ... Nếu không cứu được ông thì bản thân anh cũng không thể tha thứ cho anh, bởi một lẽ rất đơn giản: anh là thầy thuốc và người nằm đó là Mao Trạch Đông - lãnh tụ vĩ đại mà nhân dân Trung Quốc vô cùng kính mến.
- Tôi lấy làm lạ, tại sao bệnh bình của Chủ tịch ngày cứ xấu đi như vậy. Lẽ nào lại xảy ra sự kiện áo trắng? Lẽ nào bên cạnh Chủ tịch lại là một lũ đặc vụ?
Giang Thanh la lớn.
Sự kiện áo trắng, ấy là lúc đại văn hào Marxim Gorky bên Nga lâm bệnh, mật vụ mạo danh bác vĩ đã ám hại ông, làm mọi người kinh hãi. Ăn nói khinh xuất, tuỳ tiện; thường nhật ai cũng biết về Giang Thanh như vậy, nhưng lời răn đe của bà không ngờ đã trùm một bóng đen hắc ám lên tập thể các thầy thuốc, bác sĩ, y sĩ, hộ lý lâu nay phục vụ Mao Trạch Đông, người ngoài cuộc khó mà cảm nhận. Song với kinh nghiệm của một lương y, Lỗ Dân hiểu rất rõ đây chưa phải là lúc lâm chung và nhân lúc người bệnh lại tỉnh, thần trí minh mẫn nhất, anh lựa lời nhắc lại câu nói của Giang Thanh.
Môi ông mấp máy, mắt ông ngấn lệ, ông kéo tay Lỗ Dân lại cạnh và bằng một loại ngôn ngữ không rõ ràng, ông thì thào:
- Đừng chấp bà ta, tôi biết các anh chị đều là những đồng chí tốt.
Và hôm ấy Giang Thanh cũng đến thăm ông. Mao Trạch Đông ra hiệu cho mọi người xích lại gần giường, ông nhìn Giang Thanh hồi lâu rồi chậm rãi:
- Cô bảo họ là đặc vụ, vậy cô có biết ai là người cầm đầu không?
Ông lấy tay chỉ vào mũi mình và nói:
- Chính là tôi.
Giang Thanh ra chiều tỉnh ngộ, vờ cúi xuống dìu đỡ Mao Trạch Đông, giọng nói nghẹn ngào:
- Nhuận Chi (1), ông chưa hiểu...
Mao Trạch Đông thở đài:
- Các thầy thuốc muốn hại tôi thì tôi làm sao sống nổi đến hôm nay. Bệnh của tôi, tôi biết, cô không nên khó dễ với người ta, họ đều là những người tốt.
Đó là chuyện của vài tháng trước. Thòi gian gần đây, Lỗ Dân thấy bệnh tình của Mao Trạch Đông đúng là ngày một trầm trọng, sức khoẻ yếu dần, song ý chí thì vẫn kiên cường, xử lý sự việc vẫn cẩn thận, tỷ mỉ như xưa. Mỗi lần uống thuốc hay tiêm chích, ông đều hỏi tính năng tác dụng rồi mới dùng, chỉ vừa tỉnh một chút là bảo người mang đến cho mình cái kính lão đã cưa mất một gọng, nằm nghiêng đọc sách, xem văn kiện, lúc nào mệt thì nghe người khác đọc. Cho đến 4 giờ chiều hôm nay ông còn gọi thư ký đỡ dậy, nghe văn thư, duyệt tài liệu... thế mà giờ đây...
- Lúc tôi ra đi, Chủ tịch còn đọc sách kia mà, sao mới vắng mặt có một tiếng đồng hồ, cơ sự đã ra nông nỗi này?
Vẫn cái giọng dạy đời, lăng mạ kẻ khác, Giang Thanh la hét om sòm.
- Thưa đồng chí Giang Thanh, từ 8 giờ tối chúng tôi bắt đầu thấy tay Chủ tịch lạnh toát, gọi ngay bác sĩ kiểm tra, hội chẩn và 9 giờ thì ra sức cứu chữa.
Thư ký báo cáo lại như vậy, Giang Thanh không nói gì nữa, bà đưa mắt quan sát mọi động tác của Lỗ Dân và các thầy thuốc khác, nhưng vẫn giọng điệu chỉ huy:
- Các người đừng khóc lóc, mặt mày ủ rũ như có tang. Chủ tịch nhắm mắt cũng không đành, đã mấy lần Chủ tịch chết đi sống lại, tôi có kinh nghiệm rồi, hãy cứ tận lực, tận tâm cấp cứu đi.
Vậy trước đấy một giờ, Giang Thanh đi đâu? Đó là đêm mồng 8 tháng 9 năm 1976, bà ngồi xe đến thăm nhà in Tân Hoa - cơ sở cách mạng, và theo cách nói của bà: “Tôi phải biến nơi đây trở thành pháo đài kiểu mẫu phê Đặng và chống lại luồng gió phản phúc hữu khuynh, phải từ đây nổi lên cơn bão cấp 12 quét sạch bọn người đi theo chủ nghĩa tư bản còn sót lại trong Đảng”. Giang Thanh từng đến nhà in này diễn thuyết, bồi dưỡng cốt cán lý luận phê Đặng. Ngày 27 tháng 8, Giang Thanh nhận được mật báo cho biết phái chống đối đã bố trí đặc vụ bên cạnh bà, đã liên lạc với Thành uỷ Bắc Kinh và cả nhà in Tân Hoa. “À, to gan thật, dám đụng đến lão bà thì bà sẽ cho biết tay”.
Sau sự kiện Thiên An Môn ngày 5 tháng 4 năm 1976, Đặng Tiểu Bình lần thứ hai ra khỏi Trung Nam Hải, mọi chức vụ trong quân đội, chính phủ, đảng của ông đều đã huỷ bỏ. Thời cơ phản kích chỉ tính từng ngày, khi Mao Trạch Đông còn trên giường bệnh. Qua 10 năm Cách mạng văn hoá, từ một đệ nhất phu nhân bình thường, Giang Thanh đã leo lên vị trí có thế lực khống chế toàn Trung Quốc trên vũ đài chính trị. Chu Ân Lai, Chu Đức vừa tạ thế - những trở ngại lớn đối với bà xem như được san bằng, giờ lại tiếp Đặng Tiểu Bình bị phê phán lần thứ hai, một hòn đá đè nén bà bấy lâu nay đã được hất bỏ. Bà muốn hát vang, bà muốn nhảy lên, bà muốn bước ra diễn đàn như thuở nào, buổi đầu Cách mạng văn hoá, giữa muôn ngàn tiếng hò reo, hoan hô, ca tụng, giữa bể người với bao ánh mắt kỳ vọng. Có mở đầu thì phải có kết thúc, nếu Cách mạng văn hoá đã đưa bà vào vòng quyền lực chính trị và biết bao nhà cách mạng lão thành đã phải tiêu vong; biết bao quan chức, yếu nhân phải hạ bệ, thì hôm nay chỉ còn một cửa ải nữa bà cần vượt qua để giành lấy vị trí tối thượng. Bà cần nhanh tay khi Mao Trạch Đông đang hấp hối trên giường bệnh, nếu không, sự trả giá là cả một cuộc huyết chiến khôn lường. Vì vậy phải tìm cho ra kẻ âm mưu chống phá, chúng ẩn náu ngay trong sào huyệt của ta - nhà in Tân Hoa, 10 giờ sáng ngày 1 tháng 9, Giang Thanh phê lên mật thư: “Tiểu Tạ và đồng chí Trì Quần. Hãy nhanh chóng điều tra bọn đặc vụ ở nhà in Tân Hoa và báo ngay cho tôi rõ, nhưng chớ rút dây động rừng, đạp cỏ làm rắn trốn chạy”. Và bà không quên căn dặn trả lại mật thư sau khi đã lĩnh hội nhiệm vụ.
Tạ, Trì là ai mà Giang Thanh tin dùng vậy? Tạ Tĩnh Nghi vốn là nhân viên bộ phận cơ yếu của cơ quan Trung ương Đảng, chuyên lo điện đàm, mật tín, được Mao Trạch Đông nâng đỡ và yêu mến. Thuở ấy Tĩnh Nghi còn là một cô gái trẻ, đẹp, đôi mắt bồ câu đen nhánh lúc nào cũng chao động, lúng liếng, được cả phần tướng mạo lẫn tài cán, cơ mưu. Cách mạng văn hoá tiến hành được 3 năm thì Mao Trạch Đông tự nhiên bỗng mất lòng tin và sự kỳ vọng đối với 5 lãnh tụ của đám tiểu tướng là Khoái Đại Phú, Đàm Hậu Lan, Hàn Á Tinh, Vương Đại Tân, Nhiếp Nguyên Tử. Ông nghĩ đến chuyện thay ngựa giữa giòng, mưu đồ cao hơn. Tạ cô nương đánh hơi; Mao Chủ tịch nhằm tới và thế là từ một nhân viên điện đài, Tĩnh Nghi nhảy ra chính trường với cái tên Tiểu Tạ (cô bé họ Tạ). Tiểu Tạ làm quen với Trì Quần - Phó ban tuyên huấn cục chính trị Quân đoàn 8341; hai người xin Mao Trạch Đông đi về các trường đại học điều tra khảo sát tình hình. Họ nhanh chóng rút ra kết luận và tâu trình, làm cho Mao Trạch Đông hết mực tán dương, ấy là: “Sinh viên hiện nay đều do các trường viện cũ đào tạo dạy dỗ, dựa vào họ, không những không đưa Cách mạng văn hoá đi tới thành công cuối cùng mà còn làm hỏng cả đường lối chính trị của Mao Trạch Đông. Cách giải quyết duy nhất là đi vào công nông binh, bồi dưỡng lực lượng mới”. Năm ấy, Trì Quần 35 tuổi, ăn nói chững chạc, dáng vóc nam nhi, cương nghị. Anh ta - người huyện Nhũ Sơn, tỉnh Sơn Đông, đồng hương với Giang Thanh; một sĩ quan văn võ song toàn, sánh cùng Tiểu Tạ như một cặp bài trùng và Mao, Giang đã tin dùng. Trì Quần làm Bí thư Đảng uỷ Đại học Thanh Hoa kiêm Chủ tịch uỷ ban cách mạng, còn Tạ Tĩnh Nghi làm Phó Bí thư thứ nhất. Khoảng 4 năm sau, Tạ, Trì đề ra khẩu hiệu “công nông binh vào đại học, quản lý đại học, cải tạo đại học!”. Đường lối trứ danh ấy khiến cho giáo dục xuống cấp, ảnh hưởng đến vị trí và việc làm của trí thức, gây sự bất bình trong tầng lớp đại học. Lưu Băng cũng là Phó Bí thư Thanh Hoa cùng bốn người nữa đã viết thư trình lên Mao Trạch Đông phân tích sai trái của Tạ, Trì; phê phán đường lối công nông binh hoá đại học của hai người. Bức thư được chuyển qua Đặng Tiểu Bình. Đó là lúc mà Mao Trạch Đông 82 tuổi, ngày đêm lo lắng cho sự thành bại của Cách mạng văn hoá. Tuy nó đã xuất hiện nhiều cục diện mà ông không lường trước, không mong đợi, nhưng cũng như bao nhà chính trị quyền lực khác, ông không cho phép một ai dám phủ nhận cuộc cách mạng này, một cuộc cách mạng do ông thân chinh phát động, do ông đứng ra chỉ huy vào những năm cuối đời. Mao Trạch Đông phẫn nộ, phê bút lên bức thư của Lưu Băng “Lưu và bốn người ở Đại học Thanh Hoa có trình thư cho tôi tố cáo Tạ, Trì. Tôi xem và thấy rằng, động cơ của họ không tốt, muốn lật đổ Tạ, Trì và chĩa mũi giáo vào tôi”. Phê xong, ông cho gọi Mao Viễn Tân (cháu ruột gọi Mao là bác), Trương Xuân Kiều, Diêu Văn Nguyên, Hoa Quốc Phong đến và giải thích thêm rằng: Truyện "28 Ngày Đêm Quyết Định Vận Mệnh Trung Quốc " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com) Truyện "28 Ngày Đêm Quyết Định Vận Mệnh Trung Quốc " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
- Sự kiện Thanh Hoa không phải là ngẫu nhiên, nó phản ánh cuộc đấu tranh giữa hai con đường ngay trong Trung ương. Tôi ở Bắc Kinh, tại sao thư lại chuyển qua Đặng Tiểu Bình? Rõ ràng Tiểu Bình đã bao che cho Lưu Băng và phe nhóm, tôi nhắc các đồng chí phải phản kích trào lưu tư tưởng ngóc đầu của phái hữu khuynh.
Giang Thanh mừng rơn, giữa đêm khuya đã điện mời Tạ Tĩnh Nghi đến tư dinh. Bà ôm chầm lấy cô gái, mắt nhoà lệ:
- Em, ôi em đã cho chị một thời cơ phản kích. Các em đấu Lưu Băng ở Thanh Hoa, thì chị có cớ đánh Tiểu Bình trên này.
Và quả nhiên, Đặng Tiểu Bình bị đo ván; Tạ, Trì càng được tin dùng, trở thành tay chân của “bè lũ bốn tên” (tứ nhân bang)...
Chủ tịch nằm đó, lúc tỉnh lúc mê, lúc sống lúc chết, còn phu nhân thì bận rộn đưa Cách mạng văn hoá đến thắng lợi cuối cùng, tả xung hữu đột nhằm mục tiêu tối thượng là kế vị.
Trăm mối tơ vò, kẻ ở người sắp đi xa, ai hơn ai và kết cục ra sao xin hãy đợi chuyến công tác về Đại Trại của Giang Thanh sẽ rõ.
Chú thích:
(1) Nhuận Chi: hiệu của Chủ tịch Mao Trạch Đông. Cách xưng hô thân mật.
30.07.2014
Phần VII - SƯ ĐÔNG BINH - Chương 2
VẪN ĐANG ĐỌC SÁCH
Dịch giả: Thái Nguyễn Bạch Liên
Nguồn: NXB Cà Mau
Nội dung thu gọn
Trong thời gian Mao Trạch Đông bệnh nặng, những người được phân công luân phiên trực bên cạnh ông gồm có Giang Thanh, Hoa Quốc Phong, Vương Hồng Văn, Trương Xuân Kiều, Uông Đông Hưng, Diêu Văn Nguyên và Trần Tích Liên. Nhưng bà Giang Thanh không chịu ngồi yên một chỗ. Ngay cái đêm bố trí cho Tạ, Trì đi điều tra đặc vụ xong, Giang Thanh, lại tiếp tục bàn công việc với Trương, Vương, Diêu rằng bà phải đi công tác về Đại đội Đại Trại ở huyện Tích Dương, tỉnh Sơn Tây (một điểm điển hình về nông nghiệp lúc bấy giờ) để thúc đẩy phong trào phê Đặng. Truyện "28 Ngày Đêm Quyết Định Vận Mệnh Trung Quốc " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
- Thưa đồng chí Giang Thanh, theo tôi lúc này đồng chí không nên đi xa Bắc Kinh, - Trương Xuân Kiều hốt hoảng. - Bệnh tình của Chủ tịch khi nặng khi nhẹ, nếu không may xảy ra chuyện gì thì lấy ai đứng ra quyết định, vả lại, cái ông phó thứ nhất nửa âm nửa dương ấy lúc nào cũng kè bên Chủ tịch, tôi sợ hắn đang làm điều gì đó.
- Dám ư? - Giang Thanh cười khẩy, - đồng chí Viễn Tân của chúng ta ngày đêm bảo vệ Chủ tịch, thế mà ông còn sợ cái nỗi gì với lão họ Hoa?
Nói đoạn, bà ta kể cho mọi người nghe: Lúc đưa Hoa Quốc Phong lên ghế quyền thủ tướng thay Chu Ân Lai vừa qua đời, Mao Trạch Đông đã nói: “Hoa nở là thứ yếu, lá rạng mới quan trọng, hoa không nở làm sao kết trái được, cho nên lá rụng, hoa nở, kết trái là lẽ tự nhiên”. Hồi ấy tôi cũng không rõ Chủ tịch muốn điều gì, nhưng nay thì thấy rõ hàm ý của Người thật là sâu sắc, các đồng chí có hiểu không? Hoa đây là Hoa Quốc Phong, còn “lá” là “diệp”, là Diệp Kiếm Anh, - phải làm sao cho lá rụng. Truyện "28 Ngày Đêm Quyết Định Vận Mệnh Trung Quốc " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Quả nhiên ngày 2 tháng 2 năm 1976, văn kiện số một được Trung ương phát ra, và thông báo cho toàn Đảng: “Căn cứ đề nghị của lãnh tụ vĩ đại Mao Trạch Đông, Bộ Chính trị nhất trí thông qua chức vụ quyền thủ tướng do đồng chí Hoa Quốc Phong đảm nhận và trong thời gian đồng chí Diệp Kiếm Anh lâm bệnh, đồng chí Trần Tích Liên chủ trì mọi công việc của Quân uỷ Trung ương”. Kỳ thực thì Diệp Kiếm Anh chẳng bệnh hoạn gì, dạo đầu năm khi họp Bộ Chính trị, ông phát biểu:
- Tôi nay tuổi cao, sức yếu nên rất mong các đồng chí trẻ làm được nhiều việc hơn.
Viễn Tân tâu trình ngay cho Mao Trạch Đông, ông mỉm cười và cũng nói luôn:
- Không muốn làm thì để người khác làm, đưa Trần Tích Liên lên, chứ đâu phải chết tay hàng thịt mà chúng ta ăn lợn cả lông!
Thế là trong nháy mắt Diệp Kiếm Anh mất quyền. Hồi đó Trương Xuân Kiều không chú ý điều này, ông chỉ để tâm vào cái ghế thủ tướng. Chu Ân Lai tạ thế, Đặng Tiểu Bình bị lật đổ lần thứ hai, thì còn ai vào đây nữa? Ấy thế mà bỗng chốc lại là Hoa Quốc Phong chứ không phải ông. Liên tưởng đến năm ngoái, cũng văn kiện số một, đùng một cái đưa Đặng Tiếu Bình với bao nhiêu là chức vụ, và chẳng bao lâu Mao Trạch Đông lật bàn tay, mọi chuyện vẫn như cũ, Trương Xuân Kiều rùng mình, rồi hạ bút ghi lại đôi dòng “nhị nguyệt tam nhật hữu cảm” (những cảm xúc nhân ngày 3 tháng 2)...
Biết Giang Thanh là người đã nói là làm, không ai ngăn cản được nên Trương Xuân Kiều đành khuyên:
- Có lẽ đồng chí phải xin ý kiến Chủ tịch.
- Tất nhiên.
Nhưng Mao Trạch Đông lắc đầu khi nghe thư ký báo cáo lại điều này. Đây cũng là lúc mà thần trí ông tỉnh táo nhất, ông ăn được nhiều hơn một tí, không phải thở dưỡng khí nữa và lại đeo kính đọc sách. Lỗ Dân hiểu rõ đèn sắp tắt thường bừng sáng lên như vậy, nhưng anh giữ kín miệng và cứ để cho mọi người nuôi tia hy vọng mới. Giang Thanh nài nỉ mãi và cuối cùng thì con bệnh thập tử nhất sinh phải ú ớ, não nuột:
- Ừ, đi thì đi.
Ngày hôm sau, mồng 2 tháng 9, Giang Thanh và đoàn tuỳ tùng gồm nhà văn, nhà báo và chuyên viên đáp chuyến xa dài tới 7 toa đi Đại Trại. Mấy đêm liền mất ngủ, dung nhan lão bà có đôi phần sa sút, nhưng chưa lúc nào lại nhẹ nhõm như hôm nay. Giang Thanh không quên trang điểm tí xíu để ra vẻ vui mừng khi gặp xã viên Đại Trại.
- Chào các đồng chí, xin báo một tin vui. Mao Chủ tịch của chúng ta vẫn mạnh khoẻ. Người cử tôi đến thăm Đại Trại và động viên cổ vũ phong trào phê Đặng phản hữu ở đây.
Suốt hai ngày, Giang Thanh ra tận ruộng nói chuyện với xã viên, leo lên Hổ Đầu Sơn quan sát, thăm các gia đình bần nông và trung nông lớp dưới, diễn giải lịch sử đấu tranh Nho pháp và ý nghĩa của phong trào phản kích hữu khuynh ngóc đầu v.v... Quách Phong Liên - Bí thư Đại Trại - người đón tiếp Giang Thanh, không rõ mục đích những việc làm này của bà, vì thật ra điều bí mật ẩn giấu trong con người, gọi là “lãnh tụ tả khuynh” như bà, chỉ vài người biết được mà thôi.
Tối mùng 5 tháng 9, văn phòng Trung ương điện cho Đại Trại, báo Giang Thanh nhanh chóng trở về Bắc Kinh. Bà tỉnh giấc, chột dạ nhưng gượng cười:
- Không hề gì, hãy bình tĩnh, có ra về cũng phải đàng hoàng, tự nhiên.
Bà bèn gọi mọi người thức dậy chơi bài cho bớt phần căng thẳng. Giang Thanh đi tàu nhanh từ Dương Tuyền về Thạch Gia Trang, rồi sau đó bay thẳng Bắc Kinh, bà luôn xem đồng hồ, thân tín nhìn thấy vẻ hoảng loạn của bà nên đành khuyên:
- Thủ đô nhất định phải chờ đồng chí...
- Chủ tịch thế nào rồi?
- Vừa ngủ - Trương Xuân Kiều thở phào nhẹ nhõm trút được mọi âu lo. - Mấy hôm sau Chủ tịch thường ngất lịm, tôi thấy Hoa Quốc Phong, Lý Tiên Niệm, Diệp Kiếm Anh hoạt động dữ lắm. Uông Đông Hưng cũng ngã về phía họ, sợ chuyện chẳng lành, vả lại Chủ tịch ra hiệu cho gọi đồng chí trở về.
- Nhắc Viễn Tân lúc này phải ghi đầy đủ mỗi câu, thậm chí mỗi chữ của Chủ tịch.
Trương gật đầu nhận mệnh lệnh của Giang và lôi trong cặp ra một tập giấy.
- Đây là bản thảo của phóng viên tờ Bắc Kinh nhật báo đưa tin về đồng chí, Diêu Văn Nguyên yêu cầu Thành uỷ Bắc Kinh ký duvệt để ấn phát, song họ khước từ, chẳng mấy chốc mà thủ đô trở thành một vương quốc riêng.
Mồng 7 tháng 9, Mao Trạch Đông lại tỉnh, ăn được tí cháo, uống được muỗng sữa, ông lấy ngón tay vạch 3 vạch trên giường gỗ và người ta đoán rằng Chủ tịch muốn nắm tình hình Tam Mộc bên Nhật Bản, thưa lại đầu đuôi thì nghe Người phì phào vài âm thanh kiểu như đồng ý. Giang Thanh bước vào, mừng rỡ, ngồi cạnh Mao Trạch Đông, giúp ông đeo kính và lật tài liệu bắt ông đọc. Bà ghé sát vào tai Mao Trạch Đông và nói to:
- Tình hình trong nước nghiêm trọng lắm, có kẻ đang phá rối phong trào phê Đặng phản hữu của Chủ tịch... Tôi e...
Mao Trạch Đông bỗng run lên và mặt mày nhăn nhó, Lỗ Dân hoảng sợ, đưa mắt ra hiệu cho Giang Thanh, xin bà đừng nói nữa, nhưng bà ta vẫn oang oang, cuối cùng thầy thuốc đành phải ra y lệnh:
- Thưa đồng chí Giang Thanh, cho phép chúng tôi đo điện tâm đồ của Chủ tịch.
Chiều hôm sau, bà lại đến và thấy Mao Trạch Đông nằm bất động.
- Các người nhìn xem, vải trải giường của Chủ tịch ướt hết cả rồi.
- Dạ thưa, Chủ tịch đã không cử động được nữa.
- Và cứ thế mà chờ... hay sao?
Nói đoạn bà rỉ vào tai Mao Trạch Đông:
- Chủ tịch à, tôi vừa mang về cho Chủ tịch một tài liệu quan trọng nữa, Chủ tịch đọc nhé!
Giang Thanh ra lệnh cho mọi người vần Mao Trạch Đông nằm nghiêng lại, đeo mục kỉnh cho ông, đưa tài liệu để ông đọc. Lúc 6 giờ chiều mồng 8 tháng 9, Giang Thanh thắng xe vào nhà in Tân Hoa xem kết quả Tạ, Trì điều tra đặc vụ đến đâu rồi, song cả hai thuộc hạ đều chưa làm gì cả. Bà trút cơn lôi đình lên hai người và thúc xe trở về Trung Nam Hải.
Mao Trạch Đông mặt mày xanh tím. Các thầy thuốc đang ra sức cứu chữa, hình như những giờ phút chót đã dần đến. Trong bệnh phòng, Trương Xuân Kiều đang xem lại bệnh án, khi thư ký của Mao Trạch Đông bước vào, ông vội vàng thu giấu tài liệu mật và người ta vẫn bảo mật như vậy cho đến thời khắc này. Chả trách hai tháng trước đây, trong thông báo của Bộ Chính trị gửi cán bộ cao cấp của Đảng, Trương Xuân Kiều đã tự tay viết thêm một đoạn rằng: “Bệnh tình của lãnh tụ vĩ đại Mao Trạch Đông ngày một thuyên giảm, và sẽ trở lại vị trí công tác trong nay mai”.
Diệp Kiếm Anh phản đối cách viết như vậy. Ông nói:
- Đó không phải là sự thật. Thông báo bệnh tình của Chủ tịch đến cán bộ cao cấp của Đảng cần trịnh trọng, nghiêm túc. Nếu đến họ - những cốt cán mà không tin nữa thì chúng ta còn biết làm việc với ai? Dối trá, nhỡ Chủ tịch có mệnh hệ gì thì chúng ta nói như thế nào với mọi người? Truyện "28 Ngày Đêm Quyết Định Vận Mệnh Trung Quốc " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Uông Đông Hưng nghe phải cũng hùa vào:
- Diệp nguyên soái nói rất đúng, cần trao đổi triệt để với cốt cán.
Giang Thanh nhìn mọi người và bắt đầu lên giọng:
- Triệt để cái gì? Chủ tịch rất cường tráng, khả năng đề kháng rất cao, và chính tôi biết rất rõ, rất triệt để điều này, đồng chí Uông Đông Hưng ạ. Chẳng lẽ thông báo là suốt ngày Chủ tịch hôn mê, chẳng lẽ các đồng chí muốn tạo ra sự hỗn loạn?
- Thôi thôi, sức khoẻ của lãnh tụ là tài sản vô giá của toàn Đảng toàn dân, và trong lúc này là yếu tố quyết định đến toàn cục, đến sự ổn định cả nước. Xin các đồng chí không nên tranh luận nữa, cứ thế mà quyết.
Trương Xuân Kiều lựa lời dàn xếp, nhưng khi đưa lên Hoa Quốc Phong ký thì ông cương quyết gạch bỏ đoạn nói láo kia. Trương, Giang tức lắm:
- Mới có Phó Chủ tịch mà đã lên mặt, hãy đợi đấy, đợi đến lúc Chủ tịch bình phục sẽ được tính sổ.
30.07.2014
Phần VII - SƯ ĐÔNG BINH - Chương 3
TÁNG MAO HAY PHÊ ĐẶNG
Dịch giả: Thái Nguyễn Bạch Liên
Nguồn: NXB Cà Mau
Nội dung thu gọn
Sức khoẻ của Mao Trạch Đông ngày càng sa sút và ý chí phục thù của Giang, Trương cũng theo đó mà suy giảm. Một hôm, Mao gõ thành giường gọi trực ban và Hoa Quốc Phong, Vương Hồng Văn và Uông Đông Hưng xích lại gần và với một giọng khó nhọc, mệt mỏi, ông nói:
- Người xưa bảo nhân sinh thất thập cổ lai hy, tôi nay đã hơn tám mươi tuổi rồi, nên thường nghĩ chuyện sau này. Ở Trung Quốc lại có câu: đậy xong nắp hòm là có thể phán định được rồi, nắp hòm của tôi tuy chưa đậy, nhưng có đậy cũng nhanh thôi và do vậy bây giờ là lúc cần phán định.
- Dạ thưa Chủ tịch, Chủ tịch còn khoẻ lắm, còn sống vài chục năm nữa, ít nhất là mười năm nữa ạ - Trương Xuân Kiều nịnh Mao.
Ông cười và tiếp tục mạch tư duy của mình:
- Đời tôi làm hai việc, một là giao tranh với Tưởng Giới Thạch mấy mươi năm, cuối cùng đuổi họ ra mấy hòn đảo. Kháng Nhật 8 năm và mời được người Nhật về nước, tiến vào Bắc Kinh, đặt chân đến Tử Cấm Thành. Đối với việc này, người tranh luận không mấy ai, có chăng chỉ là thúc giục tôi mau chóng lấy lại các hòn đảo đó mà thôi. Việc thứ hai như các đồng chí đã biết, ấy là chuyện phát động cuộc đại Cách mạng văn hoá, người ủng hộ không nhiều, người phản đối không ít. Cả hai việc đều chưa xong, còn dở dang, phải bàn giao lại cho hậu thế. Bàn giao bằng cách nào? Hoà bình mà giao hay phải đấm đá lẫn nhau? Nếu chọn hai, thì máu đổ xuống xương tan, và các đồng chí sẽ làm như thế nào? Chỉ có trời mới biết!... Truyện "28 Ngày Đêm Quyết Định Vận Mệnh Trung Quốc " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
...Trương Xuân Kiều đang miên man nhớ lại những chuyện xưa, nhớ lại cái hồi đầu “văn cách” thân như chiếc lá giữa dòng, thế mà nay đang chuẩn bị nhận bàn giao của lịch sử, yên hàn hay can qua, nhờ cậy ai bây giờ, đến như Mao cũng đầy nỗi bi thống... đang mơ màng giữa thực hư như vậy thì chuông điện thoại 202 réo lên, ông giật thót người. Cùng lúc Giang Thanh ập tới hỏi Trương:
- Báo cho Hoa Quốc Phong chưa?
- Chưa, 4 giờ chiều còn đọc sách, 8 giờ tối tay lạnh ngắt, 9 giờ thì cấp cứu, và bây giờ...
- Chủ tịch, Chủ tịch, Nhuận Chi, tôi đây mà, ông hãy mở mắt xem, Giang Thanh đây...
Đó là ngày mùng 8 tháng 9 năm 1976. Người còn đang đọc sách, đọc sách cho tận cuối đời và rồi cũng...
Hoa Quốc Phong nhận được điện thoại vội vàng chạy đến bên Chủ tịch. Ông phủ phục kêu gào:
- Mao Chủ tịch, Mao Chủ tịch!
Mao Trạch Đông mặc bộ quần áo trắng lạnh, đắp chăn trắng, nằm bất động trên giường. Mao mở mắt nhìn Hoa - Phó Chủ tịch Trung ương, Thủ tướng Chính phủ vừa mới lên ngôi chưa tròn một năm - như muốn nói điều gì mà không sao phát ra thành lời, mắt và miệng cứ chảy một loại nước màu trắng; lau mãi vẫn không ngưng được. Hoa Quốc Phong là một trong những lãnh đạo mà Mao tín nhiệm nhất vào lúc cuối đời. Khi Chu Ân Lai tạ thế, ông nén sự dày vò đau khổ, cẩn thận chọn người thay thế. Người đó phải làm việc thực sự, điều phối các quan hệ nội ngoại của cả quốc gia. Trong “nháy mắt”, Hoa được kế vị thế Chu, làm cho dư luận vô cùng sửng sốt vì không ai dự kiến rằng Hoa sẽ là Thủ tướng. Còn đối với Hoa, tựa như niềm vui từ trên trời rơi xuống, ông có đôi phần cảm nhận trước và giờ đây cảm thấy lo lắng vô cùng.
Hoa nắm tay Mao, bàn tay của vị thống soái thiên binh vạn mã, từng sóng gió hơn 60 năm qua mà nay lạnh cứng, vàng vọt như một phần của tử thi.
- Thông báo cho toàn thể uỷ viên Bộ Chính trị đến thăm Mao Chủ tịch và... - Hoa Quốc Phong không thể thốt ra những chữ cuối cùng “…và từ biệt người”, vì lâu nay ai cũng sợ mắc trọng tội - mong Chủ tịch chết sớm - nên ngoài việc cấp cứu, bảo mật, người ta chưa hề nghĩ đến chuyện hậu sự cho Mao. Giang Thanh vờ như chưa nghe rõ:
- Đồng chí bảo sao?
- Phải để cho tất cả Bộ Chính trị được gặp Chủ tịch, nhỡ Người có mệnh hệ gì chúng ta còn có thể giải thích được với toàn Đảng, toàn dân.
Dẫu sao thì cũng phải chấp hành ý kiến của Phó Chủ tịch thứ nhất, Giang Thanh không còn cách nào để chống đối, bà lẩm bẩm:
- Sắp nổi gió rồi đây, bọn hữu phái sẽ lại nhảy ra.
- Sớm muộn gì cũng có một ngày như thế, sợ mà làm gì?
Trương Xuân Kiều an ủi, nhưng bà lồng lên:
- Sợ à?
Rồi hạ giọng:
- Cẩn thận, Hoa Quốc Phong!
Và bà truy hỏi Mao Viễn Tân - cháu ruột của Mao, liên lạc viên giữa Chủ tịch và Bộ Chính trị Trung ương Đảng, phiên dịch phương ngữ Hồ Nam ra tiếng phổ thông:
- Chủ tịch không để lại di chúc ư?
- Chưa tìm thấy!
Giang Thanh thoáng chút nghi ngờ cái thằng cháu mà bà đã bỏ công nuôi dạy, biết hút thuốc lá thơm và xem phim ảnh ngoại. Nó giống như ông Mao hồi còn trai trẻ: tráng kiện, da nâu, tóc dày, cơ bắp phát triển và rất đàn ông, cũng thích bơi lội và hay bông đùa với các cháu gái: “Người ta ngồi ghế bốn chân; còn anh năm, sáu, bảy, tám cơ. Em nào không tin, thì lại đây mà xem”.
Nhưng Viễn Tân khác với bác nó cái khoản đọc sách, thế mà giờ đây lại sáng giá, nặng cân.
- Cháu phải để ý Hoa Quốc Phong, ông ta im ỉm chờ Chủ tịch qua đời rồi mới tính chuyện. Gần đây, Trương Xuân Kiều đang nghiên cứu cách đoạt quyền của Khrusov sau khi Stalin tạ thế, cháu nên nghe Trương giảng giải thêm.
Viễn Tân thưa:
- Vâng.
Nhưng bụng nghĩ “cóc cần”!...
Bắc Kinh đêm tháng 9 huyên náo và oi nồng, nhưng nơi đây, chỗ ở của Mao Trạch Đông thì vô cùng yên tĩnh và thần bí. Mao nằm đó, mặt vàng như nghệ, miệng mấp máy, mắt mơ màng nhìn từng uỷ viên Bộ chính trị đi quanh bên mình. Ông đang toan tính, nghĩ suy điều gì thì lịch sử không hề ghi nhận được. Không ai dám dừng lâu, sợ Chủ tịch kích động sớm ra đi và Diệp Kiếm Anh - lão suý 79 tuổi cũng vậy, ông cúi nhìn Chủ tịch rồi hướng về phía sofa gục đầu thổn thức, nhưng nhân viên đã thưa rằng:
- Chủ tịch cho gọi Thủ tướng.
Mao Trạch Đông dùng tàn lực đưa bàn tay lên, định nắm lấy tay Diệp Kiếm Anh. Nhưng bàn tay tự rơi xuống, nó không còn nghe sự chỉ huy của cái đầu nữa rồi và vĩnh viễn nằm lại đó.
- Chủ tịch, xin Người hãy cẩn trọng. Người sẽ khoẻ và Trung Quốc không thể mất Người.
Đó là câu nói cuối cùng mà Mao còn nghe được, câu nói của một lão tướng từng xông pha bao trận mạc nhưng lại phải ngã quỵ dưới ngòi bút của ông.
- Chủ tịch có căn dặn gì không?
Mọi người vây quanh Diệp Kiếm Anh.
- Không!
Giang Thanh nhân cơ hội và như ra lệnh, bà nói:
- Tất cả đã rõ, và có lẽ Trung ương không cần ra thông báo làm gì nữa, nhằm phòng chống sự phá hoại của kẻ địch. Bây giờ các đồng chí có thể trở về.
Diệp Kiếm Anh nắm tay Hoa Quốc Phong:
- Thủ tướng, lúc gian nguy này, xin Thủ tướng ra tay và giữ gìn sức khoẻ.
- Lão suý cũng vậy.
Mọi người rời khỏi tư dinh của Mao không bao lâu, thì 0 giờ 10 phút ngày 9 tháng 9 năm ấy - 1976, tiếng khóc đã oà lên từ phòng bệnh Mao Trạch Đông. Bánh xe lịch sử vẫn quay, mọi trầm tư đều vụn vỡ, mở ra một màn quan trọng trong câu chuyện “hai mươi tám ngày đêm” của chúng ta.
Rạng ngày 9 tháng 9, toàn thể thành viên Bộ Chính trị được triệu tập họp khẩn cấp nhưng không rõ nội dung cụ thể. Khi nhân viên văn phòng đưa băng đen và hoa trắng cài cho từng vị thì mọi người đều nhoà lệ, nỗi bi thống như nhấn chìm cả hội trường. Dẫu vẫn biết ngày đau thương này sớm muộn gì cùng phải đến, nhưng sao Người ra đi đường đột đến thế. Diệp Kiếm Anh lấy lại tư thế của một Nguyên soái, của một Phó Chủ tịch, giọng ông xưa nay vẫn sang sảng nhưng giờ đây nghẹn ngào:
- Đồng chí Quốc Phong là Phó Chủ tịch thứ nhất của Đảng, là người kế vị mà lúc sinh thời Mao Chủ tịch đã chỉ định, xin mời đồng chí có đôi lời với chúng ta.
Cả 20 vị uỷ viên Bộ chính trị đều quay nhìn lão suý và cảm nhận trọng lượng câu nói của người cao tuổi nhất trong số 3 Phó Chủ tịch Đảng. Sau khi văn kiện số 1 ngày 2 tháng 2 năm 1976 phát ra, bảo rằng, đồng chí Diệp Kiếm Anh lâm bệnh, mọi công việc của Quân uỷ Trung ương do đồng chí Trần Tích Liên đảm nhận, ông hiểu là tình thế đã đến mức căng thẳng và trên thế cuộc, Giang Thanh với Trương Xuân Kiều đã thắng được một nước. Từ ấy, ông bớt lời, bớt việc, đóng cửa từ khách nhưng tuyệt không nhắm mắt, bịt tai mà như con mãnh hổ phủ phục chờ thời. Hôm nay, lúc này, ông nhảy ra và cũng làm cho Giang, Trương chợt tỉnh trong cơn mơ âm mưu mới mẻ của họ. Truyện "28 Ngày Đêm Quyết Định Vận Mệnh Trung Quốc " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Hoa Quốc Phong mắt đỏ, nuốt lệ, mãi mới nói nên lời:
- Mong các đồng chí trong Bộ Chính trị hãy vì toàn cục mà tăng cường đoàn kết, cùng nhau đưa Đảng và nước nhà vượt qua bước nguy nan này.
Hội trường im lặng, trầm tư. Bỗng Trương Xuân Kiều lên tiếng:
- Thưa các đồng chí, chúng ta chỉ đau khổ thì không thể nào vượt được nguy cơ. Phải biến đau thương thành sức mạnh, trên cơ sở phê Đặng phản hữu mà đoàn kết toàn Đảng và kế thừa ý nguyện của Mao Chủ tịch, đưa cách mạng của giai cấp vô sản đến thắng lợi cuối cùng. Đấy mới là lối thoát duy nhất của chúng ta.
Không mấy ai chú ý lời đề nghị của Trương, nhưng Diệp Kiếm Anh đã kịp thời phản bác:
- Tôi đề nghị trước tiên chúng ta phải bàn việc mai táng Mao Chủ tịch, hiện nay không có công tác nào quan trọng hơn nữa, các vấn đề khác sau hãy bàn.
Lời nói ấy làm cho Hoa Quốc Phong tỉnh lại. Ông gạt nước mắt, mở cặp và bắt đầu bàn bạc với mọi người. Bộ Chính trị nhanh chóng thống nhất: giữ gìn vĩnh viễn thi hài của Mao Chủ tịch, 3 giờ chiều hôm nay thông báo tin buồn này cho toàn thể nhân dân trong nước và trên thế giới, tổ chức quần chúng viếng Chủ tịch và cử hành lễ truy điệu tại quảng trường Thiên An Môn vào ngày 18 tháng 9 v.v...
Một vài người nêu ý kiến mời khách quốc tế, nhưng Trương Xuân Kiều lý luận:
- Theo tập quán của nước ta, tốt nhất là không nên mời người nước ngoài. Chủ tịch vừa qua đời, chúng ta còn nhiều việc phải làm, không còn bao nhiêu sức lực mà đón khách, hiện nay công việc nội bộ là chủ yếu.
Thảo luận qua lại, cuối cùng hội nghị tán đồng ý kiến của Trương và phân công lịch trực linh cữu và chương trình tang lễ. Vương Hồng Văn bổ sung:
- Để đề phòng sự đột kích của đế quốc và bọn xét lại, toàn quân phải đưa vào tình trạng chiến đấu cấp một.
Trần Tích Liên hùa vào:
- Quân uỷ chúng tôi đã sẵn sàng.
Hội nghị sắp kết thúc thì Giang Thanh lấy ngón tay đẩy gọng kính và chậm rãi:
- Có lẽ các đồng chí chớ vội bãi họp, nên xem xét ý kiến của đồng chí Trương Xuân Kiều vừa nêu. Tôi thấy hôm nay chúng ta đã bỏ qua một vấn đề quan trọng, rất quan trọng, có quan hệ đến toàn cục, có quan hệ đến sự nghiệp giữ cho Đảng ta, nước ta không bị biến chất. Nhiều đồng chí rất lơ là xem nhẹ vấn đề này. Truyện "28 Ngày Đêm Quyết Định Vận Mệnh Trung Quốc " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Không khí phòng họp bỗng trở nên căng thẳng, nhiều người quay lại nhìn bà. Riêng Diệp Kiếm Anh, Lý Tiên Niệm và nhiều đồng chí già khác vẫn lim dim ngả mình trên sofa...
- Đó là vấn đề phê Đặng. Khi còn sống, Chủ tịch đã nhiều lần nhắc nhở công việc này, các đồng chí có biết không? Chủ tịch đã bị Đặng Tiểu Bình bức tử. Bọn họ phủ nhận Cách mạng văn hoá, trên thực tế đã phủ nhận công lao của Chủ tịch, lúc lâm chung Người đã nói với tôi và Viễn Tân...