Chương 9
Từ bài “hịch tướng sĩ” đến sách “Vạn Kiếp tông bí truyền”
Nguồn: NXB Dân trí
Nội dung thu gọn
Ở mấy chương trước, ta đã thấy rõ võ công của đức Trần Hưng Đạo rồi; đến chương này, xin giới thiệu văn nghiệp của vị đại anh hùng dân tộc ấy. Có điều nên nhớ: văn nghiệp của ngài không phải là lối khoa cử từ chương, miệt mài trong những gọt rũa tiểu xảo, mà là thứ văn dọc đất, ngang trời, kinh bang, tế thế. Truyện "Trần Hưng Đạo " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Hiện giờ, ngoài những binh thư của ngài đã thất truyền, ta chỉ còn có thể biết văn ngài qua bài hịch dụ các tướng sĩ bằng Hán văn, viết vào hồi kháng chiến Mông Cổ. Vậy nay xin so sánh nguyên văn đã in trong các sách Toàn thư, Cương mục và Hoàng Việt văn tuyển mà dịch nghĩa và chú giải như dưới:
漢文
余嘗聞之紀 信以身代死而脫高帝由于以背受戈而蔽昭王豫讓吞炭而復主讐申蒯斷臂而赴國難敬德一小生也身翼太宗而得免世充之圍杲卿一遠臣也口罵祿山而不從逆賊之計自古忠 臣義士以身殉國何代無之設使數子區區為兒女子之態徒死牖下烏能名垂竹帛與天地相為不朽哉汝等世為將種不曉文義其聞其說疑信相半古先之事姑置勿論今余以宋韃 之事言之王公堅何人也其裨將阮文立又何人哉以釣魚瑣瑣斗大之城當蒙哥堂堂百萬之鋒使宋之生靈至今受賜骨䚟兀郎何人也其裨將斤修思又何人也冒瘴厲於萬里之途 獗南詔於數旬之頃使韃之君長至今留名況余與汝等生於擾攘之秋長於艱難之際竊見偽使往來道途旁午掉鴞烏之寸舌而凌辱朝廷委犬羊之尺軀而倨傲宰輔托忽必烈之令 而索玉帛以事無已之誅求假雲南王之號而需金銀以竭有限之帑庫譬猶以肉投餒虎寧能免遺後患也哉余常臨飱忘食中夜撫枕涕泣交頤心腹如搗常以食肉寢皮茹肝飲血為 恨也雖余之百身高於草野余之千尸裹於馬革亦願為之汝等久居門下掌握兵權無衣者則衣之以衣無食者則食之以食官卑者則遷其爵祿薄者則給其俸水行給舟陸行給馬委 之以兵則生死同其所為進之在寢則笑語同其所樂其是公堅之為裨兀郎之為副貳亦未下爾汝等坐視主辱曾不為憂身嘗國恥曾不為愧為邦國之將侍立夷宿而無忿心聽太常 之樂宴饗偽使而無怒色或鬥雞以為樂或賭博以為娛或事田園以養其家或戀妻子以私於己修生產之業而忘軍國之務肄畋獵之遊而怠攻守之習或甘美酒或嗜淫聲脱有蒙韃 之寇來雄雞之距不足以穿虜甲賭博之術不足以施軍謀田園之富不足以贖千金之軀妻孥之累不足以充軍國之用生產之多不足以購虜首獵犬之力不足以驅賊眾美酒不足以 鴪虜軍淫聲不足以聾虜耳當此之時我家臣主就縛甚可痛哉不唯余之采邑被削而汝等之俸祿亦為他人之所有不唯余之家小被驅而汝等之妻孥亦為他人之所虜不惟余之祖 宗社稷為他人之所踐侵而汝等之父母墳墓亦為他人之所發掘不惟余之今生受辱雖百世之下臭名難洗惡謚長存而汝等之家清亦不免名為敗將矣當此之時汝等雖欲肆其娛 樂得乎今余明告汝等當以措火積薪為危當以懲羹吹虀為戒訓練士卒習爾弓矢使人人逄蒙家家后羿購必烈之頭於闕下朽雲南之肉於杲街不唯余之采邑永為青氈而汝等之 俸祿亦終身之受賜不唯余之家小安床褥而汝等之妻孥亦百年之佳老不唯余之宗廟萬世享祀而汝等之祖父亦春秋之血食不唯余之今生得志而汝等百世之下芳名不朽不唯 余之美謚永垂而汝等之姓名亦遺芳於青史矣當此之時汝等雖欲不為娛樂得乎今余歷選諸家兵法為一書名曰兵書要略汝等或能專習是書受余教誨是夙世之臣主也或暴棄 是書違余教誨是夙世之仇讎也何則蒙韃乃不共戴天之讎汝等記恬然不以雪恥為念不以除凶為心而又不教士卒是倒戈迎降空拳受敵使平虜之後萬世遺羞上有何面目立於 天地覆載之間耶故欲汝等明知余心因筆以檄云
Ta từng nghe nói: Kỷ Tín đem thân chết thay, cứu thoát Hán Cao Tổ249.
Do Vu lấy lưng đỡ giáo, che đỡ Sở Chiêu Vương250.
Dự Nhượng nuốt than, báo thù cho chủ251.
Thân Khoái chặt tay, cứu nạn cho nước.
Kính Đức là một tiểu sinh, đem thân cứu Đường Thái Tôn cho thoát vòng vây Thế Sung252.
Kiểu Khanh là một tôi xa, lớn tiếng mắng An Lộc Sơn, không theo mưu chước nghịch tặc253.
Từ xưa những kẻ trung thần nghĩa sĩ vì nước quên mình, đời nào chẳng có? Giá thử mấy gã ấy cứ du dú như tuồng nhi nữ, chết uổng ở xó nhà, thì danh họ đâu có để trên sử xanh, cùng trời đất trường thọ mà bất hủ.
Các ngươi nối đời, làm con nòi nhà tướng, không hiểu văn nghĩa, mới nghe ta nói, hãy còn nửa tin nửa ngờ. Những chuyện ngày xưa ấy không bàn vội. Nay ta hãy nói chuyện đời Tống, đời Nguyên:
Vương Công Kiên254 là người thế nào? Tì tướng của Kiên là Nguyễn Văn Lập255 lại là người thế nào? Vậy mà dám đem cái thành Điếu Ngư256 nhỏ mọn bằng chiếc đấu chống với mũi gươm nhọn bén ngồn ngộn hàng trăm vạn quân của Mông Kha257, khiến cho sinh linh nhà Tống đến nay còn nhờ ơn đấy. Truyện "Trần Hưng Đạo " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Cốt Đãi Ngột Lang258 là người thế nào? Tì tướng của Ngột Lang là Cân Tu Tư259 lại là người thế nào? Vậy mà xông pha lam chướng trên đường muôn dặm trong khoảng vài tuần, đánh quỵ được quân Nam Chiếu260 khiến cho Quân trưởng Thát Đát261 còn để danh tiếng đến giờ.
Huống chi ta với các ngươi sinh ra ở buổi rối ren, lớn lên giữa lúc chật vật, chính mắt trông thấy sứ ngụy qua lại, tới tấp trên đường, uốn tấc lưỡi cú vọ làm nhục triều đình, đem tấm thân chó dê khinh lờn tể phụ! Mượn mệnh lệnh Hốt Tất Liệt262 mà đòi ngọc lụa để làm việc hạch sách không chán; dựa hiệu lệnh Vân Nam vương263 mà vòi vàng bạc để khoét của kho đụn có ngần! Thế khác nào đem thịt ném cho cọp đói, tránh sao khỏi lo về sau?
Ta từng đến bữa quên ăn, ban đêm vỗ gối, nước mắt nước mũi trào ra gò má, lòng đau như rần, thường căm giận rằng “không được”264 nuốt thịt, nằm da, ăn gan, uống máu quân địch. Thân ta dù phải chặt làm trăm mảnh mà dính khắp cả đồng, thây ta dù phải chết đến nghìn lần mà bọc vào da ngựa, ta cũng sẵn lòng, xin làm.
Các ngươi ở môn hạ ta đã lâu, nắm giữ binh quyền: ai không có áo thì cho áo mặc; ai không có ăn thì nuôi cho ăn; quan thấp thì thăng cho tước; lộc bạc thì ban cho bổng; đi thủy thì cấp cho thuyền; đi cạn thì phát cho ngựa; giao cho việc binh thì sống chết có nhau; mời vào trong nhà thì cùng vui cười nói. Như vậy sánh với Công Kiên làm tì tướng, Ngột Lang làm phó nhị, nào có kém đâu?
Các ngươi ngồi nhìn chủ nhục, chẳng hề lấy thế làm lo; chính mình phải “nếm”265 quốc sỉ, chẳng hề lấy thế làm thẹn; làm ông tướng ở nước trung ương266, phải đứng hầu đứa trùm mọi mà không rực lòng căm tức! Nghe khúc nhạc thái thường267 phải đem tấu thết sứ giặc yến ẩm mà không nổi vẻ giận hờn! Hoặc chọi gà mua vui, hoặc cờ bạc lấy thích, hoặc chăm ruộng vườn để nuôi nhà, hoặc quấn quýt vợ con để thỏa tình riêng. Sửa nghiệp sinh sản mà quên việc quân, quốc; ham chơi săn bắn mà chểnh mảng tập tành đánh, giữ; hoặc nghiện rượu ngon; hoặc mê tiếng dâm... Thoắt có giặc Mông Cổ Thát Đát xông đến, thì cựa gà sắc không đủ đá rách được áo giáp giặc; mánh lới cờ bạc không đủ dùng làm mưu chước việc quân; giàu có điền viên không đủ chuộc được tấm thân nghìn vàng; bận bịu vợ con không đủ sung vào công việc quân quốc; sinh sản được nhiều không đủ để mua đầu giặc; rượu ngon không đủ đầu độc quân giặc; tiếng dâm không đủ làm điếc tai giặc!
Đương lúc bấy giờ thày trò nhà ta bị trói, đáng đau đớn lắm thay! Chẳng những thái ấp268 ta bị tước, mà bổng lộc các ngươi cũng bị kẻ khác chiếm mất; chẳng những gia quyến ta bị xua đuổi, mà vợ con các ngươi cũng bị kẻ khác bắt sống; chẳng những xã tắc tổ tông ta bị kẻ khác chà lấn, mà mồ mả cha mẹ các ngươi cũng bị kẻ khác đào lên; chẳng những ta kiếp này chịu nhục, dẫu trăm đời sau cũng khó rửa sạch tiếng nhơ, còn mãi đến thụy269 xấu; mà gia thanh nhà các ngươi cũng không tránh khỏi cái tiếng là viên tướng bại trận! Trong khi bấy giờ, các ngươi dẫu muốn buông tuồng vui sướng, phỏng có được không?
Nay ta bảo rõ các ngươi: nên nghĩ đến cơ nguy là dấm lửa chỗ chất củi270, nên răn cái nạn đã trải là bỏng canh một lần thì thổi cả dưa lạnh271, phải rèn dạy quân lính, tập tành cung tên, khiến người này người khác đều là Bàng Mông272 nhà nào nhà nấy đều là Hậu Nghệ273, bêu đầu Hốt Tất Liệt ở dưới cửa khuyết, xả thịt Vân Nam vương ở chốn cảo nhai274, thì chẳng những thái ấp ta giữ được làm chiếc “chiên xanh”275 mãi mãi, mà bổng lộc các ngươi cũng là ơn ban suốt đời được hưởng; chẳng những vợ con ta được yên trên giường đệm, mà vợ con các ngươi cũng được bách niên giai lão; chẳng những tông miếu ta được tế lễ muôn đời, mà ông cha các ngươi cũng được hưởng huyết thực276 trong những kỳ xuân thu cúng tế; chẳng những ta đời nay đắc chí, mà các ngươi trăm năm sau cũng bất hủ, còn mãi tiếng thơm; chẳng những tên thụy ta đẹp mãi đời đời, mà tên họ các ngươi cũng để thơm trên sử sách. Đương lúc bấy giờ, các ngươi dẫu không muốn bày cuộc vui sướng, phỏng có được chăng?
Ta nay đã soạn binh pháp các nhà làm thành cuốn sách, đặt tên là “Binh thư yếu lược”. Các ngươi nếu biết chuyên tập sách này, nghe lời ta dạy thì là thầy trò từ kiếp trước đến giờ: nếu vất bỏ sách này trái lời ta dạy, thì là kẻ thù từ kiếp trước đến đời nay.
Sao vậy? Mông Cổ Thát Đát là quân thù không đội trời chung, các ngươi đã nhơn nhơn không nhớ rửa hờn, không nghĩ trừ dữ, lại không rèn dạy quân lính, thế là giở giáo, đón giặc, tay không, chịu hàng, khiến sau trận thành Bình Lỗ277 để xấu muôn đời, thì còn mặt mũi nào đứng trong vòng trời che đất chở nữa?
Vậy muốn các ngươi biết rõ lòng ta, nhân cầm bút viết lời hịch.
***
Đức Trần Hưng Đạo lại có thập tập binh pháp các nhà, làm thành Bát quái Cửu cung đồ, gọi là Vạn Kiếp tông bí truyền thư. Sách ấy nay không còn nữa. Giờ ta chỉ có thể dựa vào lời Tựa của Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư như có chép ở sử Toàn thư, quyển 6, tờ 14b-15b mà biết sơ qua nội dung binh thư của Trần Quốc Tuấn.
Tác giả bài Tựa ấy mở đầu bằng mấy câu này: “Người giỏi cầm quân thì không cần bày trận, người giỏi bày trận thì không cần đánh, người giỏi đánh thì không thua, người biết thua thì không chết...” (Dịch theo nguyên văn chữ Hán).
Rồi nhà viết Tựa cho ta biết đến yếu chỉ của sách: “... Quốc công278 ta bèn hiệu đính, biên soạn đồ pháp các nhà, tập thành một bộ. Dẫu rằng mảy chút nào cũng biên chép cả, nhưng khi dùng thì phải bỏ bớt cái phiền, tóm lấy cái thực. Lại ứng dụng theo Ngũ hành279, quyền nghi theo Cửu cung280, phối hợp theo thể cứng mềm, tuần hoàn trong vòng lẻ chẵn, không lẫn lộn âm, dương, thần, sát281, lợi phương282, cát diệu283, hung thần284, ác tướng285, tam cát286, ngũ hung287: thảy đều rõ ràng, phảng phất tinh thần đời Tam đại (Hạ, Thương, Chu). Trăm trận đánh đều được toàn thắng. Cho nên đương thời, phía bắc, làm rung động cả Hung Nô (chỉ Mông Cổ) phía tây, uy phục được Lâm Ấp (tức Chiêm Thành). Ngài bèn trao lại sách này để làm gia truyền, chứ không tiết lộ ra ngoài.
Ngài lại dặn rằng: “Về sau, phàm các con cháu hoặc các bồi thần của ta được cái bí thuật này thì nên coi là minh triết, theo đấy mà dàn thế, bày trận, chứ không nên kháo nhau cho là một áng di văn gàn dở mờ tối. Nếu không nghe lời ta dặn bảo thì chính thân mình sẽ chuốc lỗi, mắc hại, mà cả đến con cháu cũng phải vạ nữa. Đó vì làm lộ thiên cơ”. (Dịch theo nguyên văn chữ Hán). Truyện "Trần Hưng Đạo " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Nhân bài Tựa của Trần Khánh Dư, ta biết thêm rằng trong đức Trần Hưng Đạo, có võ tất có văn: đã “biết” phải hợp một với “làm”, nên binh pháp ngài đem ứng dùng thì “trăm trận đánh đều được toàn thắng” (bách công toàn thắng) như nhà đề Tựa đã nói đó.
Chú Thích
249. Hán Cao Tổ (206-195 TCN) bị Hạng Vũ vây, gấp quá, Tín bèn giả là Hán Cao, thay ra hàng Sở: vì thế, Hán Cao trốn thoát còn Tín bị Hạng Vũ thiêu chết.
250. Sách Tả truyện chép Sở Chiêu vương bị giặc lấy giáo đâm, Do Vu chìa lưng mình ra che đỡ cho Sở Chiêu.
251. Dự Nhượng người nước Tấn, đời Chiến Quốc (481-221 TCN); thờ Trí Bá. Khi Triệu Tương Tử và Hàn Ngụy diệt Trí Bá, Nhượng bèn sơn mình như quỷ, nuốt than làm câm, mưu giết Tương Tử để báo thù cho Trí Bá; nhưng hai lần cùng bị Tương Tử bắt được. Lần trước, được Tương Tử thả ra; lần sau, Nhượng đòi xin cái áo của Tương Tử mà đánh để tỏ ý trả thù cho Trí Bá rồi tự sát.
252. Đường Thái Tôn (627-649) tên là Lý Thế Dân, khi còn làm Tần vương, có đánh nhau với Vương Thế Sung, bị Thế Sung vây khốn, nhờ có Kính Đức cứu giúp mới thoát được vòng vây.
* Đường Thái Tôn (627-649): Đây là thời gian tại vị. (BT)
253. Đời Đường Huyền Tôn (713-755), An Lộc Sơn nổi loạn, Kiểu Khanh giữ lòng trung nghĩa, không chịu theo giặc.
* Đường Huyền Tôn (713-755): Đây là thời gian tại vị. (BT)
254. Người đời Tống.
255. Hoặc Nguyễn Sơn Lập.
256. Tức là thành Hợp Châu, vì thành này ở núi Điếu Ngư, nên mới đặt tên như thế. Nay thuộc phủ Trùng Khánh, tỉnh Tứ Xuyên, Trung Hoa. Khi Mông Kha bên Nguyên xâm nhà Tống, vây thành này, viên Tri châu thành Điếu Ngư bên Tống là Vương Kiên (Nguyên sử chép là Vương Kiên, không có chữ đệm là “Công”), cố sức chống giữ được hàng năm tháng, khiến quân địch không hạ nổi thành. Quân Nguyên phải giải vây, rút về.
257. Tức Mông Ké, vua Mông Cổ, miếu hiệu là Hiến Tôn, anh Hốt Tất Liệt.
258. Tức Wouleangotai mà Nguyên sử chép là Ngột Lương Hợp Thai (hoặc Ngột Lương Cáp Thai). Thông giáp tập lãm chép là Ô Đặc Lý Cáp Đạt.
259. Toàn thư, và Cương mục đều chép là Cân Tu Tư, còn Hoàng Việt văn tuyển in là Xích Tu Tư vì “Cân”(斤) và “Xích”(斥) mặt chữ gần giống nhau.
260. Sau là Đại Lễ, hoặc Đại Lý, nay là Vân Nam.
261. Tức Mông Cổ.
262. Tức Nguyên Thế Tổ.
263. Sau khi lấy được Đại Lý (nay là Vân Nam) Nguyên Thế Tổ bèn phong cho con là Hốt Kha Xích làm Vân Nam vương để cai trị.
264. Theo Cương mục có hai chữ “bất năng”, Toàn thư, không có.
265. Theo Toàn thư, chép là “thường” (嘗). Còn Cương mục và Hoàng Việt văn tuyển đều in là “đương” (當).
266. Đây theo Toàn thư, quyển 6, tờ 11b-14a chép là “trung quốc”, nên dịch là “nước trung ương”. Chừng đức Trần Hưng Đạo, tác giả bài hịch, bấy giờ, muốn nâng cao địa vị quốc gia lên để khích lệ tướng sĩ, nên mới nói nước mình là “trung quốc”, mà mạt sát Mông Cổ là di địch (gọi trùm Mông Cổ là “di tù”). Bùi Tồn Am, khi soạn bộ Hoàng Việt văn tuyển có lẽ không thấu rõ cái thâm ý ấy của đức Trần Hưng Đạo, nên tưởng sử cũ in lầm bèn dám tự tiện đổi hai chữ “trung quốc” làm “bang quốc”. (Xem Hoàng Việt văn tuyển, quyển 7, tờ 1b-4b).
267. Theo Từ nguyên, thì “thái thường” chỉ có hai nghĩa: cờ thái thường và chức quan đời Hán giữ lễ nghi nơi tôn miếu. Đây nói “nhạc thái thường” có lẽ là một thứ nhạc thờ đời Trần dùng để tế tự nơi tông miếu chăng?
268. Đời phong kiến, phàm đất mà khanh, đại phu được phong để thu lấy thuế má làm bổng lộc, gọi là “thái ấp” hoặc “thực ấp”.
269. Lối xưa, khi ai đã chết, sắp đem chôn, thì người ta xét theo đức tính bình sinh của nấy mà đặt cho tên hiệu để thay cho tên húy. Sau theo chế độ phong kiến, xã hội chia nhiều giai cấp: vua quan mới được gọi là “tên thụy” người thường gọi là “tên hiệu”. Tên thụy xấu như “U vương” (vua Tối tăm) và “Lệ vương” (vua Hung dữ) đời Chu.
270. Nguyên văn là “thổ hỏa tích tân”, chữ trong Hán thư, đem lửa để ở dưới chỗ chứa củi mà nằm lên trên; thấy lửa chưa kịp bốc cháy, đã vội gọi là yên ổn. Ý nói phải lo cái vạ ngấm ngầm.
271. Nguyên văn là “trừng canh suy tê”, chữ trong Sở từ. Ý nói phải kiêng răn quá lắm.
272. Đều là những thiện xạ bên Trung Quốc xưa.
273. Đều là những thiện xạ bên Trung Quốc xưa.
274. Đời Tống, chỗ nhà để cho mán mọi ở. Khi họ vào triều cận gọi là “cảo nhai”.
275. Do điển trong Thế thuyết (Vương Tử Kính đêm nằm trong nhà, có bọn trộm vào nhà, vơ vét hết cả đồ đạc. Vương thủng thẳng bảo: “Chiếc chiên xanh là đồ lâu đời của nhà ta, các anh phải bớt lại đấy”.)
276. Xưa dùng huyết con sinh để cúng tế, nên gọi sự được hưởng cúng tế là “huyết thực”.
277. Theo lời chua trong Dư địa chí của Nguyễn Trãi, thì triều Lý có đào sông Bình Lỗ để tiện đi lại ở miền Thái Nguyên. Vậy thành Bình Lỗ chắc ở địa phận Thái Nguyên.
278. Chỉ đức Trần Hưng Đạo.
279. Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ.
280. Cửu cung qui thân là: Thái nhất, Nhiếp đề, Quyền chủ, Chiêu đao, Thiên phù, Thanh long, Hàm trì, Thái âm và Thiên nhất. Nếu tính theo phép lịch, thì Cửu cung gồm chín vì sao này: Thiên bồng, Thiên nhuế, Thiên hành, Thiên phụ, Thiên cầm, Thiên tâm, Thiên trụ, Thiên nhậm và Thiên anh.
281. Giết chết.
282. Phương hướng thuận lợi.
283. Sao lành.
284. Thần dữ.
285. Ông tướng hung ác.
286. Ba điều lành.
15.06.2015
Chương 10
Nhắc lại những kinh nghiệm đã chiến thắng Mông Cổ Truyện "Trần Hưng Đạo " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Nguồn: NXB Dân trí
Nội dung thu gọn
Để thay lời kết luận cả sách, chương này xin nhắc lại đôi chút kinh nghiệm mà đức Trần Hưng Đạo đã để lại trong mấy cuộc kháng chiến Mông Cổ.
Mông Cổ sang lấn cướp, có chuyến đem tới năm mươi vạn quân.
Về bên ta, chuyến nào phải động viên nhiều nhất chỉ đến hơn hai mươi vạn quân là cùng. Nhưng theo lối tổ chức binh bị đương thời, thì “khi hữu sự, hết thảy nhân dân đều là binh lính” (Cương mục, quyển 6, tờ 26b). Chép về mấy chuyến kháng Nguyên, tác giả An Nam chí lược thường dùng những câu như “cả nước đều đón đánh”288 hoặc “suốt nước đều chống giặc”289. Mà Lịch triều hiến chương cũng chép: “Trăm họ đều là quân lính, nên mới phá được giặc to và làm mạnh được thế nước”. (Binh chế chí).
Mông Cổ, trong năm Đinh Hợi (1287), đánh kinh thành Thăng Long, đã dùng đến súng, ngoài những cung nỏ là ngón trội nhất của quân địch.
Còn bên ta, chỉ có thứ tên tẩm thuốc độc là một chiến cụ lợi hại nhất. Thế là, về võ khí, ta cũng kém sút quân địch. Nhưng ta nắm được mấy ưu điểm này:
“Mông Cổ lợi ở trường trận, ta lợi ở đoản binh. Lấy đoản mà chế trường”. (Lời Trần Hưng Đạo).
“Quân giặc hàng năm đi xa muôn dặm, lịu địu những đồ tri trọng, thế tất mệt mỏi. Ta lấy sức thong thả mà chờ đợi đằng nhọc nhằn, trước hãy đánh cho chúng bạt hơi sức đi thì thế nào cũng phá được”. (Lời Trần Nhân Tôn).
Chính đức Trần Hưng Đạo đã nói: “Năm trước, quân Nguyên vào lấn cướp, dân ta chưa biết việc binh, nên mới có kẻ xuống hàng và người lẩn tránh. Nếu chúng lại sang, quân sĩ ta đã quen trận mạc, mà chúng thì nhọc mệt vì phải đi xa, lại chột vì việc Toa Đô, Hằng, Quán đã thua lần trước, không có tinh thần chiến đấu, thì tất thế nào cũng phá được”.
Và ngài đã cầm chắc thắng lợi cuối cùng trong trận kháng Nguyên lần thứ ba, nên mới ung dung nói: “Thế giặc năm nay nhàn!”. Ý nói dễ đánh, không có gì đáng lo ngại.
Đến khi tác chiến, lại khôn khéo áp dụng được những chiến lược và chiến thuật như:
Thỉnh thoảng xin hòa để hòa hoãn tình thế.
Giả cách xin hàng để làm kiêu khí quân giặc.
Bỏ kinh đô Thăng Long, lẩn tránh ở các miền rừng núi để bảo toàn lấy quân chủ lực.
Trước khi rút bỏ kinh đô, chỉ để cung không, điện trống với ít giấy tờ không quan trọng, còn thì dọn đi và tiêu hủy hết cả.
Trong dân gian, tuy không thấy sử chép làm chước “thanh dã”290, nhưng năm Mậu Tý (1288), giặc Mông Cổ, sau khi lương thuyền bị đánh đắm ở cửa Lục291, phải đổ đi các ngả để cướp lương thực, rồi phải rút về vì thiếu ăn, thì đủ biết có lẽ bấy giờ thóc gạo trong dân gian, phần thì giấu đi, phần thì tiêu hủy, nên quân giặc mới khó kiếm lương thực đến thế. Truyện "Trần Hưng Đạo " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Cố ý làm cho quân địch mỏi mòn, chán chối, “muốn đánh cũng không được đánh”292 để đợi thời cơ thuận tiện, bấy giờ mới kịch liệt phản công.
Quân ta, thường lẩn tránh, không giữ chiến tuyến nhất định, nên chuyến Toa Đô từ Chiêm Thành kéo ra Nghệ An, Thanh Hóa, như vào chỗ đất không người. Kịp lúc phản công, bấy giờ ta mới tập trung lực lượng293, tiên phát chế nhân294 nên Toa Đô mới bị rụng đầu ở Tây Kết. Truyện "Trần Hưng Đạo " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Để tiêu hao lực lượng địch và làm cho tinh thần địch phải xao xuyến, đêm đến, ta thường tung ra những quân cảm tử, đột kích các đồn, các trại giặc Nguyên295.
Trong việc chiến trận, không cứ đời nào và ở đâu, bao giờ cũng phải đặt vấn đề tiếp tế lên trên hết. Đức Trần Hưng Đạo đã nhìn rõ điểm ấy, nên trong cuộc chiến tranh tự vệ lần thứ ba, ta hai phen đánh đắm được lương thuyền của giặc Mông Cổ, vì vậy mới giật được thắng lợi oanh liệt ở trận Bạch Đằng (1288).
Liệu trước Mông Cổ thế nào cũng thất bại, mà mùa viêm nhiệt296 lại là thời kỳ bất lợi cho giặc ngoài, phương lược phản công của Trần Hưng Đạo được sửa soạn, xếp đặt rất chu đáo: Mặt bộ thì lợi dụng những đường hiểm trở ở các quan ải mà đặt phục binh; mặt thủy thì phỏng theo chiến thuật của Ngô Vương Quyền, lợi dụng thủy triều lên xuống ở Bạch Đằng mà đóng cọc sông, lừa đánh giặc.
Ngoài cách tích cực để đánh Mông Cổ, đương thời còn áp dụng được cách tiêu cực nữa:
Một mặt yết bảng khuyên các quận huyện phải liều chết đánh giặc, nếu sức không địch nổi thì cho phép lẩn tránh, cấm không được hàng, như một chương trên đã nói; một mặt nghiêm trị những kẻ phản quốc hàng Nguyên để làm gương răn cho kẻ khác.
Sử chép: Tháng chín, năm Nhâm Tuất (1262), lục xét tù đồ: phàm tội nặng hay nhẹ đều được tha cả, chỉ trừ những kẻ hàng giặc khi Mông Cổ sang lấn cướp (Toàn thư, quyển 5, tờ 27b; Cương mục, quyển 7, tờ 5a). Vì vậy, dân gian đương thời mới có những chuyện như dân quân tự động truy kích giặc Nguyên, tướng sĩ trổ sức đánh giết những kẻ phản quốc. Cũng chính vì thế, Trần Kiện mới bị bắn chết ở trại Ma Lục; Lê Tắc mới bị đánh bật khỏi ải Chi Lăng297.
Vả, đương thời còn có những bí quyết để hùng sức quân, mạnh thế nước, đi đến cái đích thành công trong mấy cuộc kháng chiến Mông Cổ, kẻ viết cần phải trình bày thêm nữa.
Đến đây, xin dịch mấy lời đối thoại giữa đức Trần Hưng Đạo và vua Trần Anh Tôn.
Khi Hưng Đạo vương đang nằm bệnh, vua Anh Tôn thân đến nhà riêng thăm ngài và hỏi: “Rủi khi Đại vương khuất núi đi rồi, nếu giặc Bắc lại sang lấn cướp thì tính chước ra sao?”.
Ngài thưa: “Xưa, Triệu Vũ Đế lập quốc, vua Hán cho quân sang đánh, Triệu Vũ bảo dân đốt phá sạch quang đồng nội, không để quân địch cướp bóc được lương thảo, rồi đem đại binh ra châu Liêm, châu Khâm, đánh Trường Sa298, dùng đoản binh úp ở sau: đó là một thời.
Đời Đinh, đời Lê, lựa dùng được người hiền lương: bấy giờ bên Bắc đang mỏi mệt suy yếu, còn bên Nam thì mới mẻ hùng cường, trên dưới đồng đồng một ý, lòng dân không chia lìa, đắp thành Bình Lỗ mà phá quân Tống: đó là một thời thôi.
Nhà Lý mở nghiệp, quân Tống sang xâm lấn đất đai bờ cõi, vua Lý dùng Lý Thường Kiệt đánh Khâm, Liêm, tiến đến tận Mai Lĩnh: đó là có thế làm được.
Trước đây Toa Đô, Ô Mã Nhi, bốn mặt bao vây. Phía ta, vua tôi đồng tâm, anh em hòa thuận, cả nước cùng họp sức, chúng mới bị bắt: đó là lòng Trời xui nên.
Đại khái kẻ kia cậy trường trận, ta cậy đoản binh: lấy đoản chế trường: đó là lối thường làm của binh pháp. Hễ thấy quân kia tràn đến, ầm ầm như lửa, như gió, thì cái thế ấy dễ trị. Nếu nó dùng chước như tằm ăn dần, ung dung, thủng thẳng, không vụ của dân, không cần mau thắng, thì ta phải lựa dùng lương tướng, xem tình hình mà liệu quyền biến như đánh cờ vậy. Nhưng phải tùy từng lúc mà liệu chiêu, cốt có hạng quân sĩ thân tín như tình cha con thì mới dùng được. Vả, phải nới lỏng sức dân để làm cái chước rễ sâu gốc vững. Đó là phương sách giữ nước hay hơn cả” (Toàn thư, quyển 6, tờ 8b-9b; Cương mục, quyển 8, tờ 31a-32a).
Nhân những lời ngài đáp vua Trần Anh Tôn trên đây, ta nhận thấy:
Về việc dụng binh, ngài như một tay cao cờ tùy cơ ứng biến, nhìn xa, trông rộng, chứ không khư khư theo một đường lối. Nhưng cái chìa khóa để mở cửa “Khải hoàn” là, trong chỗ hàng ngũ, tướng với quân, thương yêu nhau, thân tín nhau, như tình cha con ruột thịt.
Về thuật giữ nước, ngài lấy dân làm căn bản: “dân là quý”, “dân là gốc nước”. Đối với cái gốc ấy, phải trồng cho sâu, vun cho vững, chứ không nên nhũng nhiễu dân, bóc lột dân, sưu cao, thuế nặng, chính lệnh phiền hà, để làm hao của dân, kiệt sức dân. Vì vậy ngài mới căn dặn vua Trần Anh Tôn phải “khoan dân lực”.
Sau mấy cuộc chiến thắng Mông Cổ, đức Trần Hưng Đạo chẳng những nâng Việt Nam lên địa vị “hùng cường” ở trong “thiên hạ”299 đương thời, mà chính uy danh ngài cũng lừng lẫy ra nước ngoài và tràn ngập cả người ngoài nữa:
Trong Nguyên sử chỗ nào cũng chép là “Hưng Đạo vương” để tỏ ý kính trọng.
Một bạn Hoa Kiều, ngụ ở Hải Dương, tên là Mã Tân Thắng, hồi năm Kỷ Mão đời Tự Đức (1848-1883), có cung tiến vào đền Kiếp Bạc một bức hoành đề bốn chữ “Đức uy viễn sướng”300 để giải lòng hâm mộ ngài.
Dân gian ở Quảng Tây từ trước đến giờ thường hay dọa trẻ quấy khóc bằng bốn tiếng “Hính tàu tài voòng”301. Nhiều khi họ lại còn viết bốn chữ ấy vào giấy đỏ dán ở đầu giường trẻ nằm để trấn át cho trẻ khỏi khóc đêm nữa302.
Người ta còn nói: khoảng năm 1945, một nhà báo Nhật qua chơi Việt Nam, đi thăm đền kiếp, nhân đôi câu đối đề ở cột trụ trước cửa đền, tả núi Vạn Kiếp đầy những “khí kiếm” và nước Lục Đầu đều là “tiếng thu”303, có cảm xúc viết một bài thơ bằng Hán văn để tỏ ý ngưỡng mộ đức Trần Hưng Đạo:
Thanh kỳ biệt hữu thử giang sơn,
Sản xuất anh hùng biểu thế gian.
“Kiếm khí” do kinh Hồ lỗ phách,
“Thu thanh” túc sái, thủy sàn sàn...304
Dịch nghĩa:
Ở đây, riêng có cảnh núi sông thanh kỳ này,
Chung đúc nên trang anh hùng làm tiêu biểu cho thế gian.
Cái hơi thanh kiếm của ngài đủ làm cho giặc Mông Cổ phải kinh hồn, mất vía!
Tiếng mùa thu rin rít lạnh lùng, nước Lục Đầu ào ào dào dạt...
Chú Thích
287. Năm điều dữ.
288. Nguyên văn: “Cử quốc nghênh địch” (舉國迎敵).
289. Nguyên văn: “Cử quốc cự địch” (舉國拒敵).
290. Dọn sạch đồng nội, không để thóc lúa cho quân địch được lợi.
291. Ở Hòn Gai bây giờ.
292. An Nam chí lược, quyển 13, tờ 4a chép: “Quan quân (chỉ quân Mông Cổ) dục chiến bất đắc”.
293. Chẳng hạn: trận Tây Kết có nhiều đạo quân như quân Trần Nhật Duật, quân Trần Quang Khải, quân Trần Quốc Toản, quân Nguyễn Khoái và quân hai vua Trần cùng đến dự chiến.
294. Làm trước để chế trị người.
295. Theo tài liệu trong An Nam chí lược như trong chương tám đã thuật.
296. Nắng nóng. (BT)
297. Xem thêm “Bảng kê những tên phản quốc, hàng giặc Nguyên” ở cuối sách.
298. Về điểm địa lý này, tác giả Trần Trọng Kim có viết ở Việt Nam văn học sử, quyển thượng (in lần thứ hai, năm 1928) trang 140 rằng: “... Triệu Võ Vương đóng đô ở Phiên Ngung, tức là gần thành Quảng Châu bây giờ, mà châu Khâm, châu Liêm thì ở giáp giới nước ta. Lẽ nào đi đánh Trường Sa ở tỉnh Hồ Nam mà lại quay trở lại châu Khâm, châu Liêm... Có lẽ rằng Hưng Đạo vương lúc nói chuyện đó tưởng rằng kinh đô của Triệu Võ Vương ở đâu bên nước ta bây giờ, cho nên mới nói như thế chăng”.
299. Cũng như ngày nay gọi là “quốc tế”.
300. (德威遠暢) nghĩa là “công đức và oai danh truyền rộng ra trận nơi xa”.
301. Hưng Đạo đại vương.
302. Theo báo Kiến quốc, số 1, ngày 11, tháng 10, năm 1949.
303. Câu đối ấy thế này: “Vạn Kiếp hữu sơn giai kiếm khí − Lục Đầu vô thủy bất thu thanh”.
304. Với tất cả mọi sự dè dặt, kẻ viết chỉ xin thuật bài thơ của nhà báo Nhật này theo như ông Lam Sơn đã kể lại trong cuốn Hưng Đạo đại vương, trang 11. Lại theo ông Lam Sơn, thì dưới bài thơ này, nhà báo Nhật ấy có viết thêm mấy câu, đại ý: “Cũng hồi thế kỷ mười hai (có lẽ in lầm hoặc nhớ lầm; thực ra bấy giờ là thế kỷ mười ba, chứ không phải mười hai), hơn hai mươi vạn quân Mông Cổ cũng dầm dộ (rầm rộ) chực kéo sang đánh chiếm nước Nhật, nhưng chưa tới nơi đã bị trận sóng gió gớm ghê, dao (bao) nhiêu chiến thuyền đều bị chìm đắm, quân địch chết đuối gần hết, sống sót trở về không còn được vạn người...” (Về việc nước Nhật gặp cái may này mà thoát vạ Mông Cổ xâm lược, nhiều bộ sử ta và sử Trung Hoa cũng đã nói đến).