Phần III - Chương 4
TỐNG MỸ LINH CỬ TOAN-NA BAY ĐẾN TÂY AN
Dịch giả: Thái Nguyễn Bạch Liên
Nguồn: NXB Cà Mau
Nội dung thu gọn
Nam Kinh hô hào “thảo nghịch”, Bảo An chủ trương “thẩm Tưởng”, hai bên kiếm đã rút khỏi bao, đứng giữa là Tây An, nơi ấy vừa có quân phản nghịch Trương, Dương vừa có Tưởng Giới Thạch đang bị giam cầm. Truyện "28 Ngày Đêm Quyết Định Vận Mệnh Trung Quốc " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Ngày 13 ở Bảo An, ngoài mít tinh quần chúng đòi đấu Tưởng, còn kêu gọi cả báo chí - tờ “Trung Hoa đỏ”. Ngày 15, Mao Trạch Đông và 15 tướng lĩnh Hồng quân phát điện cho chính phủ Quốc dân đảng yêu cầu “bãi miễn Tưởng Giới Thạch, giao cho nhân dân xét xử”.
Ngày 16, hội nghị trung ương Quốc dân đảng quyết định: (1) Đưa Hà Ứng Khâm lên làm Tổng Tư lệnh quân thảo nghịch. (2) Chính phủ ra lệnh xuất binh. (3) Tuyên bố uỷ lão quân dân Tây Bắc. Ngay hôm ấy, Hà Ứng Khâm nhận chức, chính phủ Nam Kinh ban bố lệnh “thảo phạt Trương Học Lương”. Còn trên ấy, Đông Bắc quân, Tây Bắc quân và Hồng quân kiên quyết liên hợp tác chiến, dàn bày thế trận, sẵn sàng nghênh đón thảo nghịch quân ở Nam Kinh lên. Một cuộc nội chiến rất lớn, “đạn đã lên nòng, tên đã trên cung”.
Để có thể dập tắt đoạn dây cháy chậm ngày một ngắn dần, hai chiếc máy bay cất cánh lần lượt từ Nam Kinh, nhưng không dám hạ xuống Tây An sợ quân Trương, Dương bắn rơi. Trước khi bay, Tống Mỹ Linh và vị sứ giả đều điện báo cho Trương Học Lương, nhưng không liên lạc được nên đành cứ bay và sẽ đậu ở Lạc Dương. Sứ giả của Tống Mỹ Linh là người châu Âu, mắt xanh, mũi lõ, tên gọi: Uy-liêm Hăng-ri Toan-na, đã ngoài lục tuần, quốc tịch Anh và sinh sống ở Úc, có lẽ đây là phương án tối ưu, bởi vì Toan-na vừa có tình thâm với Trương Học Lương, vừa được Tưởng Giới Thạch tin cậy, lại là người ngoại quốc, khách quan và không chịu ảnh hưởng của phe đảng nào. Toan-na sinh ra ở Úc, tổ tiên người Tô Cách Lan, năm 1903, ông làm chủ bút tờ “Bưu điện Trung Quốc” ở Hương Cảng, từ bấy Toan-na kết duyên cùng Trung Quốc và dần dần trở thành nhà Trung Quốc học, sau làm phóng viên “Thời báo London”, “Thời báo New York”. Ông thành danh từ năm 1915 khi vạch trần điều ước 21 bí mật kí kết giữa Viên Thế Khải và Nhật Bản. Toan-na quen thân với Tống Diệu Như năm 1911, và do đó có tình nghĩa cùng gia đình họ Tống, ông đã giúp Tôn Trung Sơn khởi thảo tuyên ngôn đối ngoại đầu tiên của chính phủ Dân quốc. Toan-na còn là cố vấn tư gia của Trương Tác Lâm, sau khi Trương đại sư lâm nạn trong chuyến tàu gãy cầu chìm sông. Ông tiếp tục làm gia sư và cố vấn cho Trương thiếu soái Học Lương. Năm 1934, Toan-na tháp tùng Trương Học Lương chu du sáu nước châu Âu, vào tuổi già, ông quả có tình thâm với gia đình họ Trương. Người đời cũng đồn đại, Toan-na là cố vấn của Tưởng Giới Thạch, kì thực không phải như vậy, trong “Tây An bán nguyệt kí”, Tưởng ghi: ““Bên ngoài ngộ nhận Toan-na là cố vấn mà chính phủ đã thỉnh mời, từ đầu Toan-na với tư cách bạn hữu luôn đến cùng ta, và nay ông vẫn như vậy chứ không phải là cố vấn”.
Đêm 12 tháng 12, Tống Mỹ Linh nghe tin Tưởng Giới Thạch bị bắt ở Tây An, bà vội vàng điện thoại cho Tống Tử Văn và Toan-na đang ở tại khách sạn Quốc tế - Thượng Hải, nhờ hai người cùng đến nhà Khổng Tường Hy bàn cách đối phó. Tống Mỹ Linh phờ phạc, như không còn hồn phách nào nữa, với vốn tiếng Anh điêu luyện, bà nói với Toan-na:
- Tây An xảy ra binh biến, uỷ viên trưởng bị bắt và nghe đâu không còn nữa!
- Tôi không tin điều đó, - Toan-na lắc đầu đáp lại. -Thứ nhất, Trương thiếu soái không phản biến uỷ viên trưởng. Thứ hai, uỷ viên trưởng vẫn còn sống!
Đêm ấy, cả bốn người - Tống Mỹ Linh, Tống Tử Văn, Khổng Tường Hy và Toan-na - về Nam Kinh, Tống Mỹ Linh quyết định cử Toan-na đi giảng hoà, chiều tối 13, Toan-na đến Lạc Dương, bà nhận được điện của Trương Học Lương, hoan nghênh Toan-na đến Tây An. Ngày 14, sứ giả bay từ Lạc Dương về Tây An, vừa đến bầu trời cố đô, Toan-na cho thả dù mang thư; theo y ước trong thư, ba đống lửa nổi lên trên sân bay, chuyên cơ của ông hạ cánh an toàn. Năm giờ chiều ngày 14, Trương Học Lương dẫn Toan-na đi gặp Tưởng Giới Thạch, Tưởng vui mừng khôn tả, miệng lắp bắp: “Tôi biết thế nào anh cũng tới”. Toan-na nghe Trương Học Lương nói rõ mọi tình tiết “binh gián” 12 tháng 12, sáng ngày 15 ông gặp Tưởng Giới Thạch lần nữa rồi bay về Nam Kinh báo cho Tống Mỹ Linh biết, Tưởng Giới Thạch vẫn bình an vô sự và Trương Học Lương mời Khổng Tử Hy đến Tây An thương thảo. Tống Mỹ Linh mừng rỡ, bà đã nhìn thấy một tia hy vọng đầu tiên để giải quyết sự biến Tây An.
CHU ÂN LAI TRỞ THÀNH CHỦ MƯU CHO TÂY AN
Ngày 17, Chu Ân Lai đến Đạo Xuyên - phía nam thành Diên An và định lên ô tô đi về phía Tây An, thì chiếc chuyên cơ Ba-ưng của Trương Học Lương do một phi công người Mĩ lái đã kịp đón ông và phái đoàn Trung Cộng, người tháp tùng là Lưu Đỉnh - thư kí của Trương và là đảng viên cộng sản.
Trên đường bay về Tây An, Chu Ân Lai lắng nghe Lưu Đỉnh báo cáo tường tận tình hình trước và sau ngày 12, ông chú ý đến tình tiết Trương Học Lương ra lệnh “chỉ được bắt sống Tưởng Giới Thạch”, và loé lên giải pháp “bức Tưởng kháng Nhật” - bài thuốc đầu tiên chữa trị cho Tây An.
Trương Học Lương vô cùng mừng rỡ khi gặp lại Chu Ân Lai:
- “Mỹ nhiêm công”, bộ râu cực đẹp của ngài đâu rồi?
Trương Học Lương và Chu Ân Lai lập tức hội đàm với nhau, bàn ngay việc nên xử trí Tưởng Giới Thạch như thế nào, Chu nghe Trương nói trước:
- Theo tôi, tranh thủ Tưởng kháng Nhật lúc này là có khả năng nhất. Chỉ cần Tưởng đồng ý đình chỉ nội chiến, cùng nhau kháng Nhật thì phóng thích ngay và vẫn ủng hộ ông ta làm lãnh tụ cả nước kháng chiến chống Nhật cứu nước.
Chu Ân Lai tán dương ý kiến của Trương, nhưng cũng mạnh dạn tâm sự:
- Sự biến Tây An làm chấn động cả trong và ngoài nước, song ít nhiều cũng có tính chất “âm mưu quân sự”.
Trương Học Lương có vẻ không vui mà rằng:
- Tôi chí công vô tư, sao lại là âm mưu?
Chu Ân Lai mỉm cười, giải thích:
- Bắt Tưởng một cách “xuất kì bất ý” và do đó chúng ta lúng túng bị động cách xử trí, thật là “thừa kì bất bị”, không giống như cách mạng tháng Mười ở Nga, Sa Hoàng Nicôlai bị bắt, cũng không giống như Nã Phá Luân thất thế ở chiến dịch Oatéclô, hiện nay lực lượng quân sự của Tưởng Giới Thạch vẫn còn nguyên vẹn, Tây An và Nam Kinh đã trở thành đối lập, cho nên cách xử lí Tưởng Giới Thạch cần phải rất cẩn trọng:
Chu Ân Lai tiếp tục phân tích:
- Như Trương tướng quân vừa nói, nếu thuyết phục được Tưởng Giới Thạch đình chỉ nội chiến, cùng nhau kháng Nhật, thì quả là diễm phúc cho Trung Quốc, nếu tuyên bố tội trạng của Tưởng, giao nhân dân xét xử, cuối cùng giết ông ta, không những không chấm dứt được nội chiến mà còn tạo điều kiện dễ dàng để quân Nhật tiêu diệt Trung Quốc chúng ta.
Chu Ân Lai sở dĩ nói lên điều này vì ông nghe Lưu Đỉnh báo cáo, ngày 16 trong đại hội quần chúng ở Tây An, Trương Học Lương tuyên bố, nếu Tưởng Giới Thạch không chấp nhận kháng Nhật thì ông sẽ vạch mọi tội trạng của Tưởng trong sự biến “9.12”, và hình phạt sẽ do nhân dân quyết định. Vậy là hai người đi đến thống nhất giải quyết sự biến Tây An bằng phương pháp hoà bình. 20 năm sau Trương Học Lương hồi tưởng lại đã nói: “Lúc bấy giờ Chu quả là người chủ mưu cho Tây An”.
Ngay hôm ấy Chu Ân Lai điện báo cáo Mao Trạch Đông và Trung ương, rằng ông và Trương đã thống nhất năm điều kiện đàm phán với Tống Tử Văn. Mao Trạch Đông vẫn tư lự với những câu hỏi: giữ, đấu, bãi, hay giết Tưởng?
20.07.2014
Phần III - Chương 5
TƯỞNG GIỚI THẠCH, NGƯỜI BỊ BẮT
Dịch giả: Thái Nguyễn Bạch Liên
Nguồn: NXB Cà Mau
Nội dung thu gọn
Chín giờ sáng ngày 12, Tưởng Giới Thạch được đưa về Đông Sương Tân Thành đại lầu. 10 giờ Trương, Dương đưa cho ông thông báo số 1, hai bên tranh luận và Trương Học Lương buộc phải nói:
- Ông không nghe tôi khuyến cáo thì việc này dành để nhân dân xử trí.
- Ta dù thân chết, đầu rơi, tứ chi tàn phế, nhưng nhân cách và chí khí thì vẫn cứ bảo toàn - Tưởng Giới Thạch trả lời. Truyện "28 Ngày Đêm Quyết Định Vận Mệnh Trung Quốc " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Ngày hôm sau Tưởng Giới Thạch đòi gặp riêng Dương Hổ Thành. Ông vặn Dương:
- Anh có biết trước chuyện này không?
- Có, - Dương đáp. - Đây là ý nguyện của toàn dân, mong muốn chấm dứt cảnh nồi da xáo thịt, tập trung sức lực chống giặc ngoại xâm.
Năm giờ chiều ngày 14, Toan-na đưa thư Tống Mỹ Linh cho Tưởng Giới Thạch, và nói với ông:
- Tưởng phu nhân nhờ tôi đến đây để hội đàm cùng Trương Hán Khanh, nắm vững ít nhiều về sự biến Tây An, trước hết xin có lời thăm sức khoẻ của ngài. Tôi nghĩ rằng, Trương tướng quân không có ý hãm hại ngài, chỉ cần ngài đáp ứng chủ trương của họ thì họ sẽ hết lòng ủng hộ ngài làm lãnh tụ, đó không chỉ là ý nguyện của hai người Trương, Dương mà là yêu cầu bức thiết của nhân dân Trung Quốc, người nước ngoài như chúng tôi cũng tán đồng chính kiến đó. Nếu ngài chấp nhận thì sau này vẫn là nhân vật vĩ đại của thế giới, ngược lại, rất tiếc sẽ mau chóng trở thành tiểu nhân. Truyện "28 Ngày Đêm Quyết Định Vận Mệnh Trung Quốc " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com) Truyện "28 Ngày Đêm Quyết Định Vận Mệnh Trung Quốc " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Toan-na là người Tây Dương, đã được Tưởng Giới Thạch tin cậy, cách nói khách quan, nên Tưởng nghe dễ tin cậy, nhưng ông vẫn bi quan và nhờ Toan-na chuyển về cho Tống Mỹ Linh một lá thư với lời văn như thể “di chúc”:
“Mỹ Linh ngô thê (1), ta quyết tâm tuẫn quốc, ta qua đời, toàn bộ gia sản giao cho nhữ (2) kế thừa, mong nhữ trông nom hai con Kinh Quốc, Vĩ Quốc, và thờ nguyện tâm linh ta. Cầu nguyện Thượng Đế ban phước lành cho nhữ”.
Trước khi về Tây An. Toan-na đến thăm Tưởng Giới Thạch lần nữa và nói cho ông rõ cái gọi là “kịch trong kịch” ở Nam Kinh và nội dung điện thoại đường dài với Tống Mỹ Linh và Tống Tử Văn, đặc biệt lời dặn của Tống Mỹ Linh - “Thà kháng Nhật còn hơn chết trong tay địch”.
Thái độ của Tưởng Giói Thạch bắt đầu chuyển biến...
Sáng ngày 17, tin Chu Ân Lai đến Tây An làm cho Tưởng Giới Thạch lo lắng, “tay địch” đã vươn tới cố đô rồi sao?
Chú thích:
(1) Vợ ta.
(2) Đại từ nhân xưng ngôi thứ hai.
20.07.2014
Phần III - Chương 6
TRUNG CỘNG QUYẾT ĐỊNH PHƯƠNG CHÂM
“GIẢI QUYẾT HOÀ BÌNH” VÀ “PHÓNG TƯỞNG”
Dịch giả: Thái Nguyễn Bạch Liên
Nguồn: NXB Cà Mau
Nội dung thu gọn
Những ngày ở Tây An, Chu Ân Lai đã tích cực hoạt động và hình thành được một phía của cuộc hội đàm tương lai, theo ngôn ngữ lúc bấy giờ gọi là “tam vị nhất thể” - Trương, Dương, Chu, đại diện cho Đông Bắc quân, Tây Bắc quân và Hồng quân, song ông vẫn thường xuyên liên lạc với Bảo An và Mao Trạch Đông.
Như đã trình bày ở trên, Trung Cộng kịp thời báo cáo với Quốc tế Cộng sản, kết quả thật bất ngờ - Stalin phản đối “đảo Tưởng” và đêm 13, Quốc tế Cộng sản trả lời Trung Cộng, nội dung gồm ba phần: (1) Khẳng định sự biến Tây An là do quân Nhật tạo nên, và nhất định bên cạnh Trương Học Lương có gián điệp Nhật ẩn náu, Liên Xô sẽ không ủng hộ bất kì ai là bạn của Nhật. (2) Nhiệm vụ khẩn cấp của Trung Quốc hiện nay là xây dựng một mặt trận thống nhất kháng Nhật có tính toàn Quốc, là đoàn kết hợp tác, chứ không phải phân liệt, chia rẽ. (3) Tranh thủ hoà bình giải quyết vấn đề Tây An, nhân cơ hội này mà hợp tác với Tưởng Giới Thạch, khiến ông ta tán thành kháng Nhật, trên cơ sở đó tự động phóng thích Tưởng.
Tiếp đó, Stalin đã nhờ đoàn đại biểu Trung Cộng tại Quốc tế Cộng sản chuyển về Bảo An bức điện: “Đảng Cộng sản Trung Quốc đầu tiên nên hiểu rằng: Tưởng Giới Thạch là kháng Nhật, nếu đả đảo Tưởng, tất yếu sẽ ra nội chiến và chỉ có lợi cho quân xâm lược Nhật”. Theo Stalin, làm lãnh tụ ở Trung Quốc, Trương Học Lương chưa đủ tư cách, lực lượng Mao Trạch Đông còn bé nhỏ, chỉ còn Tưởng Giới Thạch mới đủ sức hiệu triệu, thống soái binh mã mà thôi.
Thế gian không có ai đủ sức quán xuyến chính xác tất cả. Trong thời kì đầu của sự biến Tây An, nhận định của Mao Trạch Đông và Stalin đều có sai và có đúng. Đối với Trương, Dương - Mao Trạch Đông ủng hộ, đó là đúng, Stalin phản đối, ấy là sai. Đối với Tưởng Giới Thạch - Mao Trạch Đông chủ trương “đảo Tưởng”, ấy là sai, Stalin “bảo Tưởng”, đó là đúng. Khách quan mà nhận xét, Mao Trạch Đông và Stalin đúng và sai đều có nguyên nhân của họ. Mao Trạch Đông sống tại Trung Quốc, nắm vững tình hình nên lập tức cho rằng sự kiện binh gián Tây An của Trương, Dương là “khởi nghĩa kháng Nhật”, còn Stalin ở Mạc Tư Khoa xa xôi không rõ nội tình Trung Quốc nên quy oan Trương, Dương là “âm mưu của Nhật”. Stalin nhìn toàn cục để đánh giá Tưởng Giới Thạch, còn Mao Trạch Đông dẫu sao vẫn còn mỗi cừu hận 10 năm với Tưởng, xem Tưởng là kẻ thù. Loại trừ cái sai của hai vị, là tiếp tục cái đúng của họ, Chu Ân Lai đã lập công lớn trong việc giải quyết sự biến Tây An.
Từ ngày 12 đến ngày 19, đúng như Chu Ân Lai đã nói với Vương Bính Nam, “một tuần nay chúng tôi chưa hề chợp mắt”, để cuối cùng đưa ra một quyết định “có lẽ khó khăn nhất trong đời chúng tôi” - giải quyết hoà bình sự biến Tây An và phóng thích Tưởng Giới Thạch. Mao Trạch Đông tiếp thu phê bình, quan điểm giữa ông và Trương Văn Thiên đi đến nhất trí. Ngày 21, Trung Cộng điện cho Chu Ân Lai: “nới rộng kích thước với Tưởng Giới Thạch!”.
“TAM VỊ NHẤT THỂ” ĐÀM PHÁN VỚI NHỊ TỐNG
Ngày 21, Mao Trạch Đông cũng điện báo cho Phan Hán Niên ở Thượng Hải về chủ trương của Trung Cộng và yêu cầu thông báo với Trần Lập Phu để họ Tống được rõ trước khi vào đàm phán. Mười một giờ rưỡi sáng ngày 22, hai máy bay đưa Tống Mỹ Linh, Tống Tử Văn và nhiều quan chức của chính phủ Nam Kinh đến cố đô đàm phán giải quyết sự biến Tây An. Từ sân bay Tây An, Tống Mỹ Linh thẳng xe về “nhà giam” Tưởng Giới Thạch. “Ôi, hiền thê, nàng đến rồi ư? Nàng dám vào hang hùm cứu ta!”. Tưởng Giới Thạch kêu lên như vậy và ôm lấy người đàn bà thứ tư của đời mình. Tống Mỹ Linh im lặng trong đầm đìa nước mắt, bà ân hận “em không ở cạnh chàng những lúc hiểm nguy”, sau này Tống Mỹ Linh nhớ lại và nói rằng: “Thế cục Tây An do Toan-na đặt móng, Tống Tử Văn xây tường và cuối cùng do tôi lợp mái”.
Tưởng Giới Thạch thống nhất với nhị Tống - Mỹ Linh, Tử Văn rằng: “cải tổ chính phủ, sau ba tháng sẽ mở hội nghị cứu quốc, cải tổ Quốc dân đảng, đồng ý liên bang thân Cộng”. Nhưng ông đưa ra hai điều kiện: (1) Không xuất đầu lộ diện, hai anh em họ Tống thay Tưởng đàm phán. (2) Không kí tên trong bất cứ văn bản nào, để giữ nhân cách của một lãnh tụ.
Trong thế bí của cuộc cờ, Tưởng Giới Thạch vẫn rất lão luyện, tránh mọi ràng buộc lịch sử sau này và lo cho nước đi tương lai.
Cuộc đàm phán bắt đầu vào sáng 23, đúng cái nơi mà 11 hôm trước Trương Học Lương đã ban bố lệnh “bắt sống Tưởng Giới Thạch” - lầu 2 công đường của phó Tổng Tư lệnh! Một bên là Trương, Dương, Chu - “tam vị nhất thế” và một bên là nhị Tống - anh em Tử Văn, Mỹ Linh. Thật là nước cờ ngoạn mục, vốn dĩ Chu Ân Lai phải đối mặt với bốn vị Quốc dân đảng, thì nay ông lại liên minh được với hai, chỉ “chọi” lại hai mà thôi và điều ước mười điểm đã được kí kết, một ngày trước Noel 1936, sự biến Tây An xem như đã hạ màn, phần sau chỉ là vĩ thanh.
Năm 1990, phóng viên hãng truyền hình NHK đã phỏng vấn Trương Học Lương:
Hỏi: Tưởng Giới Thạch và Chu Ân Lai từng gặp nhau tại Tây An, lúc ấy hẳn Tưởng tiên sinh cũng có mặt, có phải như vậy không?
Trả lời: Đây là vấn đề gay gắt, xin đừng hỏi thêm gì nữa. Tôi không những có mặt mà còn đưa Chu Ân Lai đi gặp Tưởng Giới Thạch.
Vẫn như hồi còn ỏ trường quân sự Hoàng Phố, người là hiệu trưởng, người là chủ nhiệm khoa chính trị, Chu Ân Lai cất tiếng chào: Truyện "28 Ngày Đêm Quyết Định Vận Mệnh Trung Quốc " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
- Hiệu trưởng tiên sinh, mười năm không gặp nhau, tiên sinh già hơn trước.
- Ân Lai, anh là bộ hạ của ta, anh nên nghe lời ta.
- Thưa hiệu trưởng tiên sinh, chỉ cần ngài thay đổi chính sách “yên trong rồi mới dẹp ngoài”, chấm dứt nội chiến, cùng nhau đánh đuổi quân Nhật thì không những cá nhân Ân Lai này nghe lời ngài mà cả Hồng quân chúng tôi cũng chịu sự chỉ huy của uỷ viên trưởng!
Nhạy cảm với chủ đề mà Chu Ân Lai vừa nêu ra, Tống Mỹ Linh đã nhanh chóng thay Tưởng Giới Thạch trả lời:
- Từ nay sẽ không tiễu Cộng nữa, lần này cảm phiền Chu tiên sinh đã phải vất vả ngàn dặm tới đây để lèo lái, thật vô cùng đa tạ.
Không khí đối thoại bắt đầu cởi mở, Tưởng Giới Thạch vui vẻ:
- Chúng tôi sẽ không gây nội chiến nữa, thực tình mỗi lần đánh nhau, tôi đều nghĩ tới anh, tôi vẫn nhớ anh đã từng giúp đỡ tôi nhiều lắm, mong rằng chúng ta còn có thể cùng nhau làm việc.
Năm 1990, Trương Học Lương chưa dám tiết lộ nội dung đối thoại nêu trên, nhưng 10 năm trước - 1980 khi “Chu Ân Lai tuyển tập” (quyển thượng) ra mắt, lần đầu tiên công bố “3 điện báo về sự biến Tây An”, trong đó có nội dung hội ngộ giữa Tưởng và Chu: Truyện "28 Ngày Đêm Quyết Định Vận Mệnh Trung Quốc " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com) Truyện "28 Ngày Đêm Quyết Định Vận Mệnh Trung Quốc " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
“Tưởng đang bệnh, tôi thăm Tưởng, ổng nói:
Tý: Chấm dứt tiễu Cộng, liên Hồng chống Nhật, thống nhất Trung Quốc, do ổng chỉ huy.
Sửu: Do Tống, Tống, Trương toàn quyền đại diện ổng, cùng tôi giải quyết tất cả.
Dần: Sau khi ổng về Nam Kinh, tôi có thể trực tiếp đi đàm phán”.
Ngày 25 - Noel 1936, quà Chúa giáng sinh - Tưởng Giới Thạch được phóng thích và chính Trương Học Lương tháp tùng Tưởng trở về Nam Kinh.
Phóng viên NHK: Thưa Trương tiên sinh, sau “sự biến Tây An”, ngài cùng Tưởng Tổng thống bay về Nam Kinh, và kết quả đã chịu kỉ luật, tại sao lúc ấy ngài lại làm như vậy, vì nguyên nhân gì?
Trương Học Lương trả lời: Tôi đã nói nhiều lần, tôi là một quân nhân, phải chịu trách nhiệm với hành vi của mình. Tôi đi Nam Kinh là để thỉnh tội, kể cả sự hành quyết. Trước khi lên đường tôi đã nhờ một học sinh trông nom giúp gia đình mình, anh ấy là sĩ quan quân đội.
Ngày trở thành quân nhân, thân phụ đã căn dặn: “Con muốn làm người lính ư? Hãy cắt cái đầu mình dắt vào lưng nịt”, nghĩa là anh hãy sẵn sàng nhận lấy cái chết. Quả vậy, sau khi trở thành quân nhân tôi đã chuẩn bị chết bất cứ lúc nào, nhưng vô cùng căm ghét cảnh nội chiến.
Năm 1991, hai học giả họ Đường và Trần đã phân tích toàn diện hơn về nghĩa cử của Trương: (1) Làm dịu đi cục diện phân liệt vừa qua vì lợi ích của quốc gia, dân tộc; (2) Tránh đêm dài mộng lắm, trên mặt lại mọc thêm cành; (3) Quốc tế Cộng sản và Liên Xô có lời trách cứ Trương, Dương; (4) Tự nhận định rằng vẫn còn khả năng trở về Tây An; (5) Đảm bảo niềm tin cho Tưởng Giới Thạch và anh em họ Tống; (6) Vì quốc gia dân tộc thì sinh tử, vinh nhục nào có sá chi.
Ngày 26 tháng 12 năm 1936, Tưởng Giới Thạch và Trương Học Lương về đến Nam Kinh, lịch sử thật trớ trêu, Tưởng như vị anh hùng khải hoàn, còn Trương - thân phận phạm nhân chờ ngày ra pháp đình lãnh án, và sau đó sang sảng lời ông: “Tôi không cảm thấy sai lầm về chủ trương của mình”. Ôi khúc bi tráng Tây An và những cảnh đời chìm nổi của tác giả, không chỉ vang vọng một lần trong kí ức!
20.07.2014
Phần IV - Chương 1
HỢP TÁC LẦN HAI TƯỞNG GIỚI THẠCH LẠI DIỄN KỊCH
“GIẢI QUYẾT HOÀ BÌNH” VÀ “PHÓNG TƯỞNG”
Dịch giả: Thái Nguyễn Bạch Liên
Nguồn: NXB Cà Mau
Nội dung thu gọn
Chiếc máy bay đưa Tưởng Giới Thạch an toàn hạ cánh xuống phi trường Nam Kinh, và người ta tưởng sự biến Tây An hoàn toàn hạ màn. Thế nhưng với con người ưa diễn kịch như Tưởng Giới Thạch thì sân khấu Nam Kinh vẫn còn tiếp nối những màn của ông. Tưởng vừa về đến Nam Kinh thì Khổng Tường Hy lập tức ra thông báo thôi giữ chức quyền viện trưởng viện hành chính, mọi công việc phục vị Tưởng viện trưởng điều khiển. Tưởng bị nghĩa quân vây bắt ở Tây An. Khổng lên thay, nay Tưởng được phóng thích và trở lại chức vụ cũ là đương nhiên, nhưng ông lại đề xuất một vấn đề không ai ngờ tới: “Để thể hiện trách nhiệm hành chánh và uỷ viên trưởng hội đồng quân sự”. Thật là một “kịch bản” xuất sắc! Ông mà cũng tình nguyện từ bỏ cái ghế uỷ viên trưởng hay sao? Dư luận nhanh chóng đánh giá, Tưởng Giới Thạch đang đeo mặt nạ, vì sau sự biến Tây An ông quả là bị mất mặt, tự trách móc mình rằng công lao 8 năm tiễu trừ Cộng sản bỗng chốc trở thành tay trắng. Đề xuất của Tưởng không được chấp nhận, người ta chỉ đồng ý ông nghỉ 1 tháng để chữa bệnh vì khi nhảy qua tường rào ở Hoa Thanh trì định trốn thoát. Tưởng Giới Thạch bị ngã khá đau và bắt đầu chứng nhức lưng từ bấy. Ở Tây An, Tưởng đã hứa “từ nay về sau tôi sẽ không tiễu Cộng nữa”, về đến Nam Kinh ông lại tiếp tục phát triển trên “Trung ương nhật báo”“ rằng, tinh thần yêu nước của quốc dân đồng bào thật là nhiệt thành, sẽ đảm bảo cho sự phục hưng của dân tộc v.v...
Còn Mao Trạch Đông, ông thắng to qua ván cờ sự biến Tây An, công bố nhiều văn bản quan trọng, tiếp tục chỉ thị cho toàn thể Trung Cộng giám sát và buộc Tưởng Giới Thạch làm đúng lời hứa kháng Nhật cứu nước, vui vẻ chuyển dời Hồng đô từ Bảo An về Diên An và tiếp tục phát huy kết quả của cuộc khởi nghĩa Tây An.
Những lúc gặp việc rối bời không thể “dục tốc”, Tưởng Giới Thạch thường tự nguyện “hạ bệ” hoặc trở về quê hương tĩnh dưỡng. Lần này cũng vậy, ông lại đi Khê Khẩu Triết Giang, ngoài ra Tưởng còn có nghĩa vụ chịu tang cho người anh cùng cha khác mẹ là Tưởng Giới Khanh vừa qua đời ngày 27 tháng 12 năm 1936. Giới Khanh con bà hai họ Từ, lớn hơn Giới Thạch 10 tuổi, chức vụ cao nhất là giám đốc hải quan Ninh Ba nên người đời thường gọi ông Tưởng giám đốc. Nghe nói, khi nghe tin Tưởng Giới Thạch bị bắt ở Tây An truyền về quê nhà, Giới Khanh đang xem kịch bỗng lăn đùng ngã bệnh vì ông sẵn chứng cao huyết áp. Giới Khanh nằm liệt giường từ đó và tắt thở vì quá vui mừng lúc người nhà báo cho ông biết, Tưởng Giới Thạch vừa được phóng thích trở về Nam Kinh. Truyện "28 Ngày Đêm Quyết Định Vận Mệnh Trung Quốc " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Nhưng trước khi đi Khê Khẩu, Tưởng Giới Thạch phải giải quyết vấn đề Trương Học Lương sao đây? Cho Trương về lại Tây An - mặt mũi Tưởng biết để đâu? Bắt giam Trương - chịu thế nào với dư luận, người ta thả anh ra, còn thân hành tháp tùng anh hồi kinh an toàn, vậy mà nỡ, thật là tiểu nhân! Tưởng Giới Thạch một tay đa mưu túc kế hẳn phải có một giải pháp tinh ranh, sau đây là “kịch bản” của ông với Trương. Trên đường bay Tây An - Nam Kinh, tất nhiên là Trương Học Lương không được ngồi cùng phi cơ với Tưởng, ông và 7 người tuỳ tùng đã hạ cánh sau Tưởng một tí, liền lên xe với Tống Tử Văn thẳng về dinh thự họ Tống. Những ngày đầu Trương sống nhàn nhã, tự do đi thăm thú bạn bè, đương nhiên lúc nào cũng có 2 xe bám riết để “bảo vệ” ông, nhưng đến sáng ngày 31 tháng 12 năm 1936 Trương được mời đi dự hội nghị hội đồng quân sự. Ông bước vào phòng họp, không phải! đây là toà án binh xử Trương Học Lương vì trọng tội “bạo hành uy bức thượng quan”, lãnh án mười năm tù. Tại phiên toà lịch sử này. Trương Học Lương cho công bố mật điện của Tưởng Giới Thạch gửi cho ông ngày 16 tháng 9 năm 1931, hai ngày trước khi xảy ra sự biến “9.18”. Hình như Trương Học Lương dự đoán sẽ đến bước đường cùng này nên trong túi áo của ông luôn sẵn sàng những tang chứng ấy. Bức điện ghi rõ ràng chỉ thị của Tưởng “Dù quân Nhật ở Đông Bắc có khiêu khích như thế nào, quân ta cũng không được đề kháng chống trả, tránh mọi xung đột”. Với chỉ thị đó, Trương bị người đời chê trách là “tướng quân không đề kháng”, bị Trung Cộng liệt vào “quân bán nước” và 3 tỉnh Đông Bắc bị Nhật xâm chiếm. Trương Học Lương đọc bức điện Tưởng gửi và trả lời với quan tòa vì sao ông phải dấy binh ở Tây An. rồi khẳng định “về chủ trương, tôi hoàn toàn không sai”.
Nếu lịch sử dừng tại đây, Trương Học Lương lãnh án 10 năm tù, thì sau năm 1946, ông sẽ được trở về với gia đình, nhưng Tưởng Giới Thạch đã cao tay ấn, chuyển kịch bản sang một bước khác, bề ngoài trông có vẻ nhân đạo từ bi, song bên trong thì cực kỳ thâm hiểm, thỏa mãn lòng hận thù của mình.
Chiều hôm ấy, 31 tháng 12 năm 1936, Tưởng trình lên chính phủ lời cầu xin ân xá cho Trương, chính phủ chuẩn y và giao quân đội, Hội đồng quân sự quản thúc. Khi mà Trương Học Lương đã sa vào mạng lưới quản thúc của quân đội thì không ai còn biết được cuộc đời đày ải đã diễn ra như thế nào đối với ông, duy có điều Trương từng bị cầm tù hơn 50 năm đi qua Khê Khẩu - Phụng Hóa, Hoàng Sơn - An Huy, Bình Hương - Giang Tây, Bang Châu, Vĩnh Hưng, Nguyên Lăng - Hồ Nam, Tu Văn, Đồng Tử, Quý Dương - Quý Châu v.v...
Năm 1946, người ta bí mật đưa ông ra Đài Loan, vẫn cầm tù quản thúc cho tới năm 1986... Truyện "28 Ngày Đêm Quyết Định Vận Mệnh Trung Quốc " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Kịch bản của Tưởng Giới Thạch là xử án - ân xá - quản thúc, vừa rất thương gia, vừa rất cứng rắn, gạt bằng một trở ngại đáng gờm của mình trên con đường chính trị - tác giả sự biến Tây An, ông Trương Học Lương, người cùng Tưởng “Chính kiến chi tranh uyển nhược cừu địch”!
TRƯƠNG HỌC LƯƠNG VẪN BÍ MẬT “YÊN TRONG”
Tháng 12 bất hạnh đã qua, Tưởng Giới Thạch thoát hạn, bước vào tuổi 50. Tin tức ân xá cho Trương Học Lương đăng in trên mọi trang báo của Nam Kinh đã tạm xoa dịu tình hình. Ngày 2 tháng 1 năm 1937, Tưởng Giới Thạch và Tống Mỹ Linh đáp máy bay về Khê Khẩu nghỉ phép, dưỡng bệnh, ngày ngày hương khói cho mẹ và anh trai, nhưng kỳ thực đó là thời gian để Tưởng suy ngẫm tiếp tục nước cờ “yên trong” của mình và ông vẫn luôn luôn điều khiển từ xa đối với Nam Kinh.
Ngay hôm tết dương lịch năm 1937, Hà Ứng Khâm đã hạ lệnh quân trung ương phân thành 5 lộ chuẩn bị tiến vào Tây An, còn Dương Hổ Thành chỉ huy quân Tây Bắc thì lập ra 7 đạo phòng tuyến sẵn sàng nghênh tiếp. Cũng ngày đầu năm 1937 ấy, quân Đông Bắc và quân Tây Bắc đã tụ tập mít tinh tại sân vận động Tây An kháng nghị Tưởng Giới Thạch bắt giam Trương Học Lương, và hô vang khẩu hiệu “bước trên con đường máu đấu tranh giải phóng dân tộc”. Tình hình những ngày hậu Tây An sự biến vẫn căng thẳng, như kiếm đã rút khỏi bao, tên đã lên trên cung, mật điện “Lạc Mao” (Lạc Phủ - bí danh tổng phụ trách Trung Cộng lúc bấy giờ, là Trương Văn Thiên, và Mao Trạch Đông) đã đến tay Phan Hán Niên, nhân vật quan trọng của Trung Cộng công tác tại Thượng Hải và Nam Kinh, nhắc anh yêu cầu Tưởng Giới Thạch giữ đúng lời hứa chấm dứt nội chiến cùng nhau kháng Nhật, đồng thời chỉ thị không để Chu Ân Lai về Nam Kinh đàm phán với Tưởng Giới Thạch, vẫn chốt cứ Tây An, phòng tránh âm mưu “Trương Học Lương thứ hai” của Tưởng. Truyện "28 Ngày Đêm Quyết Định Vận Mệnh Trung Quốc " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Từ Khê Khẩu, Tưởng Giới Thạch hạ lệnh cho Cố Chúc Đồng: “Quân ta tạm dừng tiến vào Tây An, nhưng phải luôn luôn uy hiếp, tránh mọi sự lỏng lẻo”, đồng ý giải quyết hòa bình hai đạo quân Tây Bắc, còn với Hồng quân, ông vẫn ngấm ngầm quan niệm “phỉ đỏ” như xưa, không chịu ký tên cùng Mao Trạch Đông bất kỳ văn bản gì.
Ngày 2 tháng 2 năm 1937, Tưởng Giới Thạch đi Hàng Châu tiếp tục nghỉ dưỡng, nhưng vẫn không quên lèo lái tình hình với phương châm “yên trong”, kết quả thật khả quan cho Tưởng, quân Đông Bắc rút khỏi Đồng Quan phía đông Tây An hành binh về Giang Tô và An Huy biên chế lại tổ chức, đưa Dương Hổ Thành đi nước ngoài học tập bồi dưỡng, còn quân của Dương rút về Tam Nguyên, ngày 6 tháng 2 quân trung ương “hòa bình” thế chỗ ở Tây An, vấn đề còn lại chỉ là Hồng quân.
Vòng đàm phán Quốc - Cộng đầu tiên được giao cho Chu Ân Lai và Cố Chúc Đồng. Cố Chúc Đồng là quân nhân tin tưởng của Tưởng Giới Thạch, sau này trở thành “thượng tướng ngũ hổ”, tốt nghiệp trường sĩ quan lục quân Bảo Định, tham gia giảng dạy môn chiến thuật quân sự ở trường Hoàng Phố, và là phái hệ của Tưởng. Trước khi lên đường đi Tây An, Tưởng đã căn dặn Chúc Đồng “lấy chính trị làm chủ, quân sự là hỗ trợ”. Từ Lạc Dương. Cố Chúc Đồng chỉ huy 5 tập đoàn quân tiến vào Tây An một cách êm thuận và theo kịch bản của Tưởng giao, cùng Chu Ân Lai đàm phán nhằm hoà tan Hồng quân vào với Nam Kinh.
21.07.2014
Phần IV - Chương 2
MAO TRẠCH ĐÔNG TRANH THỦ PHÁT TRIỂN LỰC LƯỢNG
Dịch giả: Thái Nguyễn Bạch Liên
Nguồn: NXB Cà Mau
Nội dung thu gọn
Từ Diên An, Lạc - Mao điện báo cho Chu Ân Lai: “Về quân sự đồng ý đề xuất biên chế Hồng quân thành 12 sư đoàn, 4 quân đoàn do Lâm, Hạ, Lưu, Từ chỉ huy, tất cả tổ chức thành một lộ quân, chánh phó Tổng Tư lệnh là Chu, Bành, về vấn đề đảng yêu cầu không thay đổi kể cả sự lãnh đạo đối với Hồng quân”. Trong điện báo trên đây, các chữ gọi tắt chính là Lâm Bưu, Hạ Long, Lưu Bá Thừa, Từ Hướng Tiền, Chu Đức, Bành Đức Hoài - những danh tướng của Hồng quân. Cuộc hội đàm Chu - Cố ở Tân An những ngày đầu năm 1937 thực chất là sự thách giá, trả giá giữa Mao Trạch Đông và Tưởng Giới Thạch trước khi đi vào hợp tác kháng Nhật, lúc ấy Tưởng ở Hàng Châu, còn Mao ở Diên An, họ đều suy nghĩ cho các nước cờ của mình.
Ngoài Cố Chúc Đồng ra, phía Quốc dân đảng còn có Trương Xung, Hạ Trung Hàn, tương tự Trung Cộng cử thêm Diệp Kiếm Anh cùng sát cánh với Chu Ân Lai. Đồng Tiểu Bằng, người luôn bên cạnh Chu Ân Lai lúc bấy giờ đã hồi ức, như một con thoi Chu Ân Lai bay đi bay lại trên bầu trời Tây An - Diên An không biết bao nhiêu lần để liên lạc với Trung Cộng và triển khai ý đồ của Mao Trạch Đông trong đàm phán. Diên An có một sân bay nhỏ, nhưng thiếu thiết bị hoa tiêu, máy bay chiến đấu đưa Chu Ân Lai từ Tây An về Hồng đô căn cứ, quần thảo cả tiếng đồng hồ mà không sao đáp xuống được phi trường này nên đành phải quay trở lại nơi xuất phát, làm cho cả hai đầu vô cùng lo lắng. Ngày hôm sau do yêu cầu công tác, bất chấp hiểm nguy, Chu Ân Lai vẫn có mặt tại đại bản doanh Diên An cùng Mao bàn thảo những bước đi tiếp theo trên bàn cờ với Tưởng và Quốc dân đảng. Truyện "28 Ngày Đêm Quyết Định Vận Mệnh Trung Quốc " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Ngày 10 tháng 1 năm 1937, Trung ương Trung Cộng chính thức dời đô về Diên An, 3 hôm sau Mao Trạch Đông mới vào ở căn nhà hầm lịch sử của Hồng đô, điều kiện vật chất vô cùng khó khăn không thể nào sánh nổi với các biệt thự bên cạnh Tây Hồ Hàng Châu hay trên đỉnh Lư Sơn mà Tưởng Giới Thạch đang tận hưởng và chuẩn bị cho một cuộc hội nghị quan trọng của Quốc dân đảng. Mao Trạch Đông nắm bắt tình hình, đã nhanh chóng gửi cho Tưởng một bức điện nhân Tưởng chủ trì hội nghị này, triệu tập toàn bộ Ban chấp hành Trung ương để quyết định sách lược chính trị của thời kỳ sau sự biến Tây An, phía Mao và Trung Cộng đưa ra 5 yêu cầu và 4 đảm bảo nhằm đình chỉ nội chiến Quốc - Cộng, tập trung lực lượng Trung Hoa, chĩa mũi nhọn vào quân xâm lược. Phía Quốc dân đảng cũng vậy, Tưởng phải đối mặt với hai vấn đề, quân Nhật và Trung Cộng, phái cực hữu do Uông Tinh Vệ cầm đầu chủ trương “muốn kháng Nhật, trước tiên phải tiễu Cộng”, phái cánh tả mà Tống Khánh Linh chủ soái thì trước sau vẫn hô hào “liên Cộng khánh Nhật”. Còn Tưởng Giới Thạch? Ông chưa hoàn hồn sau vụ “Trương Học Lương đột biến bạo loạn”, đang ra sức phủ định ảnh hưởng của sự biến Tây An, nhưng tinh thần yêu nước chống Nhật mà sự biến Tây An và các tác giả của nó giương cao thì không tài nào huỷ diệt nổi, hội nghị trung ương kỳ 3 khóa 5 lần ấy của Quốc dân đảng buộc phải ra tuyên bố “Nếu vượt quá hạn chịu đựng, thì chỉ còn mỗi con đường là kháng chiến mà thôi”, đây là lần đầu tiên xuất hiện thuật ngữ “kháng chiến” trong hàng ngũ Quốc dân đảng. Truyện "28 Ngày Đêm Quyết Định Vận Mệnh Trung Quốc " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com) Truyện "28 Ngày Đêm Quyết Định Vận Mệnh Trung Quốc " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
THÁCH GIÁ, TRẢ GIÁ
Hội nghị Trung ương của Quốc dân đảng cũng xác định nguyên tắc Quốc - Cộng hợp tác, nhưng đưa ra một loạt yêu sách đòi thống nhất quân đội, thống nhất chính quyền, huỷ bỏ tuyên truyền đỏ và đấu tranh giai cấp v.v... cuộc đàm phán giữa hai bên vì vậy mà còn gay go khúc khuỷu. Thoạt tiên ở Tân An, Cố Chúc Đồng và Chu Ân Lai đi đến thỏa thuận 3 điểm: đồng ý cho Hồng quân lập Văn phòng đại diện đóng tại Tân An, Hồng quân sẽ biên chế thành 3 sư đoàn và từ tháng 3 năm 1937 Quốc dân đảng bắt đầu cung cấp lương thảo cho đội quân này của Trung cộng.
Đàm phán đã không dễ mà thực hiện kết quả đàm phán lại càng khó hơn. Ngày 16 tháng 2, Tưởng mật điện cho Cố Chúc Đồng quy định “khung giá”: Binh lực của Hồng quân không quá 1 vạn 5 ngàn quân!
Phía Mao liền “trả giá”: phải trên 5 vạn người. Cuộc thách giá, trả giá cứ vậy mà nhùng nhằng giữa Diên An và Hàng Châu, còn Tây An chỉ là nơi công bố ngã giá. Người ta lại tung tin Tưởng Giới Thạch bổ nhiệm Mao Trạch Đông làm chủ tịch tỉnh Cam Túc, Mao cười sảng khoái và nói: “ông ấy quá khôi hài”. Sau này tra cứu sử tư liệu mới hay Tưởng đã có ý đồ ngông cuồng như vậy, thậm chí còn muốn tìm cách đưa Mao xuất dương hòng gạt bớt mũi nhọn. Tưởng đâu biết trong đời làm chính trị, Mao không hề ra nước ngoài khi chưa nắm chức quyền.
Cuối tháng 3 năm 1937, Tưởng Giới Thạch mời Chu Ân Lai về Hàng Châu tiếp tục đàm phán, Chu ghé Thượng Hải và nhờ Tống Khánh Linh chuyển trước cho Tưởng 15 ý kiến của Trung Cộng. Tưởng gặp lại Chu, lòng rất phấn khởi, vì mới 3 tháng trước đây nhờ sự quả đoán, nhanh trí và lão luyện của Chu Ân Lai mà Tưởng Giới Thạch được cứu nguy khỏi “bạo loạn” Tây An, ấn tượng ấy chưa thể phai mờ được. Tưởng nói tốt và ra chiều tán dương Trung Cộng, ông tự kiểm điểm lại những mất mát, sai lầm đã xảy ra trong thời gian qua, rồi đề nghị phía Trung Cộng khởi thảo đề cương hợp tác giữa hai đảng. Ngày 2 tháng 4, Mao Trạch Đông, Trương Văn Thiên, Bác Cổ, Bành Đức Hoài, Lâm Bá Cừ v.v... tề tựu trên sân bay Diên An, nồng nhiệt đón Chu Ân Lai vừa từ đàm phán với Tưởng trở về và ngay sau đó Trung Cộng chấp nhận “Hồng quân cải danh, Khu Xô-viết cải chế”. Tại Đại hội Thanh niên cứu quốc lần thứ nhất ở Hồng đô lúc bấy giờ Mao còn diễn thuyết với chủ đề “thay mũ”. Chủ trương Quốc - Cộng hợp tác nhanh chóng lan truyền ở Diên An và các khu căn cứ, nhiều người nghĩ không ra, đấu đi đấu lại, cuối cùng chui đầu vào cái mũ của Quốc dân đảng, mới ngày nào còn hô “đả đảo Tưởng Giới Thạch”, “Tưởng Giới Thạch phải chết!” thì hôm nay bỗng dưng “ủng hộ Tưởng ủy viên trưởng” thậm chí “phục tùng Tưởng ủy viên trưởng”. Ngày 15 tháng 4 năm 1937, Trung ương Trung Cộng phát “Cáo toàn Đảng đồng chí thư” (Thông cáo với toàn thể đảng viên trong Đảng) dài tới cả vạn chữ, giải thích chủ trương “liên Tưởng kháng Nhật” và “Quốc - Cộng hợp tác” lần thứ hai, khẳng định Trung Cộng không đầu hàng, nước cờ của hai bên là như vậy, hoạ phát xít “tam quang” (phá sạch, đốt sạch, giết sạch) đang ập tới, không còn con đường chọn lựa nào khác.
21.07.2014
Phần IV - Chương 3
KHÁNG CHIẾN TÁM NĂM
Dịch giả: Thái Nguyễn Bạch Liên
Nguồn: NXB Cà Mau
Nội dung thu gọn
Mười giờ đêm ngày 7 tháng 7 năm 1937, quân Nhật gây hấn vụ Lư Câu Kiều, tiến công đại quy mô vào lãnh thổ Trung Quốc. Lúc này Tưởng Giới Thạch và Chu Ân Lai đang đàm phán về công việc hợp tác giữa hai đảng Quốc - Cộng ở Lư Sơn. Nhận được điện khẩn của Tần Đức Thuần - thị trưởng Bắc Bình (ngày nay là Bắc Kinh - ND), Tưởng Giới Thạch hạ lệnh cho Tống Triết Nguyên - quân đoàn trưởng quân đoàn 29 Quốc dân đảng: “Cố thủ không lùi, động viên toàn lực, chuẩn bị phản công”, thái độ của Tưởng khác hẳn 6 năm về trước khi xảy ra sự kiện “18 tháng 9” mà ông đã chỉ thị Trương Học Lương rằng, “quân ta không được chống cự”. Người đời sau nhận xét, quân Nhật càng lấn tới thì Tưởng Giới Thạch càng ngã về phía Trung Cộng, và đứng trước họa xâm lăng, cuộc hợp tác lần thứ hai của Quốc - Cộng càng nhanh đi đến hiện thực. Truyện "28 Ngày Đêm Quyết Định Vận Mệnh Trung Quốc " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Tại Diên An, Mao Trạch Đông kịp thời ra thông điệp biểu thị thái độ của Trung Cộng trước sự kiện quân Nhật tiến công ở Lư Câu Kiều, kêu gọi toàn dân đứng lên kháng chiến, cảnh báo: “Bình Tân (Bắc Bình và Thiên Tân - ND), nguy cấp! Hoa Bắc nguy cấp! Dân tộc Trung Hoa nguy cấp!”, Mao cũng điện khẩn lên Lư Sơn cho Tưởng... “Tướng sĩ Hồng quân nguyện dưới sự chỉ huy của uỷ viên trưởng, một phen sống mái với kẻ thù, xả thân vì nước” ... Sáng ngày 1 tháng 8 năm 1937, Mao Trạch Đông nhận được lời mời của Tưởng Giới Thạch do Trương Xung chuyển tới, theo đó Mao Trạch Đông, Chu Đức và Chu Ân Lai bay đi Nam Kinh dự hội nghị quốc phòng. Mao phân vân, bởi lẽ đàm phán Lư Sơn chưa đi đến kết quả, nay Tưởng lại bày trò hội nghị Quốc phòng Nam Kinh, rồi quyết định, nếu bàn về quân sự thì Chu Ân Lai, Chu Đức và Diệp Kiếm Anh tham dự, nếu bàn các vấn đề khác thì ngoài Chu Ân Lai, Diệp Kiếm Anh còn có Lâm Bá Cừ, Bác Cổ cùng đi, khi chưa cần thiết Mao sẽ không xuất tướng. Cũng ngày hôm nay mà sau này lịch sử ghi nhận hai chữ “bát nhất”. Phương diện quân số 1, 2, 3, 4 và Hồng quân Thiểm Bắc của Trung Cộng cải tổ thành Lộ quân thứ 8 Cách mạng Quốc dân gọi tắt là “Bát lộ quân” do Chu Đức làm Tổng Tư lệnh, Bành Đức Hoài làm phó và Diệp Kiếm Anh tham mưu trưởng. Tháng 10 năm 1937, quân du kích của Trung Cộng ở 8 tỉnh Giang Tây, Phúc Kiến, Quảng Đông, Hồ Nam, Hồ Bắc, Hà Nam, Triết Giang, An Huy theo lệnh Mao tập hợp thành Quân thứ tư quân Cách mạng Quốc dân gọi tắt là “Tân tứ quân” do Diệp Đình làm quân trưởng. Mao Trạch Đông đi đến Quốc - Cộng hợp tác lần thứ hai bằng những quân cờ: Bát lộ quân, Tân tứ quân và Khu đỏ do Lâm Bá Cừ làm thủ trưởng hành chính tối cao, vậy là ông đã hạ mũ “triệt để”, tất cả đều vì mục đích mặt trận dân tộc thống nhất kháng Nhật, còn mình trước sau vẫn là lãnh tụ của Trung Cộng, mặc cho Tưởng Giới Thạch muốn chức hàm gì cũng được. Để chuẩn bị cho những nước cờ sau này, thời kỳ ấy Mao Trạch Đông chủ trì hội nghị Bộ Chính trị Trung ương Trung Cộng tại Lạc Xuyên từ ngày 22 đến ngày 25 tháng 8 năm 1937 thông qua chủ trương “sơn tước mãn thiên phi” - nhân kháng chiến chống Nhật, nhân Quốc - Cộng hợp tác mà tung lực lượng đảng viên cộng sản về mọi miền đất nước thể như đàn chim sẻ từ núi cao bay khắp bốn phương trời, bay khắp Trung Quốc. Mao nói, ta đổi mũ rất nhanh, nhưng ta vẫn là Cộng sản và phải nhớ “Đảng chỉ huy họng súng”. Truyện "28 Ngày Đêm Quyết Định Vận Mệnh Trung Quốc " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com) Truyện "28 Ngày Đêm Quyết Định Vận Mệnh Trung Quốc " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Năm 1937 nhanh chóng qua đi, một sự kiện đáng ghi nhớ trong đời Mao đã khởi đầu từ năm này, ấy là Lam Bình - Giang Thanh hướng về đất thánh để sau đó trở thành đệ nhất phu nhân, nắm quyền bính một thời.
Tiếp đến là những ngày “kề vai sát cánh, chung một chiến hào”, quân Tưởng lo chính quy trực diện, quân Mao lo du kích địch hậu. Từ “Chủ nghĩa không đề kháng” mong muốn thỏa hiệp, đến chính sách sai lầm “dẹp ngoài, trước phải yên trong” với bài học sự biến Tây An, Tưởng Giới Thạch chuyển sang “kháng Nhật” trở thành lãnh tụ 8 năm kháng chiến ở Trung Quốc, một động lực quan trọng, một tác nhân tích cực của quá trình ấy chính là Trung Cộng, và nhân dân Trung Quốc đã góp phần mình vào chiến thắng của phe Đồng minh năm 1945 đánh bại quân phát xít. Tiếc thay, tiếp theo là nội chiến, hai bên xanh - đỏ lại vào trận, mãi 4 năm sau mới phân vạch kẻ ngoài đảo xa. người trong lục địa, vậv mà cuộc cờ thế kỷ vẫn chưa yên nguôi.
21.07.2014
Phần V - Chương 1
MÂY MÙ VẦN VŨ
Dịch giả: Thái Nguyễn Bạch Liên
Nguồn: NXB Cà Mau
Nội dung thu gọn
Quốc - Cộng hợp tác chưa được bao lâu thì xảy ra sự kiện Hoản Nam - Chính phủ trung ương Tưởng Giới Thạch lấy cớ quân du kích An Huy (gọi tắt là Hoản - ND) chống lệnh, đã tàn sát Tân tứ quân, tàn sát Cộng sản, bắt giam Diệp Đình quân trưởng và tuyên bố giải thể cánh quân này của Trung Cộng. Tháng 1 năm 1941, báo chí Trung Quốc đều đưa tin Hoản Nam, nhưng hầu như thiên về một phía chính phủ trung ương, chân tướng sự viện không rõ ràng, tờ “Tân Hoa nhật báo” của Trung Cộng xuất bản tại Trùng Khánh bị kiểm duyệt nên cũng không khá gì hơn. Hồi ấy báo này đăng bài thơ “Ai điếu người anh em Giang Nam vì nước lâm nạn” của Chu Ân Lai, ở Diên An Mao Trạch Đông bình rằng, vần điệu đau xót mà thi từ mung lung, thật ngậm ngùi. Song chính phủ Tưởng Giới Thạch không thể bưng bít được sự kiện Hoản Nam đối với phóng viên báo chí nước ngoài. Từ New York, London truyền đi những dòng tin chân thực kèm lời bình “bất hạnh”, “lo lắng”, đại sứ Mỹ, đại sứ Anh đã gặp Tưởng biểu thị thái độ, lập trường, rằng chúng tôi không mong muốn nội chiến ở Trung Quốc, rằng vấn đề Tân tứ quân không nên dẫn đến sự tàn sát lẫn nhau, tất cả chỉ làm suy yếu lực lượng kháng chiến, tất cả chỉ có lợi cho Nhật Bản. Đại sứ Liên Xô đương nhiên ủng hộ Trung Cộng, phát biểu gay gắt hơn, dù giải thích như thế nào, chúng tôi cũng không thể đồng ý với quý quốc về sự biến Hoản Nam! Đối với Trung Quốc, nội chiến có nghĩa là diệt vong. Mỹ, Anh, Nga đều tỏ thái độ phản đối, khiến cho Tưởng Giới Thạch từ niềm vui “tam kỷ lâm môn” chuyển sang điệu buồn “tam bất hoan nghênh”, đúng chỉ có Nhật Bản hý hửng, thừa cơ tấn công, không chỉ nhằm vào Tân tứ quân mà cả quân trung ương của Tưởng và Uông Tinh Vệ - phái thân Nhật, sau này trở thành Hán gian - đã phát biểu một câu “danh ngôn”: “Mấy năm lại đây Tưởng Giới Thạch chưa làm được điểu gì hay ho, nhưng lần này qua Hoản Nam, ông ta là con người tốt!”. Nội chiến đang âm ỉ trong lòng cuộc kháng Nhật, cánh tả của Quốc dân đảng mà đứng đầu là Tôn phu nhân Tống Khánh Linh lên án, phê phán Tưởng Giới Thạch một cách quyết liệt. Truyện "28 Ngày Đêm Quyết Định Vận Mệnh Trung Quốc " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Về phần mình, trong các “mệnh lệnh” và “văn bản” công khai của Trung Cộng, Mao Trạch Đông tuyên bố, Trung Cộng sẽ không bị lừa và nhẫn nhục như năm 1927 nữa, chúng ta đã là một đại chính đảng độc lập, Tưởng đẩy chúng ta đến bước đường cùng đối đầu này thì còn lời nào để mà nói nữa! Tình thế khiến quan hệ Quốc - Cộng đi đến điểm đóng băng, nhưng làm cho cả Mao lẫn Tưởng phải lạnh cái đầu, tìm cách kiềm chế, bởi vì họ còn có chung một kẻ thù - giặc ngoại xâm Nhật Bản, vô lẽ “trai cò đánh nhau” để cho “ngư ông được lợi” hay sao? Mao Trạch Đông chỉ phản kích trên dư luận nhằm tạo thanh thế. Ông nói giành thế công về chính trị, tạm thời vẫn giữ thế thủ trong quân sự. Còn Tưởng, ông lần mò tìm bậc để xuống thang, hạn chế vấn đề trong phạm vi Tân tứ quân, không cho lan ra Bát lộ quân và Trung Cộng. Bài học đau đớn nhất đối với Tưởng là ngay sau khi mệnh lệnh “17 tháng giêng” giải tán Tân tứ quân vừa truyền xuống thì 15 vạn quân của ông ở phía đông đường sắt Bình - Hán (Bắc Bình - Hán Khẩu ND) lập tức bị quân Nhật bao vây, cũng năm ấy Trung Cộng và Mao Trạch Đông cự tuyệt dự hội nghị tham chính thường niên. Truyện "28 Ngày Đêm Quyết Định Vận Mệnh Trung Quốc " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Sự kiện Hoản Nam và nước cờ “kéo nhau” của hai kỳ thủ đến dây đành gác lại bởi vì với lực lượng 190 sư đoàn, 3700 xe tăng, 4900 máy bay tiêm kích và 190 chiến hạm, quân Đức đã tấn công Liên Xô vào lúc rạng sáng 22 tháng 6 năm 1941, khi mọi người vẫn còn say ngủ. Nửa giờ sau đó, đại sứ Đức ở Mạc Tư Khoa mới trao cho phía Liên Xô tuyên chiến thư và thế là Thế chiến thứ hai bùng nổ.
Tưởng Giới Thạch xoay cờ sang một cục diện khác: tuyên chiến với Nhật, tuyên chiến với Đức. Kể cũng buồn cười, từ sau vụ Lư Câu Kiều ngày 7 tháng 7 năm 1937, đúng 4 năm nay quân Nhật đã thôn tính, đã “tam quang” - đốt sạch, phá sạch, giết sạch không biết bao nhiêu là quốc thổ của Trung Quổe mà Tưởng ủy viên trưởng vẫn im hơi lặng tiếng, mãi tới giờ này mới cất giọng “gáy”! Không, nhà quân sự mang dòng máu thương gia khôn lắm, có đầu óc lắm, với tuyên chiến thư một lúc cả Nhật lẫn Đức. Tưởng Giới Thạch đề nghị 4 nước Trung, Mỹ, Anh, Nga nên thành lập ở châu Á một đồng minh quân sự nào đó, Roosevelt tán thành. Churchill ủng hộ, nhưng Stalin chẳng nói chẳng rằng, bởi vì ông đang lo trận tuyến phía Tây, và mới đây, tháng 4 năm 1941, Liên Xô vừa ký “Điều ước trung lập” với Nhật Bản hãy còn chưa ráo mực. Tưởng là người đề xướng sáng kiến, nên phải xung phong thực hiện. Ngày 23 tháng 12 năm 1941, Hội nghị quân sự liên hợp Đông Á được cử hành tại Trùng Khánh với các đại biểu của Trung, Mỹ, Anh và do ông chủ trì, đây là lần dầu tiên Trung Quốc xuất hiện trên vũ đài quốc tế trong vai trò của một nước lớn. Đầu năm 1942, đại biểu 26 nưóc đã tụ họp tại Washington - Mỹ để cùng ký bản “Tuyên ngôn Liên hợp quốc gia” phản đối 3 nước trục phát xít Đức, Ý, Nhật và liên kết thành mặt trận thống nhất quốc tế chống phát xít, sau đó có thêm 19 nước nữa tham gia liên minh này. Trong bản tuyên bố, 4 nước Mỹ, Anh, Nga, Trung được ghi tên đầu tiên, chính phủ Tưởng Giới Thạch nghiễm nhiên nằm trong “bốn thượng đỉnh”, uy tín quốc tế của ông như diều gặp gió, nhưng có một người xem ông chẳng ra gì, người ấy đóng vai trò quan trọng trong thế chiến thứ hai, đó là Stalin!
Thời gian này, Mao Trạch Đông lại đi một nước cờ khác, ông điện báo cho Chu Ân Lai, “phương châm của chúng ta là tự củng cố và trầm tĩnh theo dõi”. Quan hệ Quốc - Cộng đang ở giai đoạn không xấu không tốt, không nóng không lạnh, tương đối ổn định, Tưởng lo vươn lên trở thành lãnh tụ thế giới còn Mao cố thủ Diên An phát động cuộc chỉnh phong lịch sử. Năm 1941, Mao viết bản báo cáo “Cải tạo sự học tập của chúng ta”, năm 1942 “Chỉnh đốn tác phong của đảng”, “Chống giáo điều trong đảng” và “Phát biểu tại cuộc toạ đàm văn nghệ Diên An”. Trong loạt báo nêu trên, Mao nhấn mạnh phải chỉnh đốn đảng phong, học phong và văn phong, ông gọi đó là “tam phong”. Từ ngàv thành lập năm 1927, cho đến hội nghị Tuân Nghĩa năm 1935, qua nhiều lần dao động giữa hai tả và hữu, cuối cùng vai trò lãnh tụ của Mao Trạch Đông mới được xác lập trong Trung Cộng, nhưng rồi bận rộn nam chinh bắc chiến, đã có lúc nào ngơi nghỉ, ngồi lại được đâu, nay nhân dịp quan hệ Quốc - Cộng tạm không căng thẳng, Mao chủ trương tự củng cố đảng mình bằng một loạt chỉnh đốn: 1/tư tưởng, 2/ tổ chức, 3/quân đội và 4/văn nghệ. Có thể nói Trung Cộng đã lột xác, thay da đổi thịt sau cuộc chỉnh đốn lần ấy, còn Mao, qua đó ông hệ thông hóa những lý luận của mình và hình thành cái gọi là “tư tưởng Mao Trạch Đông” như mọi người đã biết.
Đang khi bằng yên phẳng lặng như vậy, thì Tưởng Giỏi Thạch mời Mao Trạch Đông cùng nhau hội ngộ tại Tây An. Ba cuộc gặp gỡ Tưởng - Mao dự kiến ở Nam Kinh, Vũ Hán và Tây An đã không thành, lần này ngày 14 tháng 8 năm 1942 Tưởng nhờ Chu Ân Lai điện khẩn về Diên An cho Mao. Chu báo cáo, thái độ của Tưởng không có gì tỏ ra ác ý, nhưng mục đích cuộc gặp gỡ thì thật khó lường. Từ Trùng Khánh, ông đề xuất với Mao hai phương án, thứ nhất cáo bệnh cử Lâm Bưu đi thay; thứ hai Tưởng, Chu cùng về Tây An, sau đó Chu và Lâm Bưu hoặc Chu Đức đại diện Mao gặp Tưởng. Mao Trạch Đông sử dụng tổng hợp cả hai phương án, ông chọn Lâm Bưu. Ngày 14 tháng 9 năm 1942, thay mặt Mao Trạch Đông, Lâm Bưu rời Diên An đi ô tô đến Tây An gặp Tưởng, cùng đoàn có Ngũ Vân Phổ và Chu Lệ Vũ, những Tưởng đã trở về Trùng Khánh, Lâm xin chỉ thị Mao và tiếp tục rong ruổi trên dặm đường thuyết khách. Cuộc gặp gỡ, mà thực chất là đàm phán, giửa Tưởng và Chu, Lâm diễn ra ở Trùng Khánh.
Lâm Bưu là một võ tướng, tính cách hướng nội, ăn nói khiêm nhường, không quen ngoại giao, lúc ấy Lâm chỉ là sư trưởng, sao địch nổi với thống soái họ Tưởng, nguyên cớ gì mà Mao lại chọn Lâm, bởi hai lẽ: Lâm Bưu là học sinh khoá 4 Trường quân sự Hoàng Phố, có thể vì tình thầy trò mà đàm đạo với hiệu trưởng Tưởng, Mao là người có tài dụng nhân như dụng mộc một cách rất thiện nghệ. Lẽ thứ hai, Lâm Bưu sau trận Bình Hình Quan đã nổi tiếng là một “danh tướng kháng Nhật” mà đến cả các khu do Quốc dân đảng kiểm soát người ta cũng phải kính nể. Lâm Bưu chữa bệnh ở Liên Xô đúng 3 năm vừa mới về nước. Nhớ lại năm ấy, 1938 tháng 3 ngày 1 tại tỉnh Sơn Tây. Lâm Bưu dẫn binh sĩ đi trinh sát địch tình, để tiếp cận thật gần quân Nhật. Lâm Bưu và những người cùng đi mặc quân phục Nhật Bản, lưng đeo kiếm dài - những quần áo, vũ khí này Lâm lấy được ở trận Bình Hình Quan. Vì hoá trang quá giống nên Lâm Bưu đã bị trúng đạn của quân Quốc dân đảng do Diêm Tích Sơn cầm đầu, sau một hồi giao tranh, mới biết là nhầm nhưng vai phải, vai trái, phổi và cột sống của Lâm đều bị thương, chảy máu đầm đìa, đưa về Diên An chữa trị không lành nên phải gửi sang Liên Xô, tháng 1 năm 1942 mói hồi hương và lập tức nhận nhiệm vụ. Truyện "28 Ngày Đêm Quyết Định Vận Mệnh Trung Quốc " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Tưởng Giới Thạch chọn tư gia của Trương Thị Trung làm nơi đàm phán, và công việc đều phó thác cho Trương. Trương cũng là thầy của Lâm lúc học ở Hoàng Phố và quen biết với Chu trong hội đồng giáo viên. Gặp lại Tưởng, Lâm Bưu một điều hiệu trưởng, hai điều hiệu trưởng, chuyển lời hỏi thăm của Mao, vì lâm bệnh nên lần này phải từ chối hội ngộ. Tưởng Giới Thạch cám ơn, và tỏ ra quan tâm đến “bệnh tình” của Mao, cũng không quên nhờ Lâm “chuyển lời vấn an” về Diên An. Hàn huyên khách sáo đôi lời, Lâm Bưu đi thẳng vào chủ để đàm phán, rằng Trung Cộng tỏ thái độ ủng hộ Tưởng như lãnh tụ của dân tộc, song đề nghị Tưởng thực hiện “ba đình”, “ba thả” vả “hai biên” - đình chỉ tiến công quân sự, đình chỉ tiến công chính trị, đình chỉ o ép tờ Tân Hoa nhật báo, thả những người bị bắt trong vụ Tân tứ quân, cung cấp súng ống, đạn dược, lương thảo và biên chế quân đội của Trung Cộng thành hai tập đoàn quân. Tất nhiên là Tưởng Giới Thạch không chấp nhận đề nghị của Trung Cộng, nhưng nhiệm vụ Chu, Lâm là cứ giằng co như vậv, cũng phải hơn 8 tháng trời. Ngày 28 tháng 6 năm 1943, Chu Ân Lai, Lâm Bưu và Đặng Dĩnh Siêu cùng hơn trăm binh lính rời Trùng Khánh trở lại Hồng dô Diên An, thế là đã 3 mùa xuân nay Chu mới có dịp “về nhà”. Ngoài ra, Chu Ân Lai về Diên An còn có một nhiệm vụ quan trọng nữa, ấy là bàn thảo kế sách sau khi được tin Quốc tế Cộng sản tuyên bố giải tán. Có lẽ, người phấn khởi nhất khi “quả bom nguyên tử tân văn” này bùng nổ là Tưởng Giới Thạch, ông nghĩ rằng Trung Cộng sẽ diệt vong, và cho xuất bản cuốn “Vận mệnh của Trung Quốc” xoáy quanh luận điểm “không có Quốc dân đảng thì không có Trung Quốc”. Sách của Tưởng ấn hành hàng triệu bản, phát tận hang cùng ngõ hẻm, xem như kinh thánh tuyên truyền cho cái gọi là “Chủ nghĩa Tưởng Giới Thạch”. Một nhạc sĩ đã phổ nhạc câu “danh ngôn” của Tưởng lãnh tụ, để chọi lại Trùng Khánh, ở Diên An cũng có bài ca “không có Đảng Cộng sản thì không có Trung Quốc”, cả nhân dân, binh lính hát khắp khu đỏ, đến như Lý Nạp là con của Mao - Giang, ngày ngày liến thoắng, “không có... thì không có...”. Mao Trạch Đông chột dạ, sai rồi, sai rồi, Trung Quốc có trước và Đảng Cộng sản có sau, ông thông minh thêm vào một chữ “mới”, rằng “không có Đảng Cộng sản thì không có Trung Quốc mới”, nghe rất lô gích, không chê vào dâu được, bài ca ấy còn lưu mãi đến ngày nay, nhưng chắc không phải ai đều hiểu rõ nguồn gốc của nó.
Ngược lại với suy nghĩ của Tưởng, Mao không hề lo lắng trước sự giải thể mà Quốc tế Cộng sản vừa công bố, ông như được trút bỏ mọi “chì chiết” của một “bà mẹ chồng”. Ngày 20 tháng 3 năm 1943, Mao Trạch Đông chính thức được bầu làm Chủ tịch Bộ Chính trị Trung ương Trung Cộng, nắm giữa cương vị ấy cho tới ngày 9 tháng 9 năm 1976, lúc nhắm mắt xuôi tay. Một bên chủ nghĩa Tưởng, một bên tư tưởng Mao giằng co, tiến thoái trên bàn cờ Quốc thổ Trung Hoa. Tám năm kháng Nhật (1937 - 1945) và sau đó những năm nội chiến (1945 - 1949) nhân dân Trung Quốc chọn lựa một trong hai vận mệnh cho mình, hoặc Quốc dân đảng, hoặc Đảng Cộng sản. Thế chiến thứ hai chuyển sang giai đoạn phản công của quân đội Xô-viết, sự thất bại của phát xít đã rõ ràng, vấn đề chỉ là thời gian. Làm một chính trị gia, điều quan trọng nhất là lượng trước nước cờ sẽ phải đi trong tương lai; về khả năng này Tưởng và Mao không hẹn mà gặp. Mao Trạch Đông triệu tập “Thất Đại” (Đại hội đại biểu toàn quốc Trung Cộng lần thứ bảy), họp trong 50 ngày, từ 23 tháng tư đến 11 tháng sáu năm 1945 với quy mô chưa từng có, 547 đại biểu chính thức, 208 đại biểu dự khuvết. Trên Hồng đô Diên An cao nguyên hoàng thổ, đại hội 7 của Trung Cộng đề ra sự chọn lựa trong “hai loại vận mệnh của Trung Quốc” và vấn đề “chính phủ liên hợp”. Ở Trùng Khánh, Tưởng Giới Thạch chủ trì “Lục Toàn” (Đại hội đại biểu toàn Quốc Quốc dân đảng lần thứ sáu), họp chỉ hơn nửa tháng từ ngày 5 đến 21 tháng năm nàm 1945, số đại biểu chính thức 579 người, dự khuyết 161 người, bàn thảo cách “tiêu diệt Trung Cộng sau khi Nhật thua”.
Bên này gọi là “Đại”, bên kia xưng “Toàn”, nhưng thực chất đều là cuộc họp lớn của một chính đảng, bàn thảo chiến lược từng giai đoạn. Tra cứu lại tư liệu lịch sử, người ta thấy đêm trước của Thế chiến thứ hai kết thúc, hai ông Tưởng, Mao cùng đi một nước cờ tiêu diệt nhau, cho nên phải nhiều năm sau nữa tiếng súng mới tạm yên trên lãnh thổ Trung Hoa và tiếp đó lấy eo biển Đài Loan làm vạch ranh giới, người trong lục địa, kẻ ở đảo xa, song cuộc cờ vẫn chưa ngưng nghỉ. Cho phép chúng tôi tạm dừng phần biên dịch của mình ở thế cờ này, vì sau đó đàm phán Trùng Khánh giữa Quốc - Cộng có xảy ra đi nữa. Mao Trạch Đông và Tưởng Giới Thạch có bắt tay, chúc rượu đi nữa, tất cả chỉ là chiến dịch, chiến thuật mà thôi, còn đường lối, chiến lược thì hai ông đã bất biến từ lâu tại Thất Đại và Lục Toàn rồi. Bạn đọc sẽ đoán nhận ra ngay chung cuộc, hà tất phải tốn nhiều bút mực, xin chuyển sang một nhân vật khác trên chính trường Trung Quốc, ông Đặng Tiểu Bình.
22.07.2014
LÝ KIỆN - Chương 1. BỊN RỊN TÂY NAM
ĐẶNG TIỂU BÌNH BA LẦN VÀO RA TRUNG NAM HẢI
Dịch giả: Thái Nguyễn Bạch Liên
Nguồn: NXB Cà Mau
Nội dung thu gọn
Trùng Khánh một ngày đầu thu, sương mù dần tan, sừng sững những rặng núi, rừng cây, lầu các ở đôi bờ nơi hội lưu của Gia Lăng Giang với Trường Giang, cả Trùng Khánh, cả Tứ Xuyên và cả Tây Nam hôm nay vui buồn lẫn lộn khi tiễn người con của quê hương về kinh đô nhận lãnh một trọng trách cao cả và nặng nề hơn. Đoàn xe xuất phát từ cơ quan Cục Tây Nam đã tiến đến phi trường, một người trung niên dáng vóc thấp nhỏ, vai bành, bước ra khỏi xe, lần lượt bắt tay từng cán bộ Đảng, chính quyền, quân đội đi tiễn và nhanh nhẹn lên cầu thang máy bay vẫy tay chào tạm biệt. Đó là Đặng Tiểu Bình, lúc bấy giờ là Bí thư thứ nhất Cục Tây Nam Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Phó chủ tịch Quân uỷ Tây Nam, Chính uỷ Quân khu Tây Nam, thành viên của Chính phủ nhân dân trung ương, Quân uỷ trung ương và Ban chấp hành Hội hữu nghị Trung - Xô. Truyện "28 Ngày Đêm Quyết Định Vận Mệnh Trung Quốc " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Máy bay vút khỏi phi trường, lao vào không trung. Đặng Tiểu Bình nép mình bên ô cửa, lơ đãng nhìn mây trắng bồng bềnh và chìm vào suy tưởng giữa vùng trời Tây Nam cao lộng.
Ôi, Tây Nam, sơn hà nơi biên ải, là Tứ Xuyên - mảnh đất “Thiên phủ chi quốc” thuở xưa, từng là lãnh thổ của hai tiểu quốc Thục Ba, nơi địa linh nhân kiệt với Lý Bạch, Đỗ Phủ, Lưu Bị, Khổng Minh; là Tây Khang núi cao vực thẳm mà ngày nay một phần nhập về Tứ Xuyên còn phần kia nhập với Tây Tạng - quê hương của đồng bào Tạng; là Vân Nam, là Quý Châu, nơi cư trú của nhiều dân tộc anh em. Người ta vẫn chưa quên, khi đại pháo mừng ngày thành lập nước cộng hoà nhân dân ầm vang trên bầu trời quảng trường Thiên An Môn, thì chiến trường Tây Bắc, Hoa Nam đang tan khói súng và cả Tây Nam vẫn là nơi cố thủ của toàn quân Quốc dân đảng. Sau đó ngày 1 tháng Chạp 1949, đại quân từ nhiều cánh do Lưu Bá Thừa, Đặng Tiểu Bình, Hạ Long chỉ huy tiến vào giải phóng Tây Nam, giải phóng Trùng Khánh... và cuối cùng đến mùa xuân 1951, mới là Tây Tạng. Hồi tưởng lại những người chỉ huy quân, chính, đảng ở Tây Nam, Đặng Tiểu Bình tóm tắt: “90 vạn, 60 triệu và 600 trăm ngàn”, đó là nhiệm vụ trả lại cuộc sống làm ăn lương thiện cho 90 vạn quân lính của Tưởng Giới Thạch không thể cùng quan thầy chạy ra Đài Loan, là 90 vạn đồng bào anh em, xưa hai chiến hào, nay cùng một chiến trận đánh thắng “nhất cùng nhì bạch” (một nghèo hai trắng). Đó là nhiệm vụ ổn định cuộc sống cho 60 triệu người dân Tây Nam, là biến đội quân chiến đấu 600 ngàn lính thành đội quân công tác và vận động quần chúng. Những ngày Tây Nam bận rộn với bao nhiêu công việc của một nhà nước cộng hoà non trẻ ở rất xa trung ương. Thật số phận khéo an bài, 29 năm trước đây, từ bến cảng Trùng Khánh, chàng trai Đặng Hi Hiền mới 16 tuổi, trẻ nhất, nhỏ nhất trong toán thanh niên Tứ Xuyên xuống tàu xuôi Trường Giang, ra cửa Thượng Hải, vượt trùng dương, sang tận thành phố lớn thứ hai của nước Pháp là Marseille kiếm việc làm để có tiền ăn học, thì hôm nay là nhà cách mạng Đặng Tiểu Bình 45 tuổi trở về Trùng Khánh, trở về quê hương với trọng trách, không chỉ giải phóng mà còn xây dựng...
Đặng Tiểu Bình sinh ngày 22 tháng tám năm 1904, nhằm ngày 2 tháng bảy năm Giáp Thìn, trong một gia đình thân hào phú hộ thôn Bài Phường, xã Hiệp Hưng, huyện Quảng An, tỉnh Tứ Xuyên. Lúc nhỏ được đặt tên là Tiên Thánh, sau đổi lại Hi Hiền, là con thứ nhưng là trai trưởng của ông Đặng Thiệu Xương, tự Văn Minh, và bà Đàm Thị. Văn Minh có bốn đời vợ thuộc bốn họ Trương, Đàm, Tiêu, Hạ. Bà nhất thì không có con, bà hai là mẹ đẻ của Đặng Tiểu Bình, sinh được một gái đầu và ba trai (Đặng Tiên Liệt, Đặng Tiểu Bình, Đặng Khẩn, Đặng Thục Bình) bà ba sinh được một trai, bà tư sinh được hai trai, ba gái. Mẹ đẻ của ông mất sớm, nên sau này khi trở về Trùng Khánh, Đặng Tiểu Bình đã mời kế mẫu là bà tư Hạ Bá Căn từ quê lên ở chung cùng gia đình, họ sống nền nếp với tôn ti trật tự - bà nội, cha mẹ và con cái.
Năm lên 5, Văn Minh đã mời thầy về nhà dạy cho Hi Hiền, 6 tuổi cậu bé vào tiểu học sơ cấp xã Hiệp Hưng, 11 tuổi lên tiểu học cao cấp huyện Quảng An, 14 tuổi thi đậu vào trung học huyện Quảng An. Việc học hành của cậu bé Hi Hiền nói chung là thuận buồm xuôi gió, nhưng để đến được với nền văn minh châu Âu, cha cậu đã xin cho theo học tại Trường dự bị cần công kiệm học Trùng Khánh chuẩn bị xuất dương sang Pháp. Ngày 7 tháng chín năm 1920, sau khi được Tổng lãnh sự Pháp tại Trùng Khánh trực tiếp sát hạch, Hi Hiền cùng 79 bạn khác xuống tàu đi Marseille. Năm ấy, ông tròn 16 tuổi. Năm 1926, Đặng Tiểu Bình rời Paris, xuyên Đông Âu về Nga học trường đại học Phương Đông Tôn Trung Sơn, đó là tất cả học trình tại giảng đường của ông, còn lại sau này đều là trường đời khúc khuỷu, đa dạng, phong phú đã đào luyện nên con ngươi ấy. Truyện "28 Ngày Đêm Quyết Định Vận Mệnh Trung Quốc " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com) Truyện "28 Ngày Đêm Quyết Định Vận Mệnh Trung Quốc " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Từ Nga, vượt qua thảo nguyên Mông Cổ, Đặng Tiểu Bình về nước vào đúng lúc chiến tranh Bắc phạt. Với tư cách là uỷ viên chính trị, ông đứng trong quân đoàn Phùng Ngọc Tường của Quốc dân đảng ủng hộ Tưởng Giới Thạch tiến hành Bắc phạt. Sau khi thắng lợi, Tưởng Giới Thạch phản bội cách mạng, gây nên vụ thảm sát “4.12” ở Thượng Hải, giết hại nhiều chiến sĩ cộng sản từng hợp tác với Quốc dân đảng. Đặng Tiểu Bình cũng bị Phùng Ngọc Tường cho thôi việc. Từ Tây An, ông về Hán Khẩu và tiếp tục bôn ba vì sự nghiệp của đảng. Năm 1938, lúc Đặng Thiệu Xương bị thổ phỉ chặt đầu, Đặng Tiểu Bình đang chỉ huy kháng Nhật ở Thái Hành Sơn, mọi công việc hậu sự cho cha, ông phải cậy nhờ kế mẫu - bà Hạ Bá Căn, và em trai Đặng Thục Bình lo liệu. Rong ruổi tháng ngày nơi trận mạc, thoắt đà hai mươi năm, nay cầm quân trở về nơi chôn rau cắt rốn. Lúc này Đặng Tiểu Bình đã vào tuổi 45, có vợ là Trác Lâm và 3 con là Đặng Lâm (trưởng nữ), Đặng Phác Phương (con thứ nhưng trưởng nam), Đặng Nam (thứ nữ). Những ngày ở Trùng Khánh, họ có thêm con gái là Đặng Dung, con trai là Đặng Chất Phương.
Nhớ lại những năm chiến đấu gian khổ để giành chính quyền về tay nhân dân, lập nên chế độ cộng hoà ở Trung Quốc, Đặng Tiểu Bình nói: “Trong 23 năm, thì chúng ta hầu như đã phải trải qua 21 năm khó khăn. Vậy có cửa thắng lợi nào không? Theo tôi, có đến hai. Ấy là lúc Nhật Bản đầu hàng, nhiều người cho rằng thế là hạnh phúc rồi, không còn kẻ thù nữa, nhưng Đảng đã phản đối luận điểm đó và chúng ta bước qua cửa thắng lợi thứ nhất. Và giờ đây chính là cửa thắng lợi thứ hai - Đảng giành được chính quyền trên phạm vi toàn quốc”.
Đang khi công việc củng cố chính quyền ở Tây Nam tiến triển thuận lợi, Đặng Tiểu Bình và các chiến hữu của ông tuy vận quân phục nhưng chỉ huy toàn diện mọi lĩnh vực trên một vùng lãnh thổ quan trọng của Trung Quốc, và cuộc sống gia đình ông vào nhịp hạnh phúc yên vui thì có lệnh điều động “lai triều”, lại một lần nữa ra đi từ Trùng Khánh, từ Tứ Xuyên - quê hương ông.
Là trọng trách, nhưng công việc gì. “Thôi đợi lên Bắc Kinh sẽ rõ”, Đặng Tiểu Bình thầm nghĩ và thiếp đi trong, giấc mộng hoài hương.
22.07.2014
Phần V - Chương 2
VÀO TRUNG NAM HẢI
Dịch giả: Thái Nguyễn Bạch Liên
Nguồn: NXB Cà Mau
Nội dung thu gọn
Chiếc máy bay IL-14 đưa người của “Thiên phủ chi quốc” từ miền Tây Nam về kinh đã hạ cánh an toàn trên phi trường Tây Giao. Đó là một ngày đầu thu năm 1952, lá dương liễu vẫn xanh và đung đưa dọc theo những con lộ dẫn về Cảnh Sơn, Cố Cung. Tổ chức bố trí Đặng Tiểu Bình và gia đình ở tại Tường An trên Cảnh Sơn đông lộ, vốn là lâm viên của hoàng gia vương triều thuở xưa, một vùng đất cao và bằng của kinh thành. Từ máy bay nhìn xuống, Cảnh Sơn tựa như phần bụng của Phật Di Lặc. Sau đó không lâu, gia đình ông được chuyển về khu gia cư trong Trung Nam Hải, nhà số 3 phía tây Hoài Nhơn Đường, quần tụ thành một “làng” lãnh đạo và những người phục vụ. Trung Nam Hải nằm mạn tây của Cố Cung gồm Trung Hải và Nam Hải, hợp với Bắc Hải thành Tam Hải rộng trên 1500 mẫu với 700 mẫu mặt nước, khai tạo từ thời Kim Nguyên và Minh Sơn, kiến trúc cổ xưa mà tráng lệ, cảnh quan thiên nhiên đẹp đẽ, là nơi thưởng ngoạn của du khách. Khi kiến quốc năm 1949, nhà nước dành riêng Bắc Hải là công viên nổi tiếng của Bắc Kinh cho du lịch, còn quy định Trung Nam Hải là địa sở của Trung ương đảng và chính phủ, vào được Trung Nam Hải là ngụ ý vào được tập thể những người lãnh đạo cao nhất của Đảng và nhà nước trung ương.
Quả nhiên, ngày 7 tháng tám năm 1952, tại hội nghị của Chính vụ viện (từ đây xin dịch là Chính phủ - ND) Trung Quốc, Đặng Tiểu Bình được bầu làm Phó Tổng lý (từ đây xin dịch là Phó thủ tướng - ND) kiêm Phó chủ nhiệm Uỷ ban tài chính - kinh tế. Cấp trên của ông là Thủ tướng Chu Ân Lai, từng là chiến hữu ở Paris và Thượng Hải trong những năm hoạt động cách mạng ở nước ngoài và trong vòng bí mật, nay lại có cơ hội hợp tác với nhau. Được điều về kinh đô làm việc bên cạnh nhà ngoại giao lỗi lạc, chẳng mấy chốc, Đặng Tiểu Bình trở thành người phát ngôn của Chính phủ Trung Quốc và nhanh chóng bước lên chính trường Quốc tế.
Đầu những năm 50, cuộc sống yên ắng, gia đình vợ chồng con cái và người phục vụ đều sống trong dinh phủ. Cũng những năm đó, bạn bè chiến hữu từng khét tiếng khắp bốn phương quần tụ về kinh, ngoài công cụ nơi sở đường, họ thường gặp nhau vào ngày cuối tuần, lễ tết, chung vui cho bõ lúc cơ hàn nơi trận mạc.
Cuối năm 1952, Cao Cương từ Hoa Bắc, rồi đầu năm 1953, Nhiêu Thấu Thạch từ Hoa Đông cũng được điều về Bắc Kinh như Đặng Tiểu Bình.
Cao Cương nổi danh là “quân phiệt Đông Bắc”, sau khi thành lập nước cộng hoà, ông từng đảm nhiệm các chức vụ trọng yếu trong chính phủ. Quyền lực của Cao Cương không ở Bắc Kinh mà ở Thẩm Dương - trung tâm công nghiệp của vùng Đông Bắc. Về cấp bậc, ông giống như Đặng Tiểu Bình, cũng là Bí thư thứ nhất của Cục Trung ương; Đặng ở Tây Nam, Cao ở Đông Bắc, nhưng vị trí thì cao hơn vì Đông Bắc trội lên bởi đó là vùng công nghiệp, là hậu phương trực tiếp cho chiến trường Triều Tiên và là cầu nối sang Liên Xô. Ngày 1 tháng mười năm 1952, tại lễ Quốc khánh ở Thẩm Dương, đội ngũ diễu hành đã hô vang “Cao Cương muôn năm” mà không hề hô “Mao Chủ tịch muôn năm”. Năm ấy, Trung ương điều Cao về Bắc Kinh và giao cho đảm nhiệm chức vụ Phó chủ tịch nước kiêm Chủ nhiệm Uỷ ban kế hoạch.
Lúc này, Trung ương đang tích cực chuẩn bị cho Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc lần thứ nhất và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 8 của Đảng. Cao, Nhiêu định tiếm quyền. Tại Hội nghị tài chính kinh tế toàn quốc tổ chức vào mùa hè năm 1953, Cao Cương và phe nhóm của ông đã phát biểu vô nguyên tắc, tạo ra sự tranh cãi trong Đảng. Ngoài hội nghị, họ công kích Lưu Thiếu Kỳ và Chu Ân Lai, đề cao Cao Cương. Mùa thu năm đó, tại Hội nghị công tác tổ chức toàn quốc, Cao và Nhiêu đã phối hợp hành động chống lại Lưu Thiếu Kỳ, rồi Cao đi miền Nam kích động gây bất mãn trong hàng ngũ cán bộ cấp tỉnh. Truyện "28 Ngày Đêm Quyết Định Vận Mệnh Trung Quốc " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Cao Cương đưa ra “Quân đảng luận” chia Trung Cộng thành hai bộ phận: “Đảng của quân đội và khu căn cứ” và “Đảng của khu trắng”, ông quả quyết “Đảng là do quân đội sáng lập nên” và tự xưng mình là đại biểu cho bộ phận “Đảng của quân đội và khu căn cứ”. Cao Cương cho rằng, hiện nay cơ quan Trung ương Đảng và Nhà nước đều nằm trong tay “Đảng của khu trắng”, cần phải “cải tổ”. Mùa đông năm 1953, theo thường lệ, Mao Trạch Đông đi nghỉ, uỷ quyền cho Lưu Thiếu Kỳ chủ trì công việc của Trung ương, Cao lại càng lồng lộn đòi phải giao cho ông ta chức vụ Tổng bí thư hoặc Phó Chủ tịch Đảng, và còn đòi thay cả Thủ tướng.
Đặng Tiểu Bình vừa là Phó thủ tướng, vừa kiêm chức vụ lãnh đạo Cục Tây Nam, thêm vào đó là quyền uy không ai tranh giành nổi ở Phương diện quân thứ 2, và đặc biệt là sự tín nhiệm và trọng thị của Mao Trạch Đông, nên Cao Cương định lôi kéo ông về ê-kíp nhưng đã bị cự tuyệt.
Năm 1983, trong một bài phát biểu, Đặng Tiểu Bình cho biết: “Sự việc này, tôi đã rõ. Cuối năm 1953, sau khi đồng chí Mao Trạch Đông đề xuất Trung ương phân một tuyến, hai tuyến, Cao Cương hoạt động rất tích cực. Đầu tiên ông được Lâm Bưu ủng hộ nên mới dám phóng tay cao như vậy. Lúc bấy giờ Đông Bắc là của ông ta, Trung Nam của Lâm Bưu, Hoa Đông của Nhiêu Thấu Thạch. Đối với Tây Nam, ông cũng đã lôi kéo và chính thức đàm phán với tôi, nói là Lưu Thiếu Kỳ không thành thực, vêu cầu tôi cùng ông đánh đổ Lưu Thiếu Kỳ. Tôi đã thể hiện rõ thái độ của mình, chỉ rõ vị trí trong đảng của Lưu Thiếu Kỳ là sự hình thành của lịch sử, nhìn chung đồng chí Lưu Thiếu Kỳ là tốt, thay đổi sự hình thành của lịch sử là không chính đáng”.
Trần Vân và Đặng Tiểu Bình cự tuvệt sự lôi kéo của Cao Cương và lập tức phản ánh với Mao Trạch Đông về âm mưu lật đổ Lưu Thiếu Kỳ.
Nghe xong Mao Trạch Đông hỏi: “Mưa nguồn chưa tới nhà gió đã ập về, chở gió từ phương nào vậy?”
Đặng Tiểu Bình suy nghĩ hồi lâu rồi trả lời rất nghiêm túc: “Tại kì vị mưu kì chính - người trong chức vị mà lo công việc của mình, ấy là điều nên làm. Bất tại kì vị nhi dục mưu kì chính - ngược lại, kẻ ngoài chức vị mà cứ muốn xía vào công việc của người khác, đó chỉ tổ tác oai tác quái”.
Mao Trạch Đông lắng nghe, ngẫm nghĩ rồi gật đầu lia lịa. Thế là Đặng Tiểu Bình đã biểu thị thái độ ủng hộ Lưu Thiếu Kỳ và Chu Ân Lai, mặt khác cũng cảnh tỉnh Mao Trạch Đông: nếu trong Đảng có nguy cơ “bất tại kì vị nhi dục mưu kì chính” thì không khỏi mất ổn định.
Ngày 3 tháng chạp năm 1953, trong Hội nghị Bộ chính trị, Mao Trạch Đông đã nói: “Nay Bắc Kinh có hai bộ Tư lệnh, một do tôi làm tổng, đó là thổi gió dương đốt lửa dương, và một do người khác làm tổng, đó là thổi gió âm, đốt lửa âm, là một dòng nước ngầm”, đã gián tiếp cảnh cáo nghiêm khắc các hoạt động âm mưu của Cao, Nhiêu. Truyện "28 Ngày Đêm Quyết Định Vận Mệnh Trung Quốc " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Tháng hai năm 1954, Hội nghị toàn thể Trung ương Đảng lần thứ 4 khoá 7 tiến hành phê phán Cao, Nhiêu. Mao Trạch Đông không tham dự hội nghị, mà giao cho Lưu Thiếu Kỳ chủ trì, bí thư thứ nhất các tỉnh đều có mặt. Hội nghị nhất trí thông qua “Quyết định về tăng cường đoàn kết trong Đảng”, sau đó Ban bí thư lại họp, tiếp tục vạch trần âm mưu của Cao, Nhiêu. Cuối cùng Cao, Nhiêu đã tự sát, tháng tư năm ấy, Đặng Tiểu Bình tiếp quản chức vụ Trưởng ban tổ chức Trung ương thay Nhiêu Thấu Thạch mà không một ai phản đối. Tháng ba năm sau - 1955, tại Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng, Đặng Tiểu Bình đã trình bày báo cáo “Liên minh chống Đảng Cao, Nhiêu”, hội nghị thông qua quyết định khai trừ Cao Cương và Nhiêu Thấu Thạch ra khỏi Đảng. Cũng từ đó, Đảng Cộng sản Trung Quốc bắt đầu lập nên uỷ ban kiểm tra các cấp, ở cấp trung ương lúc bây giờ do Đổng Tất Vũ làm chủ nhiệm.
Năm ấy, tại Hội nghị toàn thể Trung ương Đảng lần 5, khoá 7, Đặng Tiểu Bình và Lâm Bưu cùng được bầu là Ủy viên Bộ Chính trị.
Như vậy là Đặng Tiểu Bình và gia đình lên Bắc Kinh đã được 3 năm. Ba năm trên chính trường, “trí dũng song toàn”, ông đã vào Trung Nam Hải, và bước lên nấc thang uỷ viên Bộ Chính trị. Tháng hai năm 1956, là thành viên trong đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Trung Quốc đi dự Đại hội lần thứ 20 của Đảng Cộng sản Liên Xô, đến tháng chín năm đó, tại Đại hội lần thứ 8 của Đảng Cộng sản Trung Quốc, ông đã trình bày báo cáo “Sửa đổi điều lệ Đảng” và lại leo lên một nấc thang nữa - Tổng bí thư, cùng với Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai, Chu Đức, Trần Vân hình thành uỷ ban thường vụ Bộ chính trị.
Đến đây, màn một đã hạ, người đời sau ngoài nhìn lịch sử mà nhận xét rằng: tận hưởng Tây Nam, Mao Trạch Đông hân hoan chọn tướng; trọng trách Bắc phương, Đặng Tiểu Bình vào Trung Nam Hải. Vị tướng này sẽ hành xử ra sao trên chính trường “tả”, “hữu”? xin nán đợi sang màn sau sẽ rõ.
22.07.2014
Phần V - Chương 3
LỜI TỰ TRÁCH MUỘN MÀNG
Dịch giả: Thái Nguyễn Bạch Liên
Nguồn: NXB Cà Mau
Nội dung thu gọn
Đại hội lần thứ 20 của Đảng Cộng sản Liên Xô kết thúc, Chu Đức - trưởng đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Trung Quốc tiếp tục đi thăm một số thành phố phía nam, Đàm Chấn Lâm ở lại Mạc Tư Khoa chữa bệnh, còn Đặng Tiểu Bình và Sư Triết lập tức bay về Bắc Kinh. Trên máy bay, nhiều lần Sư Triết muốn hỏi Đặng Tiểu Bình ý kiến nhận xét về Đại hội, nhưng ông không hề thổ lộ một lời nào. Khi nhận được bản tốc kí báo cáo của Khrusov đọc suốt đêm 24 rạng 25 tháng hai năm 1956 “Về sùng bái cá nhân và hậu quả của nó”, mà 55 đoàn đại biểu các đảng anh em đều không được mời dự phiên họp bí mật đó, các thành viên đoàn đại biểu Trung Quốc có nhiều ý kiến khác nhau, nhưng nhanh chóng thống nhất là phải báo cáo về nước. Hội nghị mở rộng của Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc họp thảo luận và thông qua bài đăng trên Nhân Dân nhật báo ngày 5 tháng tư năm 1956 “Về kinh nghiệm lịch sử của chuyên chính vô sản”, mở đầu một đường lối tả khuynh do Mao Trạch Đông khởi xướng kéo dài suốt 20 năm. Từ bài học của Liên Xô, những người lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc như Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai, Đặng Tiểu Bình đã nhận thức được sự cần thiết phải phòng ngừa cách thống trị độc tài kiểu Stalin và phản đối việc sùng bái cá nhân. Còn Mao Trạch Đông bắt đầu chú ý “chống xét lại”, “chống giai cấp tư sản” ở Trung Quốc, và sau đây là bản dạo đầu.
Tháng 5 năm 1956, mùa xuân vội vàng ra đi, mùa hè lẹ làng ập tới, Bắc Kinh nóng vô cùng, nóng vì thời tiết, nóng vì chính trị với chủ trương của Đảng “bách hoa tề phong, bách gia tranh minh” (trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng). Ngày 26 tháng 5, Lục Định Nhất thay mặt Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc nói chuyện trước giới trí thức thủ đô là Đảng chủ trương “trăm hoa đua nở” đối với công tác văn nghệ và “trăm nhà đua tiếng” đối với công tác khoa học, rằng chủ trương đó đã được Mao Trạch Đông tuyên bố tại hội nghị tối cao của Quốc vụ viện.
Tháng ba năm sau, tại hội nghị công tác tuyên truyền toàn quốc với sự tham dự của 800 cán bộ tư tưởng của đảng. Mao Trạch Đông đã trình bày sự đánh giá cao của trung ương đối với thành phần trí thức. Theo ông, tuyệt đại đa số tán thành chế độ xã hội chủ nghĩa, một thiểu số tuy không hoan nghênh lắm nhưng vẫn yêu nước, còn lại rất ít là thù địch, vì vậy cải tạo trí thức là cần thiết và trí thức phải kết hợp vói công, nông. Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng là phương châm lâu dài của Đảng, phải mạnh tay “phóng” cho mọi người dám phát biểu, dám phê bình, dám tranh luận. Tiếp đến, ngày 27 tháng tư năm 1957, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc chính thức: ban bố “chỉ thị chỉnh phong”. Thế là trong chỉnh, ngoài phê, bao nhiêu cuộc toạ đàm, bao nhiêu buổi sinh hoạt tổ nhóm để nghe ý kiến của quần chúng được tổ chức, đâu đâu cũng thấy “tề phóng” đâu đâu cũng nghe “tranh minh”. Ngày 19 tháng 5 năm 1957, những tờ báo chữ to bắt đầu dán trong các trường đại học nặc danh phê bình cán bộ lãnh đạo đảng, chính quyền một cách táo bạo hơn. Trúng kế rồi, nhân đại phóng, đại minh, đại tự báo, đại tranh luận mà “cỏ dại”, mà “tiếng lạ” đã lộ hình, đã rõ âm, bị tóm gọn trong một rọ - phần tử hữu khuynh chống Đảng, chống chủ nghĩa xã hội. Truyện "28 Ngày Đêm Quyết Định Vận Mệnh Trung Quốc " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com) Truyện "28 Ngày Đêm Quyết Định Vận Mệnh Trung Quốc " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Tháng sáu, cuộc phản kích hữu khuynh bắt đầu. Tháng bảy, tại Thanh Đảo, trước hội nghị bí thư các tỉnh thành, Mao Trạch Đông chỉ rõ quan hệ giữa chỉnh phong và chống hữu, ông mới tiết lộ kế hoạch bốn giai đoạn: giai đoạn đại minh đại phóng, giai đoạn phản kích, giai đoạn sửa đổi điều chỉnh, giai đoạn mỗi người tự nghiên cứu văn kiện, phê bình phản tỉnh và nâng cao. Ngày 29 tháng 6, bộ chỉ huy chống phái hữu quy định phải điểm danh, Bắc Kinh 400 người, cả nước 4000 người. Mười ngày sau, “chỉ tiêu” đó nâng lên 800, 8000. Đến tháng chín, báo cáo tại Hội nghị Trung ương lần thứ 3 khoá 8, con số phần tử hữu khuynh là 6 vạn và cuối chiến dịch, vào mùa hè năm 1958 lên tới 55 vạn. Truyện "28 Ngày Đêm Quyết Định Vận Mệnh Trung Quốc " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Cuộc chiến đấu chống hữu khuynh mở rộng đến các huyện, khu, nhà máy, hầm mỏ.
Nội bộ nhân dân bị phân chia thành ba phái hữu khuynh, trung lập và tả khuynh. Trong phần tử hữu khuynh lại vạch rõ loại cực hữu, xếp họ về phía bên kia giới tuyến - thù địch chính trị với nhân dân, nâng thành mâu thuẫn đối kháng địch ta. Từ số lượng, tính chất cuộc vận động chống hữu khuynh đã toả lan, cộng thêm phương pháp đấu tranh lại là “tứ đại” (đại minh, đại phóng, đại biện luận, đại tự báo) nên mức độ và kết quả càng nghiêm trọng. Nhiều đồng chí trung trinh, nhiều bạn bè hợp tác đã lâu dài với Đảng, nhiều trí thức tài năng, thanh niên nhiệt huyết v.v... bỗng nhiên trở thành kẻ thù làm cho nhà nước tổn thất không biết là nhường nào. Hội nghị Trung ương lần thứ 3 khoá 8 đã đi đến một kết luận khác hẳn với Hội nghị lần thứ nhất và cho rằng mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Trung Quốc là mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản, giữa đường lối xã hội chủ nghĩa và đường lối tư bản chủ nghĩa, quy định hai giai cấp bóc lột và hai giai cấp lao động: địa chủ mại bản, phần tử hữu khuynh bị đánh đổ cùng bè lũ phản động và tư sản dân tộc đang tiếp thu cải tạo xã hội chủ nghĩa với phần tử trí thức của họ đều thuộc về bóc lột, chỉ có công nông là lao động.
Cuộc vận động chống hữu khuynh tuy đã im ắng nhưng việc tranh luận về quan điểm vẫn còn âm ỉ. Trước cơn lốc chính trị vừa kể, nhân vật chính của cuốn sách này - ông Đặng Tiểu Bình - đã chống chọi ra sao? Theo “Đặng Tiểu Bình truyện” do một kí giả người Đức ghi lại và nhà xuất bản Cam Túc ấn hành năm 1989 thì: khi nghe tin “đại dân chủ” ông nghĩ đến chủ nghĩa vô chính phủ, cho nên lần đầu tiên đứng trước người đã từng hợp tác trong suốt 24 năm, Đặng Tiểu Bình phản đối quyết định của Chủ tịch Mao Trạch Đông, ông sợ “trăm nhà đua tiếng” sẽ dấy lên phong trào quần chúng chống lại Đảng Cộng sản, ông không tin tưởng nhân tố tự phát, nhân tố vô tổ chức, ông cho rằng nới lỏng quản lí của Đảng sẽ xuất hiện hỗn loạn không thể nào điều khiển nổi.
Tác giả người Đức hình như thiếu cân cứ khi đi đến kết luận nêu trên, vì tháng ba năm 1979, khi nói chuyện với hội nghị công tác lí luận của Đảng, Đặng Tiểu Bình đã kể lại rằng: “kiên trì chấp hành phương châm trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng”. Rồi tháng mười năm đó, trong lời chúc Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ 4, ông lại phát biểu: “Chúng ta phải tiếp tục ủng hộ phương châm văn nghệ phục vụ quần chúng nhân dân mà trước hết là công nông binh do đồng chí Mao Trạch Đông đề xướng, ủng hộ phương châm trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng, ôn cố tri tân, học tập tinh hoa của nước ngoài, của vốn cổ. Về nghệ thuật, chúng ta chủ trương tự do phát triển phong cách và hình thức khác nhau trong sáng tác, tự do thảo luận quan điểm và trường phái khác nhau trong lí luận”.
Đó là lời nói của ông khi Mao Trạch Đông đã qua đời đúng 3 năm 1 tháng, và còn đây là sự tự phê bình muộn màng sau 23 năm mà ông Đặng Tiểu Bình đã trình bày tại Hội nghị toàn thể Trung ương lần thứ 5 khoá 11, năm 1980: “Trong phong trào chống hữu khuynh năm 1957, chúng ta là phần tử tích cực. Tôi có trách nhiệm về việc mở rộng phong trào vì lúc ấy tôi là Tổng bí thư”.
Nhưng, Đặng Tiểu Bình lại bổ sung; “Đấu tranh chống hữu khuynh năm 1957 là tất yếu và đúng đắn. Nói một cách đơn giản; đấu tranh tự nó không có gì là sai, vấn đề ở chỗ mở ra quá rộng”.
Có lẽ phải đợi nhiều chương hồi nữa mới rõ được suy nghĩ của ông Đặng Tiểu Bình mà kế sau đấy lại là một cơn lốc: đại nhảy vọt.